Friday 26 March 2010

Trần Ngọc Báu: Tìm hiểu về Phim The Passion of Christ

TÌM HIỂU VỀ CUỐN PHIM CỦA MEL GIBSON « CUỘC KHỔ NẠN CỦA CHÚA KITÔ »

Cuốn phim “Cuộc khổ nạn của Chúa Kitô” (The Passion of the Christ), do nhà đạo diễn Mel Gibson thực hiện, được đem chiếu tại 4000 rạp ở Mỹ kể thứ tư Lễ Tro Mùa Chay năm nay (25/02/04) và cũng đã được chiếu tại 600 rạp ở Pháp kể từ thứ tư 31/03/04 trước Chúa Nhật Lễ Lá, và từ đó còn chiếu ở nhiều nước Au Châu khác. Ngược lại với những lời đồn đoán, cuốn phim của Mel Gibson đã thành công ngoài sức tưởng tượng, phá kỷ lục thế giới về số người xem và có thể phá kỷ lục thế giới về thu nhập. Chính sự thành công này đã trấn áp dần những lời dèm pha, đả kích của dư luận ồn ào lúc ban đầu.

Thực ra, đây không phải là lần đầu tiên có cuốn phim nói về cuộc đời Chúa Giêsu, mà kể từ năm 1902 đã có đến 15 cuốn[1], kể cả những phim câm của Zecca et Nonguet (1902), Antamoro (1914) và Wiene (1925). Mỗi nhà đạo diễn có cách nhìn của mình về Chúa Giêsu, có khi rất «trần tục» như Martin Scorsese. Cách nhìn của Mel Gibson đã gây nhiều tranh luận sôi nổi và gay gắt nhất, đang khi lại được lòng đa số người kytô-giáo mộ đạo vì nó tường thuật khá sát tình tiết cuộc tử nạn của Chúa Giêsu theo 4 quyển Phúc Am và theo truyền thống tin tưởng trong dân gian qua nhiều thế kỷ trước đây. Điều đáng ghi nhận ở đây là Giáo hội Tin Lành «Evangéliste» của Mỹ, một giáo phái bảo thủ, rất nhiệt liệt hoan nghênh và cổ võ cho cuốn phim này qua những hình thức quảng cáo và chiêu hàng rất Mỹ… Mời quí độc giả, đặc biệt là giới trẻ ít có dịp ngắm Đàng Thánh Giá, tìm hiểu những gì nhà đạo diễn nhắn gởi trong cuốn phim này.

12 GIỜ CUỐI ĐỜI 1 NHÂN VẬT LỊCH SỬ: GIÊSU NAZARÉT

Mel Gibson là một tín hữu công giáo rất sùng đạo, sùng đạo theo truyền thống trước Công Đồng Vaticanô 2, và có lòng tin mạnh mẽ nơi Mầu Nhiệm Thập Giá. Ong quyết tâm thực hiện cho kỳ được cuốn phim diễn lại sự thương khó Chúa Giêsu xảy ra trong vòng 12 tiếng đồng hồ cuối đời Người, trên một đoạn đường dài chừng 4-5 cây số tính từ Vườn Cây Dầu đến Núi Sọ, xuyên qua các nơi Chúa bị xét xử bởi các vua quan thời bấy giờ. Là nhà đạo diễn, Mel Gibson không thể làm công việc giảng đạo, mà chỉ cốt dùng kỹ thuật điện ảnh dàn dựng lại một sự kiện lịch sử đúng theo nội dung Phúc Am kể lại, với vài nét chấm phá thêm thắt để làm nổi bật quan điểm của ông. --Quả vậy, ông có thêm thắt vài chuyện đáng kể, chẳng hạn như đồng hóa bà Maria Mađalêna làm một với người đàn bà ngoại tình, hay đặt để Thầy Cả Thượng Tế Caipha có mặt trong suốt cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu.

Chính vì muốn làm phim theo chủ trương hiện thực (réalisme) này mà Mel Gibson bị những người Mỹ gốc Do Thái và nhiều giới khác đả kích kịch liệt. Bởi vì hiện thực của Phúc Am «theo Mel Gibson» là hiện thực của Niềm Tin của ông, còn hiện thực của lịch sử là hiện thực «khoa học», tuy khoa lịch sử vẫn còn rất nhiều giới hạn của nó. Cho rằng Mel Gibson chủ trương lấy lý do làm lịch sử để bài Do Thái, giới tài phiệt Do Thái Mỹ, đang nắm quyền sinh sát của giới điện ảnh Hollywood và hầu hết các rạp chiếu phim ở Mỹ, có thể cản trở việc chiếu phim này, nếu lôi kéo được dư luận về phía họ.

Nhưng Mel Gibson không phải là tay vừa; ông là người có thế lực vào hàng thứ 5 trong số 100 người có ưu thế tại Hollywood. Ông tự bỏ vốn ra thực hiện cuốn phim theo những dữ liệu ông viết chung với Benedict Fitzgerald. Biết rằng càng ra sức diễn đạt một cách càng cường điệu «mầu nhiệm» tử nạn của Chúa Giêsu, thì càng làm cho mầu nhiệm này trở nên lố bịch dưới con mắt của khán giả vô đạo hoặc hời hợt thôi. Cho nên Mel Gibson cũng cố gói ghém sao cho cuộc khổ nạn được trần thuật một cách linh động và sát thực theo quan điểm người có lòng đạo, với những màn vu khống, tố cáo, áp lực, đánh đập và vác thập giá đầy máu me thảm khốc như đã được thuật lại, và để lại cho khán giả cái quyền đánh giá và thưởng ngoạn.

Thực vậy, tất cả cuốn phim dài 2 tiếng đồng hồ chỉ nhằm làm sống lại trước mắt biến cố tử nạn của Chúa Giêsu đã xảy ra 2 ngàn năm về trước, với những nhân vật đương thời nói tiếng địa phương «aramêen» và nói tiếng «latinh» của người La Mã (với phụ đề bằng tiếng Anh). Cuộc diện xảy ra tại Jérusalem vào mùa lễ Vượt Qua của năm 30 Công Nguyên, trong khi xứ Palestine bị đăt dưới quyền thống trị áp bức của Đế Quốc La Mã do quan Tổng Trấn Philatô cai trị với bàn tay sắt, và các nhà lãnh đạo Giáo Hội cũng như dân chúng Do Thái lúc bấy giờ đang mong chờ một Đấng Cứu Thế đầy uy quyền đến giải phóng dân tộc họ. Chúa Giêsu chẳng những không đáp ứng sự mong chờ ấy, mà chỉ rao giảng Tin Mừng «Nước Chúa» gần đến và kêu gọi dân chúng sám hối, cải thiện đời sống tâm linh, thực hiện lòng yêu thương, tha thứ và phục vụ tha nhân. Do đó, Chúa Giêsu đã gây nhiều ngộ nhận và xúc phạm nơi họ, nên họ quyết tâm kết án Người phải chết.

Dùng kỹ thuật «hồi cảnh» (flashback) thoáng xen kẽ vào cuộc thương khó, Mel Gibson khơi lại vài hình ảnh đầy ý nghĩa về cuộc đời của Chúa Giêsu kể từ khi làm người thợ mộc tầm thường ở thành Nazarét, xứ Palestine, cho đến bữa tiệc ly cuối cùng gói ghém trọn tâm tình của Người trong những lời «trăn trối» để lại cho hậu thế. Tuy nhiên, Mel Gibson không hề gợi lại một hình ảnh nào của Chúa Giêsu được dân chúng tôn thờ là nhân vật siêu phàm xuất chúng, có lần tỏ mình ra sáng láng trên núi Tabo, từng làm nhiều phép lạ vang dội khắp nước và thu hút đông đảo quần chúng đi theo sùng bái như một Đấng Cứu Tinh của dân tộc Do Thái và sẵn sàng suy tôn Người là Vua. Chúa Giêsu của Mel Gibson là một con người có xương thịt, biết rung cảm và đau khổ như mọi người, chịu chết thảm thương như con chiên hiền lành do lòng độc ác của con người gây ra, đúng như lời tiên báo của Ngôn Sứ Isaia: «Chính người phải chịu đâm thấu vì tội lỗi chúng ta, bị nghiền nát vì tội ác chúng ta; người chịu thương tích để chúng ta được lành mạnh» (Is. 53, 5). Đây chính là chủ đề của cuốn phim được Mel Gibson đặt dưới tựa đề « Cuộc khổ nạn của Chúa Kitô ».

VƯỜN CÂY DẦU : MỘT VƯỜN ĐỊA ĐÀNG MỚI !

Biết mình sắp bị phản bội và hãm hại một cách tàn bạo đến chết, Chúa Giêsu run rẩy và xao xuyến bồi hồi, nỗi đau buồn và hãi hùng hiện rõ trên nét mặt trước con mắt ngơ ngác khó hiểu của ba người môn đệ thân tín, Phêrô, Giacôbê và Gioan. Xuất hiện trong hình hài một người lại-cái, quỷ Satan hiểm độc tìm cách lung lạc quyết tâm thi hành sứ mạng cứu độ của Chúa Giêsu, đang khi Người bị bấn loạn tâm thần, đơn độc phấn đấu trước cái chết quá tàn nhẫn. Người kêu cứu: «Lạy Cha, xin cứu con khỏi cậm bẫy này.» Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã cố gắng vượt thắng được cơn thử thách, đạp dập đầu con rắn độc lân la đến bên Người, và dốc lòng tuân phục thánh ý Chúa. Sấp mình xuống đất, Người tha thiết nguyện cầu : «Lạy Cha, nếu được xin cho con khỏi uống chén đắng này, nhưng xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha.»

Mel Gibson muốn nhấn mạnh đến cơn cám dỗ dữ dằn này để nói lên hình ảnh một con người tuyệt đối tuân phục ý Thiên Chúa nơi Vườn Cây Dầu, tương phản hoàn toàn với hình ảnh một con người Ađam, nguyên tổ của loài người, nghe lời con rắn độc mà bất tuân lệnh Thiên Chúa nơi Vườn Địa Đàng. Nhờ một Ađam Mới là Chúa Giêsu, đất trời được giao hòa lại nơi Vườn Địa Đàng Mới này. Đó chính là sứ mạng cứu độ của Chúa Giêsu: vâng theo ý Chúa Cha, chấp nhận cái chết do lòng độc ác của con người, để đánh động lòng người nhận biết mình có lỗi với Chúa và trở lại làm hòa với Ngài. Thực ra, cái chết tự nguyện của Chúa Giêsu không phải là chiếc đũa thần hóa phép cho con người tự nhiên trở nên thần thánh, nhưng là tiếng ray rứt mời gọi mọi người trong mọi thời đại hãy thức tỉnh, thành tâm sám hối, trở về thần phục Thiên Chúa. Vấn đề là con người có biết mình là kẻ tội lỗi vì đã xúc phạm đến Người Công Chính, và có chỗi dậy trở về nhà Cha hay không thôi. Nếu không, Ơn Cứu Độ sẽ trở nên vô ích với họ. Nói cách khác, Chúa Giêsu chịu chết để con người tội lỗi được sống lại trong sự hòa thuận với Thiên Chúa và anh em mình.

Quả vậy, nơi Vườn Cây Dầu, vào lúc quân lính của Thượng tế Caipha ập đến bắt Chúa Giêsu, Phêrô rút gươm ra chém xối xả vào họ, và đã thực sự chém đứt vành tai mặt một người lính. Tức khắc, Chúa Giêsu nghiêm khắc lên tiếng cấm ông bạo hành, chữa lành tai người lính ngỡ ngàng, và tự nộp mình cho quân lính trước sự sững sốt của các môn đệ bỏ chạy tán loạn. Từ giây phút ấy trở đi, Chúa Giêsu chịu đựng mọi sự sỉ nhục, cực hình tàn khốc, không một lời than trách hay oán hận. Trả lời quan Trấn Thủ Philatô, Chúa Giêsu xác nhận Nước Người không thuộc về thế gian, và Người không chủ trương dùng đến bạo lực để tự vệ. Trên cây thập giá, để đáp lại lời thách thức độc ác của vị Thượng Tế Caipha và các Đầu Mục rằng «nó đã cứu được người khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Đấng Kitô», Chúa Giêsu nguyện rằng: «Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ kkhông biết việc họ làm». Được hỏi, nhà đạo diễn Mel Gibson trả lời rằng ông mong muốn cuốn phim này dấy động lên Niềm Tin, khuyến khích con người theo gương Chúa Giêsu biết sống yêu thương và tha thứ cho nhau. Ong nói: «Cuốn phim này sẽ đem con người xích lại gần nhau hơn, không kích động bạo hành và thù hận» như nhiều người lầm tưởng hay cố tình xuyên tạc.

THƯỢNG TẾ CAIPHA QUYẾT ĐÒI ÁN PHẠT THẬP GIÁ

Về đến Dinh Thượng Tế Caipha, nơi nhóm họp của Thượng Hội Đồng Đầu Mục, Ký Lục và Thầy Cả, Chúa Giêsu bị một số người Do Thái tố cáo đủ điều, vu khống, mạ lỵ là người kích động dân chúng nổi loạn, đòi đập phá Đền Thờ, giảng dạy những điều nhảm nhí, mê tín dị đoan. Thượng tế Caipha gài bẫy bằng cách hạch hỏi: «Giêsu Nazarét, hãy nói ta nghe ngươi có phải là Con Thiên Chúa không?». Chúa Giêsu không tránh né cậm bẫy và từ tốn đáp lại: «Đúng vậy, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng toàn năng và ngự giá từ trên mây trời mà đến.» Tức khắc, vị Thượng Tế liền xé áo mình ra và nói: «Hắn nói phạm thượng, chúng ta cần gì nhân chứng nữa! Hắn đáng tội phải chết!».

Thế là vào lúc trời hừng sáng, cùng một số Thượng Tế và Đầu Mục trong Giáo Hội, Thượng Tế Caipha dẫn đầu đoàn người điệu Chúa Giêsu đến Dinh Tổng Trấn La Mã, nhất định áp lực Philatô phải tuyên án tử hình thập giá cho Chúa Giêsu, viện lý Người xưng mình là Vua Do Thái với ý đồ dấy loạn chống triều đình La Mã. Biết rằng chỉ có quan Tổng Trấn mới có quyền xử án tử hình và biết rằng Philatô rất sợ dân chúng nổi loạn, nhất là vào dịp lễ Vượt Qua có đông đảo quần chúng tụ tập về Jérusalem, nên Thượng Tế Caipha cùng với đám đông, được kích động căm thù, ào ào hò hét từng chập: «Đóng đinh nó vào thập giá!» Là một nhà chính trị thâm độc và khôn khéo, Philatô ra lệnh phạt đòn Chúa Giêsu để làm dịu tình hình. Không xong, ông ra lệnh hành quyết Người trên thập giá. Ong không ngần ngại cho treo bản án trên đầu thập giá: «Giêsu Nazarét, Vua Do Thái».

Như vậy, cuốn phim của Mel Gibson cố tình cho thấy đậm nét lòng dạ thâm độc của một số nhà lãnh đạo cao cấp Giáo Hội lúc bấy giờ. Trong suốt cả cuộc thương khó của Chúa Giêsu, Thượng tế Caipha cùng phái đoàn tùy tùng, với nét mặt đanh thép đầy đố kỵ và căm thù, đã có mặt đầy đủ để chứng kiến tận mắt những màn hành hạ, nhục mạ, dày xéo, đánh đập tan nát thân mình đầy máu me của Chúa Giêsu, và những cảnh khổ nhục kéo dài một cách tàn nhẫn từ Dinh Tổng Trấn dọc theo con đường vác thập tự cho đến Núi Sọ. Các ngài Thượng Tế ngồi chễm chệ trên lưng lừa thị sát tình hình, đang khi Chúa Giêsu kiệt sức vì đòn bọng mà còn phải vác thập giá lê lết chập choạng, té lên té xuống đến sáu lần, giữa tiếng hò hét sôi nổi của dân chúng, kẻ xúc động, người hùa theo. Thượng tế Caipha và đoàn tùy tùng cỡi lừa lên đến tận nơi và ở lại trên Núi Sọ cho đến giây phút cuối cùng để chắc chắn thấy tận mắt Chúa Giêsu đã chết thật, rồi mới chịu rút về.

Quả là người La Mã đã đóng đinh Chúa vào thập giá, nhưng người Do Thái mới đích thực đã là kẻ giết Chúa. Mel Gibson không sợ người Do Thái ngày nay hung hăng phản bác và lên án ông về cái tội bài Do thái, bởi ông không hề lên án toàn dân Do Thái lúc bấy giờ cũng người Do Thái ngày nay là kẻ giết Chúa, và cuốn phim của ông cũng không gây nên sự kỳ thị hay căm thù người Do thái vô tội ngày nay. Cứ thăm dò dư luận khán giả thì biết. Ngược lại, cuốn phim đề cao sự hòa giải, hòa hợp, theo gương của Chúa Giêsu. Đây là cuốn phim nói về sự đau khổ, tình thương và tha thứ, theo lời Mel Gibson.

Về điểm này, Đức Hồng Y Dario Castrillon Hoyos, Tổng Trưởng Bộ Giáo Sĩ của Tòa Thánh Vatican, có nói : «Tôi cũng đồng ý với Maia Morgenstern, nữ tài tử đóng vai Đức Mẹ Maria trong phim, chính cô cũng là con gái của một người sống sót sau cuộc tàn sát người Do Thái (trong Thế Chiến thứ 2). Cô nói cuốn phim không những không bài Do Thái, mà còn «tố cáo sự điên cuồng của bạo lực và tàn ác». (….) Công Đồng Vatican 2 đã bác bỏ quan niệm cho rằng người Do Thái phải chịu trách nhiệm tập thể về cái chết của Đức Giêsu. (….) Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 đã gọi người Do Thái là “người anh em” của chúng ta. (….) Và chúng ta nên tiếp tục sự nghiệp biểu dương lòng bao dung tôn giáo và bảo đảm rằng tôn giáo hay chủng tộc sẽ không bao giờ đuợc sử dụng làm chiêu bài cho sự kỳ thị, hận thù và bạo lực.»

PHÊRÔ VÀ JUĐA VẪN LÀ NHỮNG CON NGƯỜI TỘI LỖI

Cùng là môn đệ theo chân Thầy suốt ba năm rao giảng và được Thầy dạy dỗ tận tình, Juđa vẫn ôm ấp ảo mộng được thấy ngày Thầy dùng quyền lực thần thánh của mình để giải phóng dân tộc Do Thái. Còn Phêrô thì đã có lần hăm hở tuyên xưng Thầy là Đấng Cứu Thế và được Thầy tin cẩn giao trách nhiệm làm trưởng nhóm 12 môn đệ. Thế mà mỗi người môn đệ ấy vẫn ôm ấp tham vọng và hoài bão riêng của mình. Mãi đến những giờ phút chót cuộc đời Chúa Giêsu, hai người môn đệ này vẫn không hiểu gì về sứ mệnh của Thầy mình, mà lại còn sẵn sàng phản bội Người nữa.

Phêrô, sau khi hung hăng chém loạn xạ, làm đứt vành tai một người lính và bị Chúa Giêsu khiển trách ở Vườn Cây Dầu, đã lẩn vào đám đông, ngơ ngác đi theo Thầy từ xa đang khi toán quân điệu Chúa Giêsu đến Dinh Thượng Tế Caipha. Dọc đường cũng như tại Dinh, Phêrô đã mở to mắt ra chăm chú nhìn tận mặt cảnh Thầy bị bọn người vô tâm hành hạ, sỉ nhục, đánh đập không thương tiếc. Bàng hoàng, Phêrô cảm thấy ê chề, chán nản, thất đảm; đầu óc căng thẳng, rối rấm, chẳng hiểu tại sao Thầy phải chịu đọa đày đến như thế. Bao giờ «Nước Trời» của Thầy mới thực hiện…?! Khi thấy Thượng Tế Caipha xé áo ra và lớn tiếng tuyên bố Thầy mình phải chết, và vào lúc tình hình sôi động do đám người xu nịnh nhào ra đấm đá hỗn loạn vào Chúa Giêsu, Phêrô thấy rõ Thầy mình sẽ không thể thoát nạn được nữa rồi, nên ông cũng chỉ còn cách là tìm phương lẩn trốn đi thôi.

Xui xẻo cho Phêrô, cùng lúc ấy có người thứ nhất, rồi đến người thứ hai và một nữ tì là người thứ ba đã nhận ra ông là đồ đệ của Chúa Giêsu. Phêrô tránh né không được nên hốt hoảng chối dài 3 lần: «Tôi thề không biết người đó là ai.» Liền khi ấy, Chúa Giêsu chăm chú nhìn Phêrô và Phêrô bất chợt bắt gặp ánh mắt của Người. Phêrô bỗng nhớ lại trong bữa tiệc ly đã thưa cùng Thầy: «Con có thể đi theo Thầy ngay bây giờ mà. Con xin theo Thầy, dù phải đến chốn lao tù, cho đến chết.» Bấy giờ Chúa Giêsu đáp: «Anh sẽ thí mạng vì Thầy ư? Thầy bảo thật khuya nay gà chưa gáy, anh đã chối Thầy đến ba lần!» Nhớ đến đó, Phêrô rùng mình bỏ chạy, nức nở khóc, và quì xuống khi gặp Mẹ Maria trong đám đông gần đó, ông than thở khóc lóc: «Mẹ ơi , con là kẻ thật bất xứng! con đã chối Thầy 3 lần!» Nhờ cái nhìn thấu suốt tâm can của Thầy, Phêrô đã tỉnh ngộ và ăn năn sám hối đến suốt đời mình.

Còn Juđa, khi Chúa Giêsu đang toát mồ hôi máu trong Vườn Cây Dầu, Juđa lò dò đến gặp Thầy Cả Thượng Tế Caipha để thậm thụt lãnh 30 đồng bạc hầu điềm chỉ Thầy mình, chắc với hy vọng Thầy sẽ có đủ quyền lực để thoát nạn và mình sẽ thênh thang vung vít với số tiền lớn ấy. Đến nơi, thấy Thầy sẵn sàng tự nộp mình, Juđa định rút lui tẩu thoát, nhưng đã bị bọn lính tóm giữ lại. Buộc lòng, Juđa đành bước đến hôn Thầy để làm dấu cho quân lính đến bắt Người. Chúa Giêsu từ tốn quở nhẹ: «Juđa, anh nở bán Thầy bằng nụ hôn sao!» Liền sau đó, Juđa kinh hoàng nhìn thấy quân lính nhào vô trói ké Thầy mình với sợi dây thừng và lôi đi như một kẻ tội phạm đến Dinh Thượng Tế Caipha.

Bất mãn, Juđa ngồi xuống một gốc cây bên dưới bờ tường, nơi mà toán quân đang lôi kéo Chúa Giêsu đi ngang qua. Họ đánh đập Người tàn nhẫn và xô đẩy Người nhào qua bờ tường rơi xuống sát mặt đất, treo lơ lửng bằng sợi dây thừng cột nơi thắt lưng. Lúc bấy giờ, Chúa Giêsu nhìn chăm chú Juđa và Juđa cũng ấm ức nhìn lại Người. Sau đó, khi quân lính kéo Chúa Giêsu lên và điệu Người đi, Juđa cũng lò dò đến Dinh Caipha, núp sau cây cột xem xét sự tình ra sao. Cũng như Phêrô, Juđa sững sờ trước thủ đoạn dàn dựng một «tòa án nhân dân» bịp bợm, gian dối tố cáo và lên án Thầy mình, và cảm thấy nhục nhã khi thấy Thầy chịu để cho người ta sỉ vả, lăng nhục, đấm đá tàn nhẫn như một kẻ tội phạm. Juđa không còn tin tưởng gì ở người thầy nhu nhược và đốn mạt ấy. Như thế thì làm sao Thầy có thể xây dựng vương quốc mình được. Tất cả hoài bão của Juđa tiêu tan hết rồi! Nhóm Thượng Tế kéo vào trong Dinh sau khi diễn xong màn lên án bỉ ổi này. Cùng lúc ấy, cũng như Phêrô, Juđa biết Thầy không thoát nổi cậm bẫy. Ấm ức quá, Juđa xông vào trong Dinh, gặp Caipha, đòi trả tự do cho Thầy mình và giận dữ ném trả lại túi tiền dính máu người công chính.

Quả vậy, Juđa rất bất mãn, chán chường. Ông ra ngồi bên ngoài Dinh, cố tìm cách trấn tỉnh, nhưng vẫn bị lương tâm cắn rứt, dằn vặt, xăm xỉa, như hình ảnh đám quỉ con do Mel Gibson gài vào để chọc phá ông. Tràn ngập bởi cơn thất vọng dày vò xâu xé tâm can, Juđa bỏ chạy trối chết ra ngoài đồng cát vắng, mà vẫn bị tiếng nói lương tâm như đám quỉ con đuổi theo sỉ vả. Không như Phêrô, Juđa hoàn toàn mất tin tưởng nơi Chúa Giêsu, tuyệt vọng và không còn thiết sống nữa. Nhìn thấy sợi giây thừng buộc xác rã thối của con lừa (có thể chính đó là con lừa đã được Chúa Giêsu cỡi vào thành Giêrusalem giữa tiếng hoan hô vang đậy của dân chúng hôm chủ nhật trước) mà Mel Gibson muốn dùng để ám chỉ hình ảnh rữa thối của tâm hồn Juđa lúc bấy giờ, Juđa liền lấy giây đó để treo cổ mình trên cành cây gần đó. Cùng một cảnh ngộ lỗi lầm như Phêrô, nhưng lòng Juđa chai đá đến mức không thể hiểu được và chấp nhận nỗi cái nhìn thấu suốt tâm can của Chúa Giêsu! Phêrô tiếp tục sống trong tình nghĩa Chúa, Juđa đành thắt cổ chết tức tưởi!

KHÔNG THIẾU NHỮNG TẤM LÒNG BIẾT THỔN THỨC

Hình ảnh con quỷ Satan đội lốt một người lại-cái vẫn len lỏi đeo đuổi suốt hành trình cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, từ Vườn Cây Dầu cho đến Núi Sọ, để tìm cách hãm hại người ta và phá hoại công trình cứu độ của Chúa. Nó thoáng hiện ra với Juđa, như để xúi dục Juđa mất niềm tin nơi Chúa Giêsu. Nó xuất hiện bên vị Thượng Tế Caipha, như xúi dục ông cứng lòng đang khi chứng kiến cảnh tượng Chúa bị đòn bọng tắm máu tan tác. Nó nắm chặt Philatô trong vòng tay, như bồng ẵm một em bé Philatô cằn cỗi. Nó lẩn vào đám đông hò hét đòi đem đóng đinh Chúa Giêsu trên thập giá. Và cứ thế nó tìm cách đột phá, cho đến khi Chúa Giêsu gục đầu tắt thở trên thập giá sau khi đã toàn thắng cái chết bằng sự vâng phục của Người đến giọt máu cuối cùng và nói: «Mọi sự đã hoàn tất», con quỷ Satan đã bị quây cuồng và tan biến vào đáy sâu của vực thẳm.

Tuy vậy, cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu không chỉ mang một màu sắc ảm đạm u buồn, mà trái lại đã làm bừng lên những nét tươi sáng làm mát lòng người. Bởi những khổ đau mà Chúa Giêsu vô cớ phải gánh chịu là cốt để đánh thức được lương tri người tội lỗi, lúc bấy giờ cũng như mãi mãi về sau. Chẳng hạn, trong số vài thượng tế có mặt đêm ấy, vẫn có ông dám lên tiếng phản đối âm mưu đen tối, thậm thụt xét xử người trong đêm hôm, không có mặt toàn thể Thượng Hội Đồng. Bà Claudia vợ quan Trấn Thủ Philatô thì cứ mãi phập phòng lo sợ chồng mình phải nhúng tay váy máu người công chính, và cứ bám sát theo tình hình càng lúc càng trầm trọng thêm để cố can gián Philatô chớ giết người vô tội, một đấng thánh theo như lòng bà cảm thấy. Chính bà đã nhìn thấy Mẹ Maria đứng lặng người nhìn con mình bị quân lính La Mã dùng roi vọt, dây móc sắt đánh tan nát cả thịt da. Bà vội vàng kín đáo đem đến cho người mẹ đau khổ vài vuông vải trắng và thành khẩn xin người nhận lấy. Cuối cùng, Mẹ Maria đâu có được dùng khăn để lau cho con mình, mà lau máu me, da thịt con mình vung vãi nhầy nhụa trên sàn đá, sau khi bị đánh mềm nhũn người ra và bị lôi đi khỏi sân tiền đình.

Còn nữa, sau khi Chúa Giêsu ngã lần thứ ba, kiệt quệ đến mức không còn sức chỗi dậy được nữa, quân lính đành phải cưỡng bách một người qua đường là Simêon vác đỡ thập giá với Chúa Giêsu. Lúc đầu, từ chối không được, Simêon hết sức bực bội vì bỗng dưng bị vạ lây với người tử tội. Nhưng càng lúc ông càng tỏ ra có thiện cảm với Người. Chính Simêon là người ra sức hết mình vác thập giá đi hết nửa chặng đàng còn lại, đang khi Chúa Giêsu choàng cánh tay ngang qua bã vai ông, để được thập giá lôi đi theo bước chân vững chắc của ông. Đã thế, Chúa Giêsu còn té chúi nhủi thảm thiết đến 3 lần nữa, để rồi lại được lôi dậy cùng lê bước với Simêon. Mà mỗi lần té ngã như vậy là mỗi lần Simêon phải nai lưng gồng gánh sức nặng của thập giá để khỏi bổ nhào lên thân mình nhàu nát của Chúa Giêsu. Cũng chính Simêon đã phẫn nộ thét lên, hùng hổ can gián quân lính cứ tàn nhẫn đánh đập Chúa Giêsu lúc người gục ngã lần thứ tư để cố vực Người dậy, đang khi họ biết rằng Người đã kiệt sức quá rồi. Chính Simêon đã khuyến khích Chúa Giêsu «ráng lên đi, sắp đến nơi rồi, sắp xong rồi», con đường thương khó đã tới hồi kết thúc! Lên đỉnh đồi, chịu không nổi cảnh Chúa Giêsu ngã gục đến lần thứ sáu, ông nhìn thẳng vào mặt Chúa Giêsu thét: «Đến rồi. Thoát đi. Cút đi.» Ông rời bỏ đỉnh đồi trong vội vã như thoát được một cảnh man rợ hãi hùng…

BA GƯƠNG MẶT PHỤ NỮ THẮM THIẾT TÌNH NGƯỜI

Bà Vêrônica, người thiếu phụ có lòng, khuyên đứa con gái «đừng sợ» đang khi bà toan liều đem nước ra cho Chúa Giêsu phải vác thập giá nặng nhọc đến tuôn hết mồ hôi và máu ra. Trong lúc quân lính la hét quất roi tới tấp trên thân mình bầm dập đầy thương tích của Chúa Giêsu, bà không giữ nổi xúc động trước gương mặt trây trét đầy máu me của Người. Người thiếu phụ thản nhiên liều mình xông tới đúng vào lúc Chúa Giêsu ngã gục xuống lần thứ 5, bà quì xuống nhìn Người một cách trìu mến, rồi lấy chiếc khăn đội đầu trao cho Người. Chúa Giêsu đã không phụ lòng bà, Người đỡ lấy khăn, úp mặt vào thật sát và trao tặng lại bà. Có lần nào bà đã nhìn thấy gương mặt này khi được nghe thuyết giảng hay chưa? Nhưng lần này, bà có được tấm khăn còn ghi lại gần nguyên vẹn khuôn mặt máu me của Chúa để bà suy niệm. Vừa lúc bà trao vội cho Chúa Giêsu cốc nước, một người lính nhào tới đá phăng đi và xô đuổi bà ra. Lui ra, Vêrônica vẫn còn đứng lặng người bên đường, ôm tấm khăn thắm máu sát vào lòng, dõi mắt nhìn theo Chúa Giêsu, rồi gục đầu thầm khóc…

Mađalêna, người đàn bà tội lỗi của Mel Gibson, đã từng theo gót chân Chúa cùng với Mẹ Maria của Người. Đem khuya hôm ấy, bà cùng Mẹ sững sốt nghe môn đệ Gioan hớt hải chạy ập vào báo hung tin Thầy bị bắt. Tức tốc Mađalêna cùng Mẹ đi đến Dinh Thượng Tế Caipha. Mađalêna nhìn những biến cố thê thảm xảy ra cho Thầy mình từ lúc đó đến Núi Sọ với con mắt đầy cảm thông, đau đớn xót xa Thầy và khóc lóc thảm thiết về những tội lỗi của mình. Trong số đồ đệ đi theo Thầy có mặt hôm ấy, người đàn bà tội lỗi này có lẽ là người hiểu hơn hết tại sao Chúa Giêsu bằng lòng chịu nạn chịu chết trên thập giá. Vào lúc cùng với Mẹ Maria quì lau sàn máu vãi thịt rơi của Chúa, Mađalêna lấy chính khăn đội đầu mình xuống âu yếm thắm máu thịt Người. Cùng lúc ấy, Mađalêna nhớ lại cảnh bà bị các đầu mục Do Thái đòi ném đá vì bắt gặp quả tang bà phạm tội ngoại tình, đang khi Chúa Giêsu thì tìm cách cứu bà. Làm như thế tức là Chúa Giêsu tỏ ý sẵn sàng đứng ra lãnh nhận án chết thay cho bà rồi. Bà bò sát đến ôm chân Chúa, và Chúa âu yếm nắm tay bà đỡ dậy, nói: «Tôi không kết án chị đâu» (Ga 8, 1-11). Tình yêu của Chúa Giêsu đã nâng người đàn bà tội lỗi này lên địa vị làm người và làm con Chúa, Mađalêna hiểu được như vậy.

Người đàn bà tội lỗi này can đảm bước theo từng bước con đường thập giá, và khóc thương thảm thiết khi quân lính đóng đinh Người vào thập giá, lập úp rầm rập thập giá xuống rồi lật ngửa bừa càng thâp giá ra, bất chấp sức nặng của nó va chạm vào mặt đất làm cho người tử tội đau đớn đến chừng nào. Mađalêna run rẩy toàn thân và òa lên khóc nức nở, khi Chúa Giêsu run rẩy nói: «Mọi sự đã hoàn tất», và ngước mặt lên thưa cùng Chúa Cha: «Con xin phó thác linh hồn con cho Cha» rồi gục đầu tắt thở. Mađalêna hiểu rõ Chúa Giêsu hứng chịu tất cả những đau khổ ấy vì ai. Bà chưa hề chối Chúa như Phêrô, nhưng có thể bà khóc suốt đời và nhiều hơn Phêrô nữa. Vì chính bà đã nhận được Tình Thương Cứu Độ trước và sau khi lãnh nhận máu thịt của Người thắm vào chiếc khăn đội đầu của mình. Ngay từ lúc đầu thức giấc giữa đêm và nghe Mẹ Maria bảo hình như có gì chuyển động trong đêm tối, trước cả khi Gioan ập cửa chạy vào, Mađalêna đã hiểu được rằng sắp có sự chuyển đổi thật sự là «người nô lệ nay được giải thoát khỏi gông cùm tội lỗi». Ai yêu nhiều thì sẽ được tha thứ nhiều, đó là trường hợp của Mađalêna.

Mẹ Maria, người đã cưu mang con mình trong lòng suốt cuộc đời và đã được tiên báo «một lưỡi đồng sẽ đâm thâu qua lòng bà» (Lc 2,35), lúc bấy giờ không có vẻ gì bỡ ngỡ, tuy vẫn bị kích động mạnh nhiều lần, trước tai nạn xảy ra cho con Mẹ. Đến Dinh Caipha, Mẹ đã được phúc nhìn thấy ngay trong đám đông gương mặt đáng yêu của con mình (nay đã bầm dập, sưng húp) đang chăm chăm nhìn Mẹ, trong lúc mà mẹ con xúc động nhớ lại cảnh năm nào con làm thợ mộc đóng chiếc bàn quá cao mà Mẹ nghĩ rằng không phải dùng để ăn đứng (hay dùng để tế lễ con mình chăng!), và hai mẹ con đã đùa giỡn thân thương với nhau trước khi vào bàn cơm. Từ Dinh Caipha, Mẹ theo dõi từng cử chỉ con Mẹ, đau với cái đau của con, nhục với cái nhục của con, bị nghiền nát với tấm thân nghiền nát của con, nằm sát xuống sàn nhà có kẽ hở mà bên dưới con Mẹ đang bị xiềng để có được chút riêng tư ấm áp khi con âu yếm nhìn lên Mẹ. Mẹ như người điên dại khi thấy con bị đòn bọng, máu me và da thịt tung tóe. Mẹ không hề khóc lóc kêu gào thảm thiết, mà chỉ âm thầm rơi lệ xót xa cho những người lý hình đang hành hạ con mình. Trên con đường thập giá, Mẹ tìm cách gặp mặt con, để tỏ chút lòng hiệp thông và chia sẻ sứ mạng khổ nhục của con. Vừa lúc con Mẹ té ngã lần thứ hai trên con đường thập giá, Mẹ hối hả chạy lại ôm con âu yếm, đang khi Mẹ nhớ lại cảnh Mẹ hớt hải chạy lạy ôm chằm con lên hôn lúc con lên 5 té ngã ngoài sân nhà.

Lên đến Núi Sọ, Mẹ Maria quì xuống, gục đầu cầu nguyện, rồi ngước mặt lên như tỏ lòng dâng hiến con Mẹ cho Chúa Cha, để hoàn tất chương trình cứu độ của Ngài. Mẹ không có lấy một lời than trách đối với những tên lý hình vẫn tiếp tục hăng say bạo hành trên thân xác nhầy nhụa thảm thương của con Mẹ, sung sướng trên sự đau khổ của người tử tội, bất chấp là họ có tội hay không. Mẹ không can gián, biện hộ khi Thượng Tế, đoàn tùy tùng và quân lý hình khích báng và hạ nhục con Mẹ đang hấp hối trên thập giá. Khi con Mẹ sắp trút hơi thở cuối cùng, trời đất sẫm tối lại, mây trời vần vũ, nhiều người đã bắt đầu kéo nhau bỏ đi, Mẹ tiến gần đến chân thập giá, ôm hôn tha thiết bàn chân con Mẹ, và ngước mắt lên nhìn con, xót xa nói: «Thịt này là thịt của Mẹ, máu này là máu của Mẹ, con cho Mẹ chết theo con thôi.» Gioan vẫn theo Mẹ từ đầu, và đang đứng gần Mẹ bên thập giá. Chúa Giêsu nhìn xuống Mẹ và nói: «Này là con bà», và nhìn qua Gioan, nói: «Này là Mẹ con.» Vâng, Mẹ không được chết, Mẹ phải sống để tiếp nối sứ mạng của con Mẹ nơi trần thế với những kẻ Chúa chọn, Chúa thương. Khi hạ xác con xuống để nằm trong lòng Mẹ, Mẹ đăm đăm nhìn ra xa, hy vọng rằng con mẹ sẽ sống lại ra khỏi ngôi mộ vắng…Mẹ tâm niệm từ lâu và khám phá dần dần vai trò đồng công cứu chuộc của Mẹ vậy.

CÔNG LÝ CỦA QUYỀN LỰC GIẾT HẠI NGƯỜI CÔNG CHÍNH

Ai cũng biết Lề Luật Chúa trong Đạo cũ được coi là tuyệt đối phải tuân giữ. Người ngoại tình, chẳng hạn, phải bị ném đá, và thường là ném đá cho đến chết. Còn nhiều luật lệ khác, như kiêng ăn thịt dơ bẩn, rửa tay trước bữa ăn, kiêng làm việc ngày Sabbat, không chung chạ hay đụng chạm đến người ngoại đạo, tội lỗi, v.v. là những luật mà chính Chúa Giêsu không coi trọng hơn luật yêu Chúa và yêu người. Lối sống và lời giảng dạy của Chúa Giêsu có khi làm chướng tai gai mắt, có lúc động chạm đến nếp sống đạo đức của người sùng đạo và hàng giáo phẩm lúc bấy giờ. Nhiều nhà lãnh đạo Giáo Hội thời bấy giờ lấy làm khó chịu và đã theo dõi, đả kích và lên án Người. Sau cùng, Thượng Tế Caipha và một số người trong họ đề quyết Người phải chết, vì cái tội coi mình có quyền trên cả Đền Thánh và dám tự xưng mình là Con Thiên Chúa, Đấng Messia đến để cứu nhân độ thế. Nói thế, tức là xúc phạm đến cơ cấu quyền lực của Giáo Hội và khinh mạng hàng giáo phẩm là kẻ đại diện cho Chúa ở trần gian.

Thực vậy, Mel Gibson đã cố tình tô đậm vai trò chủ chốt của Thượng Tế Caipha trong cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, cố ý làm nổi bật cung cách của ông xách động và điều động vụ này từ đầu cho đến cuối. Thái độ cố chấp của Thượng Tế Caipha và đoàn tùy tùng, cùng những luận điệu xảo quyệt của họ, là cốt nhằm triệt hạ cho kỳ được một kẻ phạm thánh, phạm thánh trước tiên là đối với Thiên Chúa và thứ đến là đối với họ. Họ hoàn toàn dửng dưng trước những đau khổ của kẻ tử tội, vì họ tin rằng họ có chính nghĩa khi triệt để áp dụng luật pháp đối với kẻ có tội, cho dù đó là luật pháp phải mượn tạm của triều đình La Mã để thi hành luật Chúa. Họ điêu ngoa áp lực với Philatô: «Chúng tôi chỉ có một vua là Césaré, nếu ông tha cho Vua Do Thái, tức ông không là bạn của Césaré». Thực vậy, từ xưa đến nay, không thiếu những trường hợp mà quyền lực của Đạo Chúa cấu kết với quyền lực của trần thế để thực hiện cho kỳ được ý đồ của mình, khi cả tin rằng đó là ý đồ của Chúa, đang khi gây ra trước mắt biết bao cảnh bất công đổ máu người vô tội.

Về phía Philatô, ngay từ đầu ông thấy rất rõ khi trao đổi quan điểm với bà Claudia vợ ông rằng ông bị kẹt trong thế trên đe dưới búa. Ong phải tìm cách thoát ra thế kẹt này để bảo vệ quyền lợi của ông và quyền lực của cơ chế triều đình La Mã. Tha cho người vô tội thì ông sợ dân chúng nổi loạn, mà xử tử hình người công chính thì ông cũng sợ kẻ tin theo người ấy sẽ quấy phá, đang khi lệnh trên buộc ông phải ra tay dẹp loạn và củng cố trị an. Bất chấp sự ray rứt dằn vặt của lòng dạ đàn bà nơi vợ ông, Philatô quen suy nghĩ và hành động theo quan niệm chính trị rằng người làm chính trị có quyền làm ngược lại với lương tâm mình để cho trên thuận dưới hòa và bảo toàn tuyệt đối quyền lợi của quốc gia mình. Đó là cung cách không riêng gì của Philatô, mà là của người làm chính trị ở mọi thời đại, thời trước cũng như thời nay, và ở mọi chế độ, độc tài hay dân chủ tự do.

Đối với Chúa Giêsu, Philatô tỏ vẻ thông cảm, nhũn nhặn, tìm hiểu «chân lý», để tránh bị những kẻ tin theo Người bất mãn, nổi loạn. Bà Claudia thì vẫn từ tốn khuyên chồng nên làm theo chân lý mà lòng ông chắc chắn nhận biết, nhưng muốn tránh né. Nhưng chân lý của riêng ông là ông sẽ làm hết cách để cứu người vô tội, bằng không cứu được thì đó không còn là lỗi của ông nữa. Ong đã thất bại lần thứ nhất để cứu Chúa Giêsu, khi giao lại cho Vua Hêrôđê xử Người, mà vị vua vô tư cách này đã trút lại trách nhiệm về cho ông. Ong thất bại lần thứ hai, khi tuyên bố ông không thấy Chúa Giêsu có tội tình gì và sẵn sàng nhân nhượng để cho dân chúng quyền chọn tha cho ai, Giêsu Vua Do Thái, hay tên tội phạm Baraba. Ong thất bại lần thứ ba, khi cho lệnh phạt đòn (mà không đến chết) Chúa Giêsu, để rồi mong dân chúng sẽ tha cho người vô tội mà bị đòn bọng đến «không còn hình dáng người ta nữa». Cuối cùng, ông dở trò rửa tay «vấy máu người công chính», và bỏ nhỏ lệnh «hãy làm theo ý họ», như thể ông bị ép buộc để làm. Philatô quả là một quan cai trị thâm độc với bàn tay sắt bọc nhung.

Từ khi Chúa Giêsu thành lập Giáo Hội của Người để thực hiện chương trình yêu thương và tha thứ của Chúa đối với mọi người trên trần thế, nhất là người tội lỗi, người ta có thể nhận thấy biết bao nhiêu lần các cấp quyền lực của Giáo Hội đã sử dụng sai trái hay thất cách quyền bính Chúa giao phó để bảo vệ quyền lợi của mình, gây ra biết bao nhiêu hận thù và chia rẽ ngay trong hàng ngũ con cái Chúa nơi Giáo Hội và trong trần thế. Và từ khi con người biết sử dụng cơ chế quyền lực chính trị để nhằm đem lại an sinh và phúc lợi cho xã hội loài người, không biết đã xảy ra bao nhiêu cuộc chinh chiến tàn sát hằng triệu sinh linh, những cuộc xung đột tang tóc, đàn áp, bóc lột, bất công, nhân danh nguyên tắc bảo toàn quyền lực và quyền lợi của phe nhóm mình. Bạo động, bạo hành trong ý nghĩ, lời nói, việc làm xảy ra như cơm bữa mọi nơi, mọi lúc và mọi người. Có phải vì thế mà khi lên án cơ chế bạo lực, cuốn phim «Cuộc khổ nạn của Chúa Kitô» bị một số người nắm quyền lực đó đây lên án chăng? Xem cuốn phim của Mel Gibson, mỗi người có thể cảm thấy tuồng như mình có đóng một vai nào đó trong cuộc khổ nạn này. Nếu quả thực khán giả không tìm cách đổ tội cho kẻ giết Chúa là ai, mà cảm nhận được rằng tất cả chúng ta đều là kẻ giết Chúa, mỗi người theo cách thế của mình, thì Mel Gibson có quyền tự mãn là đã thành công rồi vậy.

MẸ TIN CON ĐI, «CON SẼ ĐỔI MỚI HẾT MỌI SỰ»

Các môn đệ của Chúa Giêsu đã tin nằm lòng là Người sẵn sàng dùng quyền năng của mình để canh tân, cải cách, đổi mới tất cả, kể cả giải phóng dân tộc Do Thái khỏi mọi tai ác, gông cùm của ngoại bang. Quả vậy, họ đã từng nghe Người rao giảng «Nước Trời» đã gần đến, và kêu gọi mọi người hãy chuẩn bị để đón rước Chúa. Các môn đệ và những người tin theo Chúa đều mơ ước thấy ngày vinh quang ấy, để được hưởng phần phúc của mình. Hai anh em Giacôbê và Gioan đã chẳng mong được có ngày ngồi bên tả và bên hữu Chúa Giêsu đó sao? Các môn đệ đi rao giảng Nước Chúa, khi về chẳng xin Chúa Giêsu cho lửa trời xuống thiêu đốt bọn vô đạo chống lại quyền năng của Chúa vì đã cứng lòng tin vào sự rao giảng của họ đó sao? Cứ mỗi lần Chúa Giêsu cấm kẻ mù được sáng không được tung hô danh Chúa, hay cấm các môn đệ không được truyền tụng cảnh Người tỏ hiện vinh quang trên núi Tabo, hoặc cấm tuyên xưng Người là Đấng Cứu Thế chẳng hạn, chắc họ hiểu ngầm rằng đó là thủ thuật của Người để chờ thời bất thần tung ra đòn phép quyết liệt của mình. Rốt cuộc, Chúa Giêsu đã làm họ thất vọng ê chề vì cái chết bi thảm rất vô lý của mình. Hai đồ đệ đi trên đường Emmau đã tỏ ra rất áy náy âu lo về số phận của Chúa Giêsu đã chết 3 ngày rồi và xác nhận rằng «trước đây, chúng tôi vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ giải thoát Israel» (Lc 24, 21).

Trên đường vác thập giá, vừa khi Mẹ Maria chồm tới ôm lấy con ngã gục rã rời, Chúa Giêsu ôn tồn nhắc lại Mẹ lời hứa thâm tín của Người từ khi bước chân ra đi rao giảng Nước Trời rằng «con sẽ đổi mới hết mọi sự», Mẹ hãy tin con đi. Mẹ Maria tin nằm lòng và vẫn còn vững tin điều đó khi con mình lao đao chập choạng vác thập giá lên Núi Sọ và rồi phải chết nhục nhã trên thập giá. Tuy lòng Mẹ tan nát vì xót thương con, Mẹ vẫn tin chắc sự chết của con Mẹ rồi ra sẽ đổi mới tất cả. Chắc lúc bấy giờ Mẹ cũng chưa hiểu hết chương trình cứu độ thâm sâu của Thiên Chúa ra sao, nhưng lòng Mẹ không chút nghi nan hay thất vọng, mà vẫn hoàn toàn phó thác nơi con mình. Mẹ Maria hiểu được rằng Mẹ cần phải tâm niệm những lời con nói và nhìn ngắm cách sống của con, để hiểu thâm ý con và cố gắng thực hiện theo đó mỗi ngày, thì chắc chắn bình an của Nước Trời phải đến, ngay giữa lòng Mẹ. Đúng lúc ôm xác con, Mẹ đã mường tượng thấy con Mẹ sẽ thắng sự chết, bước ra khỏi mồ và sẽ đổi mới mọi sự. Nhờ niềm tin ấy, bình an của Chúa từng ở cùng Mẹ từ lúc thụ thai con Mẹ cho đến giờ phút ôm xác con Mẹ vào lòng…

Để giúp khán giả hiểu được đường lối đổi mới của Chúa Giêsu, Mel Gibson đã cố lồng vào cuộc khổ nạn những hồi cảnh nhắc lại từng chập những hành vi và lời lẽ thâm thúy nhất của Người. Chẳng hạn, khi Chúa Giêsu bị đánh tan xương nát thịt ra ở sân tiền đình của Dinh Philatô, khán giả thấy lại cảnh Chúa Giêsu rửa chân cho môn đệ và sau đó khuyên các môn đệ hãy noi gương Thầy mà làm, và cảnh giác rằng tôi tớ không lớn hơn Thầy mình, mà nếu người ta bách hại Thầy thì môn đệ Thầy cũng sẽ bị bách hại; nhưng «đừng sợ» vì sẽ có Đấng Phù Trợ bảo hộ. Rồi từ đó, khán giả được nhắc nhở lại những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, như «anh em hãy thương yêu nhau, như Thầy thương yêu anh em», và «Thầy là mục tử nhân lành» sẵn sàng thí mạng mình vì bầy chiên. Vừa khi Chúa Giêsu kề vai vác thập giá đi ngang qua cổng thành giữa đám đông người hiếu kỳ đi theo, khán giả được thoáng thấy lại cảnh dân chúng cầm cành lá rước Người vào thành Jérusalem. Hồi cảnh này muốn gợi ý rằng giờ đây mới đúng là cuộc đón rước đích đáng Chúa Giêsu lên thành thánh Jérusalem Mới. Khi nhìn lên Núi Sọ, khán giả được thấy lại cảnh Chúa Giêsu giảng trên núi về 8 mối phúc thật và nhấn mạnh rằng «anh em hãy yêu kẻ thù mình, vì nếu anh em yêu kẻ yêu anh em, thì nào có công ích gì!» Hơn nữa, «không có gì lớn bằng sự xả thân chết cho kẻ mình yêu». Trên đỉnh Núi Sọ, khán giả được thấy lại cảnh Chúa Giêsu thiết tha trao gởi cho các môn đệ «mình và máu» Người được thí ban để chuộc tội nhân loại và trăn trối «anh em hãy làm điều này mà nhớ đến Thầy».

Ngày nay, người tín hữu thường họp nhau lại để cùng «làm điều này mà nhớ đến Thầy». Nhớ đến Thầy là nhớ cái gì và để làm gì? Quả thực, lúc bấy giờ và suốt hai mươi thế kỷ qua, điều Chúa làm không phải là dùng quyền năng của Người để hóa phép thu phục nhân tâm và đổi mới mọi sự, mà chính là dùng cái chết «điên rồ dại dột» của Người để giúp mọi người có thể giác ngộ và hoán cải tâm hồn mình theo gương xả thân vì yêu của Người. Để trung thành với Lời Chúa, Giáo Hội của Chúa sẽ không dùng quyền lực, tiền bạc, bom đạn, bạo động, áp lực, hay mưu lược, hoặc dùng nhà thờ nguy nga lộng lẫy để chiêu dụ kẻ theo Chúa và dùng luật lệ nghiêm khắc của Giáo Hội để trừng phạt, áp đặt cho Nước Chúa trị đến. Thực ra, đôi khi Chúa Giêsu có dùng quyền năng để chữa lành kẻ bệnh tật và giúp kẻ nghèo khó gặp cơn khốn đốn, nhưng Người không hề dùng quyền năng để chiêu dụ người quyền thế, như Vua Hêrôđê hay quan Trấn Thủ Philatô, hoặc các Thượng Tế khích báng Người, để rồi nhờ thế lực của họ mà xây dựng Nước Trời. Kế hoạch của Chúa nhằm tái tạo con người trở nên «con người mới» đã được cưu mang từ thuở muôn đời, được chính Chúa Giêsu thực hiện nơi bản thân mình bởi sự chết và sống lại của Người, và được Thánh Thần Chúa tiếp tục khai triển mãi nơi con người tội lỗi cho đến ngày tận thế. Mỗi ngày, người tín hữu kitô phải tự mình làm cái điều mà Chúa cũng không muốn làm thay cho mình, đó là chết đi cho con người tội lỗi của mình và sống lại với Chúa Phục Sinh, vì bao lâu mình còn sống thì bấy lâu mình vẫn còn là người tội lỗi trước mặt Chúa.

Fribourg ngày 22/04/2004

[1] Năm 1912, cuốn phim «Từ máng cỏ đến thập giá» của Sidney Olcott ; 1927, «Vua trên hết các vua» của Cécil Blount De Mille ; 1934, phim của Duvivier ; 1958, «Vua trên hết các vua» của Nicholas Ray ; 1964, «Phúc Am theo thánh Matthêu» của Pier Paolo Pasolini ; 1965 phim của Stevens ; 1972, phim của Jewison ; 1976, «Năm 1, Đấng Messia» của Roberto Rossellini ; 1978, «Giêsu Nazarét» của Franco Zeffirelle ; 1988, «Cơn cám dỗ cuối cùng của Đức Kitô» của Martin Scorsese – phim đưa lên màn ảnh lớn một khuôn mặt Đức Kitô rất «trần tục», còn mơ đến chuyện lập gia đình với người yêu Madalêna trong lúc quần quại trên thập giá-- ; 2003, «Phúc Âm theo thánh Gioan» của Philip Saville trong đó Henry Cusick đóng vai Chúa Giêsu rất thành công.

Trần Ngọc Báu


(Xem thêm các bài cùng một dạng, xin mời vào:

www.suyniemloingai.blogspot.com

www.chuyenphiemdaodoi.blogspot.com )

No comments: