Chương Bốn
Cứu-Chuộc
Nhờ tình Thương-yêu
Công-chính
(bài 20)
“Cơ-cấu thiết-lập mọi thực-tại, thật ra là lòng xót
thương hết mọi sự”. (Noel
Rowe)
“Ân-huệ, giống như người nữ đẹp-xinh tạo âm-nhạc ở bất cứ
nơi nào Chị đặt chân đến. Ân-huệ mang trong mình, chỉ một hạt ngọc đơn-thuần,
nhưng khi Chị đã đi vào toàn-bộ thế-giới hiện-thực ở mọi nơi, và khi Chị chấp-thuận
hết mọi sự theo cách-thức không đòi điều-kiện, thì Chị đã có thể chữa lành và
tha thứ hết, mà không cần nghĩ-suy. Ân-huệ chấp-nhận mọi sự, chỉ như thế cũng
có khả-năng loại-trừ mọi món nợ và ân-cần phụ-đỡ hết mọi thứ khiến ta xấu hổ.
Ân-huệ mang trong người, thứ “nghiệp-căn” mâu-thuẫn, hầu đem đến cho ta những
gì ta đáng được hưởng. Nhưng, chẳng khi nào ta hưởng được những gì mình xứng-đáng
từ Ân-huệ, ngoại trừ sự lặng-thinh. Và, Ân-huệ đã ngưng không nói chuyện khi gần
gũi ta. Ân-huệ vẫn ra đi tìm đến hết mọi thứ, để tác-tạo vẻ đẹp của mình ở nơi
nào Chị đặt chân đến.” (Ben Witherington iii)
Ơn Cứu-Chuộc, là nhiệm-tích
rất đáng yêu. Là, những gì bí-ẩn của Tình Thương-yêu cao cả gồm có sự Công-chính
nữa. Đây, là thứ bí-nhiệm của Công-chính không tục-phàm, với ta.
Nếu có ai hỏi:
“Tình thương-yêu thật
ra có nghĩa gì?”
“Sự Công-chính từ đâu đến?”
thì câu trả lời, hẳn
sẽ bao-gồm cả tình Thương-yêu thần-thánh, tức: sự Công-chính thánh-thiêng của
Thiên-Chúa. Thành thử, ta nên dừng lại một chút, trước khi đặt mình vào với dữ-kiện
của Kinh Sách và Thánh-truyền, để rồi sẽ suy thêm về Chúa với câu hỏi đặt ra từ
bao giờ:
“Thiên-Chúa, Ngài là Đấng
nào?”
“Ngài yêu-thương ta đến
mức độ nào?”
“Ngài có công-bằng
chính-trực đích-thực không?”
Vấn-đề đây, lại đề ra
một số phương-án để ta theo, tức: những phương-án tương-tự như ở Kinh-Thánh,
tâm-lý-học và kinh-tế/tài chánh của nhiều người.
Phần 1:
Ơn Cứu-Chuộc
và phương-án ở Kinh-Thánh
Trước hết, tôi muốn tạo dịp để anh em mình
bàn về Kinh-thánh trước hết. Bởi, Kinh-thánh luôn đính-kèm một công-trình luận-giải
cũng rất mới về sự Công-minh/chính-trực của Chúa, theo cách mà người Đức vẫn
làm. Ở đây, tôi chú-tâm đến lập-trường của tác-giả Hartmut Gese, thuộc trường-phái
Tubingen. Lập-trường ông đề-xuất, đã mở ra một số tư-tưởng bàn về chất-lượng của
lòng xót thương, vô bến bờ.
Ở đây nữa, tôi lại sẽ ghi thêm lối diễn-giải
cũng khá mới được một giáo-sĩ người Pháp thuộc Dòng Đa-Minh, đó là: Lm
Christian Duquoc, tỉnh dòng Lyons, đưa ra. Và, ở tông-thư “Thiên-Chúa Là Tình-yêu”, Đức Bênêđíchtô 16 cũng đưa ra lề-lối hiểu-biết
về tình Thương-yêu thần-thánh, tức: tình Yêu-thương đích-thực mà người Hy Lạp gọi
là “Eros” chứ không chỉ là tình
thân-thương mến-mộ vẫn được định-danh là Agapè
bên tiếng Hy-Lạp, vốn đem đến cho
ta lý-lẽ cần-thiết hầu hội-nhập vào sự Công-minh thần-thánh có thương-yêu
đích-thực.
Cung-cách diễn-giải
của người Đức
theo trường-phái Tubingen
Cũng nên xem thêm
tác-giả Richard Bell, Sacrifice and
Christology in Paul, Journal of Theological Studies (Oxford), 2002, April, tr.
1-27. Bài viết này sử-dụng một số nghiên-cứu rút từ trường-phái Tubingen, cách đây
không lâu. Bài viết, tiếp theo diễn-luận của Hartmut Gese trong “Die Suhne”, Zur biblischen Theologie,
Tubingen, 1977 (1989).
ET
K. Crim Atonement, Essays in biblical theology, Augsburg 1981. Ngoài hai
tác-giả này ra, cũng trong chiều hướng tương-tự, còn có cả Janowski,
Stuhlmache, Hofius nữa.
Quan-điểm mà quý vị đây đưa ra, lại
mang ý-niệm về sự công-chính vốn duy-trì quan-hệ giữa Thiên-Chúa và loài người;
nhưng đúng thực lại là: giữa Đức Giêsu và dân con từng phạm lỗi ở trong Đạo. Thật
ra thì, đây không là sự công-minh/chính-trực theo kiểu người phàm, như ta hiểu.
Từ nơi đây, ta cần nhận-chân ra rằng: Thiên-Chúa, với tư-cách là Chúa, Ngài chẳng
cần sự gì hết. Nhận-định này, đã kéo theo hệ-quả là: không gì khả dĩ thúc-ép
từ bên trong hoặc đè nặng lên Chúa, để Ngài làm bất cứ điều gì đặc-biệt, hòng cứu-chuộc
ta ra khỏi trạng-huống những lỗi và tội. Chúa có tự-do làm bất cứ thứ gì Ngài
muốn, như tạo-dựng hoặc cứu-chuộc mọi sự. Ngài hành-xử theo cách rất “hào-phóng”. Hào-phóng đây, có nghĩa: tạo lợi-ích cho mọi người. Hào-phóng -ngay chính từ-vựng này từng diễn-tả-
đã liên-kết mọi sự tốt-lành mà bên tiếng La-tinh, thiên-hạ có thói quen gọi đó là
“Bonitas”, tức: Sự Tốt-lành của Chúa,
ở tầm-kích rất siêu-phàm.
Bản-chất của Chúa, lại có nghĩa: Ngài rất
“tốt lành và siêu-việt”, nên từ phần thâm-sâu
của từ-vựng, tính “hào-phóng” của
Chúa, ta không thể cắt-nghĩa bằng ngôn-từ mà người phàm thường sử-dụng được. Bởi,
đó là bí-nhiệm của Chúa và về Chúa. Là, thứ gì đó mà loài người, thật ra, không
thể nắm bắt được điều gì thuộc về Chúa.
Từ-vựng “hào-phóng” -dù là ngôn-từ thuần-tuý của con người- vẫn có thể nối-kết
với các dự-phóng đưa về phía trước, hầu đưa ta đến được với nó. Thành ra, ta bảo
là: Chúa tự đặt Ngài vào vị-thế đầy hào-phóng,
tức Ngài khấng-mang điều gì đó ngay nơi bản-chất của Ngài, để Ngài hành-xử một cách
hào-phóng, tốt lành. Thiên-Chúa nối-kết
một cách công-minh với chính Ngài, để mọi sự được ra như thế. Điều đó, ta gọi
là sự Công-chính, tức bản-chất rất công-minh của Đức Chúa. Bởi, theo nghĩa
thâm-sâu nơi bản-chất Ngài, Chúa có khuynh-hướng làm thế, nên sở dĩ Ngài mang
tính hào-phóng là do bởi chính sự hào-phóng của Ngài, mà ra. Ở đây, tiếng
La-tinh thường diễn-tả rất rõ bằng thành-ngữ “bonum diffusivum suis”, tức: từ-vựng mang cùng một ý-niệm.
Lỗi/tội con người phàm, không thể cất
đi đặc-trưng này của Chúa, được. Tính hào-phóng
của Ngài không hề giảm-suy, cho dù con người có dính-dự vào đó. Và, đó không là
những gì mà lỗi/tội của con người, lại có khả-năng làm mất tính hào phóng ấy được. Đúng ra, tội hoặc lỗi
chỉ khiến cho con người càng xa-cách/tách rời khỏi kế-hoạch của Chúa từ thuở đầu,
mà thôi. Và, động-tác ban đầu của Chúa, có nghĩa là: Ngài phú-ban chính mình
Ngài một cách hào-phóng cho mọi thọ-tạo
được thụ-hưởng. Lỗi/tội, là sự thể khiến ta để luột mất tính hào-phóng mà Ngài vẫn ban.
Nhưng, khi lỗi/tội xuất đầu lộ diện,
thì đó là lúc Chúa hành-xử một cách có tự-do theo bản-chất của Ngài. Và, Ngài từ-khước
không để cho lỗi/tội được phép can-dự vào kế-hoạch ban đầu đầy hào-phóng của Ngài, bao giờ hết. Đây là
lý-do tại sao Chúa lại khước-từ không giữ các lỗi/tội xuất từ con người đầy lầm
lẫn. Thay vào đó, do bởi đặc-trưng và nguyên-lý về tính hào-phóng cũng như sự Công-minh của Ngài, Chúa sử-dụng lỗi/tội của
người phàm như cơ-hội để Ngài tỏ-lộ sự hào-phóng
của Ngài nhiều hơn nữa, theo cung-cách tốt-lành hơn, để ta có được khả-năng
tiếp-tục được hào-phóng/siêu-thăng hầu
nới rộng bản-chất ấy.
Thiên-Chúa tiếp-tục ban-phát quà tặng
ban đầu của Ngài. Và, Ngài vẫn liên-tục tặng ban như thế mãi, suốt thiên-thu. Đây,
lại là sự việc tái-lập động-tác ban đầu với tổ-tông loài người, hầu cải-biến nó
để con người nhận ra nét siêu-thăng tuyệt-vời bằng vào sử-dụng cơ-hội mới này một
cách đầy hào-phóng. Theo cách này,
Thiên-Chúa khiến con người vốn từng phạm lỗi rất “tày trời”, được phép trở về với
cội-nguồn tạo-dựng thành người. Thiên-Chúa trở về với động-tác thương-yêu thần-thánh
có từ đầu. Ngài làm thế, theo đặc-trưng Công-minh/chính-trực của Ngài và với Ngài.
Nay, ta được phép gọi sự Công-minh/chính-trực
của Chúa là sự tái-tạo Công-chính, và tái-tục tạo-dựng cho nên mới. Công-chính
đây, là nguyên-lý của sự hiệp-nhất và cũng là sự hợp-lực và kết-hiệp với loài
người đã được Ngài cứu-chuộc. Theo tôi, đây cũng là lý-do cho thấy tại sao ta
có được vị-thế chính-thức ở với Chúa, trong đó có hoà-trộn giữa sự Công-chính
và lòng Xót thương của Ngài. Xót thương, không là lòng trắc-ẩn khả dĩ khiến Chúa
mủi lòng, để “ai đó thoát khỏi vòng cương-toả ràng-buộc cũng rất gắt gao” đòi sự
Công-minh thần-thánh, cách trọn vẹn.
Nhưng, đây là thứ ngôn-từ khác-biệt
nói lên loại-hình thật rất khác về sự Công-minh/chính-trực, khiến Chúa có
khuynh-hướng thiên về tính hào-phóng
của Ngài hơn. Nơi con người, chưa từng có ví-dụ cụ-thể nào Khả dĩ chứng-tỏ sự
công-minh/chính-trực ngang-đồng tầm-mức của họ. Bởi thế nên, thật khó tìm ra ngôn-từ
nào thích-hợp hầu diễn-tả sự Công-minh theo tầm-kích của Chúa, dù ta có cố gắng.
Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có ai
tìm được những gì tự hồ như thế. Bởi, Thiên-Chúa dự-trù cho phép con người được
tham-dự vào sự hiệp-thông trọn-vẹn với Ngài, nên Ngài chọn kiến-tạo cung-cách mới,
để con người có được sự hiệp-thông liên-kết này. Đây, chính là ý-nghĩa và là chủ-đích
của công-cuộc tạo-dựng. Và, nơi nhân-tính của Ngài, Đức Giêsu đã thể-hiện rõ
ý-định của Chúa Cha về sự Công-minh/chính-trực và lòng Xót thương hoà-trộn vào với
nhau thành một. Và, do bởi Chúa có nhân-tính làm Con-Thiên-Chúa, nên toàn-thể nhân-loại
không ai có khả-năng rút ra khỏi sự hiệp-thông trọn-vẹn với Chúa, là Đấng yêu-thương
con người, đến muôn đời.
Nơi bản-chất rất “người” của Đức Giêsu,
tất cả được “duy trì làm một với nhau”, mãi về sau. Và mạch tương-quan nối liền
Đức Giêsu với Thiên-Chúa-là-Cha, chính là sự Công-minh/Chính-trực của Ngài. Cả
Chúa Cha và Con-Một-Ngài, đều hướng về tính hào-phóng
cùng một kiểu như thế.
Quả thật, Đức Giêsu đã đích-thực sống
như Đấng Bào-chữa cho sự Công-chính của Thiên-Chúa. Nhưng, không dựa vào sự
kiên-quyết ngay từ đầu, mà ít ra là, bằng vào sự Công-chính của Chúa theo cách “trải
rộng ra bên ngoài” mà người bình-thường có thể hiểu được. Đúng ra, sự Công-chính
của Chúa mang đầy tính “công-minh/hào-phóng”
với con người.
Đằng khác, Đức Giêsu luôn sống thực nguyên-lý
hiệp-thông tham-gia vào tính hào-phóng tác-tạo
của Thiên-Chúa. Kết-quả là, nơi thế-gian trong đó Đức Giêsu từng sống thực, lại
kình-chống nguyên-lý này, nên mới xa rời Ngài cách đáng tiếc. Thành thử, đây cũng
là lý-do cho thấy tại sao thế-gian lại quyết-tâm trừ-khử Ngài ra khỏi vòng quay
cuộc sống. Tuy thế, Ngài vẫn xuyên-suốt đi ngang qua nỗi chết, hầu tháp-nhập
vào sự sống vĩnh-hằng, rất Phục-sinh. Điều này lại có nghĩa: thế-gian không làm
gì được Ngài, nên những muốn ngưng-trệ việc thể-hiện tính hào-phóng của Thiên-Chúa-là-Cha, qua Ngài. Điều này còn có nghĩa: sự
việc nhân-loại hiệp-thông tham-gia với Chúa và trong Chúa, sẽ kéo dài mãi đến thiên
thu. Và, chính thế-gian, dù bản-chất của họ có thế nào đi nữa, nhưng nhờ vào sự
trỗi-dậy/Phục-sinh của Đức Giêsu, họ được minh-xác ngay trong sự biến-cải/đổi-hình
của chính mình.
Ở
đây nữa, lại đã có lập-trường/quan-điểm của ai đó cứ cho rằng: toàn-bộ dự-án
tiêu-cực của con người đều gẫy đổ, may nhờ Đức Giêsu kịp đến hiện-diện ngay lúc
đó, tức: đúng vào thời-điểm của Thứ Bẩy Phục Sinh, để Ngài nhập vào với vũ-trụ
vạn vật. Ở nơi đây, Đức Giêsu cũng tự hiến mình Ngài như Đấng Thiên-Sai chấp-nhận
toàn-bộ tính tiêu-cực này. Có điều lạ, là: Ngài lại đã trở-thành Đấng nhận-lãnh
thứ “bình-an hào phóng” của vũ-trụ
không gẫy đổ, vào rạng sáng khi Vương-Quốc Phục-Sinh vừa ló dạng. Ngài xứng-hợp
điều này, là do Ngài tự-do mở rộng tính hào-phóng
khiến Ngài biểu-tỏ qua cái chết khổ-nhục trên thập-tự. Theo cách này thì, nếu
muốn, ta có thể sử-dụng từ-vựng “Cứu-chuộc”, cũng được.” (xem T. Weinandy).
Sự việc này, không thể xảy ra mà lại
không có lời mời gọi mọi người nơi nhân-loại-được-tái-tạo để sống thực cùng một
nghĩa-lý sống như Thiên-Chúa và Đức Giêsu từng sống. Điều này, còn có nghĩa:
nơi người phàm-trần lúc này, sự Công-minh/Chính-trực được “tác-tạo” là do niềm-tin,
lòng hy-vọng và sự mến-mộ theo cách của thần-học, nhưng kết quả lại ra khác. Biểu-tượng
đặc-trưng cho sự việc này, là: nhiệm-tích Nhập-thể và Phục-sinh, cả hai gộp lại
đã biến-cải và làm mới hình-hài của thế-giới nơi ta sống.
Tính lô-gích vốn có ở mọi sự như thế, đã
đưa ta về với lòng cảm-kích/biết ơn. Cảm-kích, đối với Chúa Đấng luôn hành-xử cách
hào-phóng rất như thế. Biết ơn, cả sự
Hào-phóng rất sống-động của Ngài. Cảm-kích/biết
ơn luôn được biểu-lộ qua Đức Giêsu. Và cảm-kích như thế, đã có tầm-kích của sự “thờ-phượng”,
nhưng không là thứ phượng-thờ bình-thường theo kiểu phụng-vụ vẫn diễn-đạt, mà
là phụng-thờ tính Hào-Phóng đã ban và
còn ban nhiều hơn nữa, nhờ Đức Giêsu. Động-thái cảm-kích/biết ơn, là sự thể qua
đó mọi thọ-tạo lại đã dâng lời cảm-tạ lên Chúa, là Đấng nhất quyết không để cho
lỗi/tội được dính-dự vào ý-định tái-lập công-cuộc tạo-dựng của Ngài. Đó, là
ý-nghĩa đích-thực của Tiệc Thánh-Thể và là sự thể khiến ta cử-hành sự Hiện-diện
đích-thực của Chúa, không sai sót.
Ta được mời gọi sống đích-thực sự Công-minh/Chính-trực
mới với thế-giới lâu nay chưa biết sống. Và thế-giới, tuy vẫn nỗ-lực thực-sự,
nhưng cũng chẳng tài nào hiểu được trọn vẹn sự việc này. Và như thế, lại có thêm
tình-huống bức-bách/đối-chọi nhau giữa nhu-cầu sống thiết-thực và thế-giới rất
thực-tiễn. Điều này, lại sẽ mang ý-nghĩa khổ-đau cho các thế-hệ khi trước, cũng
nhiều hơn.
Trọng-trách chu-toàn sự Công-minh/Chính-trực
của Chúa vẫn trải rộng với thế-giới, không phải để thăng-hoa xung-đột này, theo
nghĩa có khuynh-hướng nghiêng về sự ổn-định từng cuộc thương-thảo hoặc có thoả-thuận
để nó trường mặt ra bên ngoài, mà là chiến-đấu quyết diệt-trừ nó, theo cách
Chúa từng làm với lỗi/tội có ngọn-nguồn. Điều đó có nghĩa là: cứ sử-dụng Sự
Công-chính của Chúa như cơ-hội mới như thế, ta sẽ tham-gia dâng lời tạ-ơn cách tập-thể
lên Chúa, vì Ngài Hào-phóng đối với
ta. Và, ta làm thế theo cách vinh-thăng, rất đặc-biệt. Đây là những gì mang ý
nghĩa “khấng chịu” mọi khổ đau, âu sầu, nghiệt-ngã. Nó còn có nghĩa: những ai thực-hiện
cuộc sống giống như thế, đã và đang hiệp-nhất với những người từng chịu khổ-đau
vì các hệ-thống sai trái, rất lỗi phạm của loài người. Nó còn có nghĩa như tiếp-tục
hành-xử sao cho thích-hợp với người-của-Chúa trong tư-thế đặt mình trước mọi khổ-đau.
Đau-khổ, đã trở-thành dịp-thuận để ta biến-cải và làm mới chất-lượng của hành-xử
đáp-trả lại tính hào-phóng của Chúa.
Xem thế thì, ta không được mặc lấy tính
thiêng-liêng của “thập-giá” hoặc “đau-khổ” giống như thế, nhưng lại có được
tính linh-đạo của lòng cảm-kích chân-phương, luôn tin-tưởng rằng mình được
tân-tạo, phục-hồi, mở rộng, không thoái lui. Tự bản-chất, khổ-đau không mang
ý-nghĩa cứu-chuộc hoặc cứu-vớt được ai hết. Chèn-ép, thúc bách và sự việc đóng-đinh-thập-giá
theo kiểu của người Do-thái thường làm, không có nghĩa đã có thể giải-phóng hoặc
cứu-vớt được một ai. Nhưng, khổ-đau là hệ-quả mang tính ngẫu-nhiên, hoặc lịch-sử
các xung-đột giá-trị nơi người hiểu-biết, đáp-ứng với tầm-kích giống Chúa nơi
cuộc sống. Và, thế-giới lại đã tái-tạo được quyền-hạn của mình qua bạo-lực. Tử-vì-đạo,
là chịu khổ-đau một cách chân-phương thật tình, nhưng theo cung-cách “không kiếm
mà có”, “không tìm mà gặp.”
Ta thường bảo: mình được Đức Giêsu
“làm thay cho mình” rất nhiều việc. Nói thế quả cũng không đúng. Bởi, đây không
là hành-vi thay-thế hoặc “làm thay cho” như Thiên-Chúa, lẽ đáng ra, đã trừng-phạt
Đức Giêsu thay vì hành-hạ ta. Đây là lối “nhận vơ”. Một thứ “nhận xằng” vào với
ta, trong cuộc sống đầy lỗi phạm hiện giờ, qua việc mời ta vào với chốn vĩnh-hằng
không bỏ được. Đức Giêsu, tự Ngài chẳng vi-phạm lỗi/tội nào, nhưng Ngài lại
tham-gia cách trọn-vẹn vào với nhân-loại, ở nơi đó sự hiện-hữu đầy tội/lỗi là
điều không thể tránh được. Chúa giáng-hạ làm người theo khuôn-mẫu như “một người
trong các kẻ phạm lỗi”. Đó, là lý-do cho thấy: việc Ngài dâng tiến niềm hiệp-thông
cảm-tạ lên Cha như hành-xử tiến-dâng của người mắc phải lỗi-phạm. Điều đó, khác
với việc tế-hiến thú vật trong đền thờ, vì loài thú không biết cách tham-gia
vào sự hiện-hữu của loài người nhiều lỗi phạm.
Thật ra, bảo rằng: khi ta gọi sự việc “làm
thay cho ta” (như Stellvertretung) là bao gộp nhiều thứ chứ không chỉ loại-trừ bất
cứ điều gì. Vì thế nên, ta có thể nói: Thiên-Chúa hiện diện nơi Đức Kitô, Đấng
hoà-giải/hoà-hợp chính thế-giới đầy lỗi/tội hầu đưa họ về với Chúa. Việc hoà-giải
sẽ không xảy đến, nếu như sự việc đó có xảy ra cũng chỉ để cho ai đó trong ta,
mà thôi. Nói cách khác, nhờ mỗi mình Ngài, chứ không phải một ai, lại có thể
làm thay cho ta, được.
Tất cả những ai lâu nay vi-phạm lỗi/tội,
đều để mất đi sự vinh-quang của Thiên-Chúa. Vinh-quang này, bao gộp cả sự hiệp-thông
gồm tóm ở trong đó. Thiên-Chúa công-khai thiết-lập nơi Đức Kitô, trọng-trách
xót thương muôn loài và đặt Ngài như Đấng có Chúa hiện-diện là để ban cho ta “vị-thế
đặc-biệt” hoặc “trọng-tâm rất đặc-trưng” để Ngài ban phát sự Hào-phóng chung-cuộc đã tái-lập. Nói thế
có nghĩa: Ngài làm vậy, là đã biểu-lộ ra bên ngoài một loại-hình mới mẻ của sự
“Công-minh/chính-trực” của Ngài. Điều này, ta nhận ra được qua niềm tin rất lạ,
khả dĩ nắm bắt được sự cao đẹp nơi Quà tặng Ngài ban phát; ngõ hầu đáp-trả một
cách rất cảm kích/biết ơn bằng cung-cách sống đích-thực quà tặng Chúa ban.
Sự việc như thế, đều xoay chuyển ngang
qua nỗi chết mà Ngài chấp-nhận cho chính Ngài, qua đó Máu thánh Ngài đã đổ ra.
Và, Thiên-Chúa thấy điều đó là cốt để thiết-lập và công-bố sự Công-chính rất mới
này. Toàn-bộ sự việc như thế, còn có sự “vượt qua” các lỗi/tội có từ thời đầu và
lỗi/tội như thế, nay không thành “vấn-đề” nữa. Sự việc xảy ra, tựa như Chúa từng
đợi từng chờ theo cung-cách như mất kiên-nhẫn với thời-khắc đặc-trưng này. Và hệ-quả
theo sau đó, chẳng dính-dự gì đến lỗi/tội mà con người mắc phạm vào thuở đầu đời
cho đến khi nào chúng ta đối đầu với lỗi/tội, ra như thế.
Kết-quả là, nhóm hội/đội ngũ các kẻ
tin vào quà tặng Chúa ban kết-hợp thành chốn thánh hoặc địa-điểm mới-mẻ nào khác.
Ở nơi đó, “Ngai toà đầy xót thương” được thiết-dựng ngay ở bên trong và cùng với
Đức Kitô (Rm 3: 25-26).
Ở đây, đã có sự hoà-hợp giữa hành-xử của
Thiên-Chúa và Đức Giêsu-Con-Một-Ngài. Hoà-hợp đây, không có nghĩa: Ngôi Vị này
tự đặt mình ở trên hoặc kình-chống Ngôi vị kia. Thế nênb, nền thần-học về “đền
bù tội lỗi” do hành-động tử-vì-đạo không còn thích-đáng nữa. Nói cách khác, đây
không là động-thái của sự việc mà tiếng La-tinh không gọi như “do ut des”, cho bằng “do quia dedisti”.
------------------
(còn tiếp)
Lm
Kevin O’Shea, CSsR - Mai Tá lược dịch
No comments:
Post a Comment