PHAOLÔ và cuộc đời thường
Khởi từ Galát
Phần 2
Sứ vụ Galát
Trong
mọi trường hợp, thánh Phaolô luôn đặt vấn đề một cách chính xác, rất đích thực.
Dù gặp khó khăn đến thế nào đi nữa, thánh nhân vẫn sẵn lòng liên hệ với thủ
lãnh các cộng đoàn dân Chúa ở Giêrusalem và Antiôkia.
Thánh
Phaolô không khi nào chấp nhận mình là bề dưới của các vị ấy. Nhưng dù vậy, ông
vẫn tìm sự hỗ trợ từ các ngài, để cho êm. Ngay từ đầu, thánh nhân đã được hai
thánh tông đồ hàng đầu là Phêrô và Giacôbê đồng ý về nhiều chuyện; chí ít là chuyện
không nên buộc các tân tòng vừa vào Đạo phải qua thủ tục ‘cắt bì’. Về mặt ngoài,
xem ra thủ lãnh các tông đồ vẫn cổ võ lập trường của thánh Phaolô, ngay từ đầu.
Nhưng sau đó, các ngài lại đổi ý, nhất là sau lần các thánh bất đồng với nhau về
chuyện xảy ra ở Antiôkia, khi thánh Phêrô cương quyết phản bác thánh Phaolô về việc
để người Do thái và dân ngoại sẻ san ăn đồ bán ở chợ dù biết rằng thứ ấy đã
dâng cúng thần linh khác Đạo.
Rõ
ràng, xung khắc/bất đồng là vì hai vị trưởng thượng trong Hội thánh thời ấy đã
có quan niệm khác biệt, đến đối chọi. Thánh Phaolô thì cho rằng con dân Đạo
Chúa có tự do trong chuyện này. Còn, thánh Phêrô lúc đầu cũng muốn “du di” đôi
chút, nhưng sau đó lại theo hướng giải quyết của Giêrusalem, tức: bắt buộc mọi
tín hữu phải nhất loạt tuân thủ luật Torah của Do thái, về những chuyện đại loại
như thế. Trong vụ này, xem ra người thắng cuộc vẫn là nhị vị thủ lãnh Phêrô và Giacôbê;
còn, kẻ đại bại vẫn luôn là Phaolô. Từ đó về sau, không có bằng chứng cho thấy các
đấng bậc đỉnh cao là Phêrô và Phaolô lại đã làm hoà với nhau về bất cứ chuyện
gì, dù lớn/nhỏ.
Kết
cục là, thánh Phaolô và Banaba đành phải đi Giêrusalem để tiếp tục công cuộc giảng
rao/mục vụ theo đường lối rất riêng của các ngài (Gal 2: 1-10). Nhất là khi xảy
ra sự việc: một số các vị được gọi là ‘mật thám’ của các đấng bậc ở Giêrusalem,
cương quyết chống lại động thái khá thông thoáng của nhóm Phaolô để cho tân tòng
vừa hồi hướng được tự do, chứ không buộc phải thông qua tục lệ ‘cắt bì’, nếu muốn
vào Đạo. Cuối cùng thì, thánh Phêrô và Giacôbê đành nhượng bộ thánh Phaolô và
Banaba về hai việc, là: thánh Phêrô và Giacôbê tập trung chuyên lo cho người Do
thái, còn thánh Phaolô và Banaba thì lo cho người ngoài Đạo.
Thêm
nữa, các ngài đều đã đồng ý để cho nhóm thừa sai Phaolô và Banaba lo phụ trách
giúp người nghèo ở Giêrusalem.
Ở đây, cũng xin mở một dấu ngoặc để chú thích thêm rằng:
chừng như thánh Giacôbê, mới là người “cầm cân nảy mực” quyết định hết mọi việc.
Bởi truyền thống Do thái xưa nay chỉ nhìn vào thời gian và nơi chốn trong lai
thời để nắm chắc được rằng tín hữu Do thái lẫn dân ngoại, đều nên một. Và khi ấy,
lại thấy có thêm lập trường chia rẽ khác về người ngoài Đạo chưa tin vào những
điều được các thánh giảng rao/truyền tụng là có nên trục xuất những người chưa
tin ấy khỏi cộng đoàn khi tình huống đến hồi kết cục, không? Hoặc, ai cũng nắm chắc
rằng: rồi ra, tất cả đều quay về một mối, mà thôi. Có thể, thánh Giacôbê lúc đầu
cũng chọn lập trường thứ hai quyết bám víu vào đó, tức là: người ngoài Đạo muốn
trở lại, vẫn buộc phải qua thủ tục ‘cắt bì’ vì khi trước họ cũng đâu buộc phải
chịu “cắt bì” khi sống chung với người Do-thái đến lúc cuối, trước khi vào Đạo.
Thỏa
thuận này, đặc biệt về chuyện cắt bì, và sau đó là qui định giữ luật Torah của
Do-thái, đều không thành hiện thực đối với cộng đoàn tín hữu ở Antiôkia.
Đặc
biệt là: nơi nào có nhóm người sống biệt lập/thuần chủng về địa dư, thì nhóm người
ngoài Đạo lại vẫn gần gũi/chung đụng với người Do thái, nên mới khó. Thật ra,
chẳng chóng thì chày, tân tòng nào trước kia là người ngoại giáo nay trở lại và
nhóm Kitô-hữu khi trước thuộc Do-thái-giáo nay mới trở lại, đều sống chung ở cùng
thủ phủ vẫn muốn sẻ san, ăn đồ cúng kiếng, nên càng khó. Và, điều này làm nhiều
vị không tránh được trường hợp người trong cuộc vẫn thắc mắc nhiều về luật pháp.
Kết cuộc là: ở Antiokia, luật ăn đồ cúng kiếng không còn là vấn đề gai góc/khó giải
quyết nữa -và đôi lúc thánh Phêrô cũng đồng ý thế.
Tuy
nhiên, thánh Giacôbê không chấp nhận sự việc này, khi ông nhấn mạnh rằng: luật lệ
ăn đồ cúng phải áp dụng cho mọi người. Và, thánh Phêrô và các vị ở trung ương,
chừng như cũng muốn thế; chỉ trừ mỗi thánh Phaolô, thôi. Lúc đó, lại có thêm sự
kiện, là: thánh Phaolô cáo giác thánh Phêrô và những người cộng sự đã có động-thái
đạo đức giả. Nói chung, tất cả đều đã xử sự không lịch sự cho lắm. Với thánh
Phaolô, thì sự việc trở thành vấn đề cốt cán, trên nguyên tắc. Bởi như thế, sẽ
như thể bảo rằng: chẳng có gì thẳng thắn, đúng mức từ luật Torah mà ra hết! Hoặc,
chỉ mỗi chuyện tin vào Đức Kitô mới là điều quan trọng hơn mọi thứ, đó là điều chắc
chắn! Nói khác đi, nếu ta chỉ đặt nặng vào các luận cứ nêu trên, thì tại sao cứ
phải đối xử lịch sự với lập trường xưa/cũ, khi chẳng còn ai tin vào những chuyện
như thế, nữa?
Vấn
đề đặt ra với Galát, thực ra phần lớn chỉ là tập trung giải quyết tình huống giống
như thế. Antiôkia, là cộng đoàn mẹ ở Galát, nơi đây tương đối ít gây ảnh hưởng
chung cuộc do vị thế địa dư đầy ngăn trở bởi dãy Taurus mà ra. Thành thử, bà
con nơi đó lại có khuynh hướng chống báng thánh Phaolô là kẻ từng bại trận
không còn ảnh hưởng gì với nhiều giáo hội đàn em nữa. Các ngài chỉ muốn hành Đạo
theo cùng một khuôn khổ và chẳng muốn chia năm xẻ bẩy về giao ước do chuyện
không giữ luật Torah, mà ra.
Thành
thử, cả bên trong nội bộ Hội thánh ở Galát cũng như ngang qua các vị trước đây từng
gia nhập đoàn/nhóm của thánh Giacôbê, khi đó đã thấy mọi người đều cổ võ lập
trường chủ trương rằng tân tòng nào vừa hồi hướng trở về, đều phải thông qua tục
“cắt bì”, như mọi người. Thế nên, chuyện dễ thấy nhất, là: sự việc ở đây đã dính
kết với thói tục địa phương. Nhiều người hẳn sẽ hỏi: nếu ta cổ võ những chuyện như
thế, thì tại sao ta lại có thể hội nhập với nền văn hoá sở tại được? Nhiều vị lâu
nay từng gây khó hoặc trực tiếp khuấy động ở nhiều vụ –tức các bạn đạo thuộc
nhóm Giacôbê- đã đến Galát sau thời gian thánh Phaolô lưu lại nơi đây, lần
chót. Họ được coi như tín hữu Đạo Chúa gốc Do-thái-giáo. Các vị chủ trương áp dụng
luật Torah khá triệt để, và cả đến tục “cắt bì” cũng như luật ăn đồ cúng kiến đối
với người ngoại giáo vừa trở lại, nữa.
Vấn
đề đặt ra chẳng là chuyện thứ yếu, ít quan trọng. Nhiều vị –nếu không muốn nói
là hầu hết- là thành viên của nhóm bạn đạo ở Galát trước đây kính sợ Chúa, tức
những người ngoài Đạo nay trở thành dân con Thiên Chúa của Israel, nhưng lại
không muốn thành người có gốc Do-thái-giáo vì họ chẳng ưa thích gì tục “cắt
bì”, cũng vì thế. Họ là người được thanh tẩy là cốt để dấn thân vào với cộng
đoàn dân con Chúa nhưng lại không muốn chịu phép “cắt bì”, mỗi thế thôi. Hỏi: như
thế phải chăng họ vẫn là người ngoài Đạo? Họ có là con cháu Abraham cùng một hạt
giống là đấng thánh tổ phụ không? Họ có thực sự nằm chung cùng một Giao ước với
Chúa chứ?
Thư Galát
Nay là lúc, thánh Phaolô gửi một
lá thư thật thắm thiết đến cộng đoàn Galát với lời biện giải về điều mà ông gọi
là “tự do con cái Chúa” ở Tin Mừng. Thánh Phaolô nhất mực bảo vệ quyền lợi của dân
con trong Đạo là: được tự do mà không buộc phải “cắt bì”. Được thế, là nhân
danh nguyên tắc tuyệt vời của nền thần học Do-thái-giáo. Dù gì đi nữa, thánh
Phaolô nhất quyết phản bác việc đòi mọi người phải chịu “cắt bì” và bị
“Do-thái-hoá”. Thánh-nhân viết thư này, là để dặn mọi người trong Thánh Hội đừng
để cho phe/nhóm đối nghịch mua chuộc hoặc khuynh loát đến độ phải chấp nhận tập
tục “cắt bì”, như người Do-thái. Cuối cùng thì, tin vui cũng chậm đến, là: tất
cả mọi người đều có tự do không bị ràng buộc bởi luật lệ nào như thế. Và, trong
tự do, mọi người đều có khả năng đạt sự công chính của Thiên Chúa cũng như có
được quyền uy/sức mạnh của Thần Khí Chúa ở với mình, ngang qua Đức Giêsu Phục
sinh rất quang vinh.
Tác giả H.D. Betz
gọi thư Galát là “một trong các thư quan trọng nhất của loài người.” Còn, tác
giả Henry Wansborough lại bảo: đây là cung cách rất hay/đẹp để nói lên lập trường
rất khác biệt của Đạo Chúa, đối đầu với Do-thái-giáo. Cung cách ấy mở ra với đôi
ba chi tiết có liên quan đến giai đoạn cuộc đời của thánh Phaolô mà mọi người
không thể tìm được ở nơi nào khác. Cuộc sống của thánh-nhân được trình bày ở
các chuyện tương tự để cho thấy là ông đại diện cộng đoàn đấu tranh cho việc đưa
Tin Mừng vào sự tự do của con cái Chúa. Ông được ủy thác việc này trực tiếp từ Thiên
Chúa và ngang qua Đức Kitô Phục sinh, chứ không trực tiếp từ đấng bậc lãnh đạo các
phong trào trong Đạo Chúa. Có lẽ ta cũng nên nói nhiều hơn về sự ủy thác này, thay
vì chỉ nói về sự việc ông được cải hoán trở về cùng ràn chiên Hội thánh. Bởi,
ông không thay đổi lòng Đạo đến từ Do-thái-giáo nhưng chính ông cũng đã thay đổi
đường lối diễn giải của đạo ấy.
Vào lúc ấy, lại thấy xảy ra
nhóm người không thích lối suy nghĩ và hành động của thánh Phaolô cho lắm. Các
vị này, công khai mở các cuộc tranh luận với thánh-nhân. Các đoàn/nhóm như thế nay
thấy dẫy đầy ở Galát, cả ở cộng đoàn do chính thánh-nhân thiết lập vào khi trước.
Sự việc đối kháng với đường lối của thánh Phaolô mà họ đưa ra thật tinh tế, tiến
bộ; bởi họ dựa trên căn bản là người theo Do-thái-giáo hiểu rõ ngọn ngành về
Giao-ước hơn ai hết. Đó là Giao ước mang tính chất rất Abraham và Môsê. Cùng với
thánh Phaolô, những người như thế đồng ý rằng: tất cả đã trở về nguồn với
Abraham, và điều tuyệt vời là niềm tin của ông vào Chúa rất đậm đặc.
Truyền thống của đoàn/nhóm
Phaolô là qui về với Giao ước giữa Abraham và Thiên Chúa rút từ sách Sáng Thế
chương 17 qua đó, các vị nhấn mạnh đến trách vụ hỗ tương/hai chiều ở Giao ước,
tức: Thiên Chúa hứa với đấng tổ phụ là Ngài sẽ ban cho dân con người Do thái được
sinh sôi nảy nở, trù phú cả con đàn cháu đống lẫn đất đai màu mỡ. Đổi lại, dân
con Ngài cũng lập giao ước hứa sẽ chấp nhận cho tục “cắt bì” được phổ biến rộng
rãi.
Thánh Phaolô đối lại
với các vị bằng cách sử dụng đoạn sách Sáng Thế chương 15 theo truyền thống Do
thái-giáo về Giao ước với Abraham; nhưng trong đó không thấy đả động gì đến “cắt
bì” gì hết. Nghe thế, phe đối nghịch bèn bác bỏ mọi lập luận và nói rằng: nội
dung các đoạn văn như thế đều nói về niềm tin, nhưng là niềm tin có “cắt bì”.
Phản ứng lại chuyện
này, thánh Phaolô bèn hồi đáp bằng một luận cứ rút từ Bản 70 viết về công cuộc Sáng
Thế -đoạn này được thánh-nhân trích từ hồi ức của chính mình nhưng không đưa ra
nguồn văn nào để mọi người có thể tiếp cận. Thánh Phaolô đã đồng ý nhấn mạnh đến
khía cạnh bảo rằng: chính vì sống có niềm tin mới làm mọi người trở nên thực sự
đúng đắn, rất phải lẽ.
Nói cho cùng, thì lời lẽ xác đáng
mà các ngài đưa ra lại đã bảo rằng: đám con đàn cháu đống của tổ phụ Abraham sở
dĩ được chúc phúc là do họ thực sự sống niềm tin khi quyết tâm giữ luật Torah.
Con cháu, hậu huệ của Abraham đều làm thế. Bởi, nếu không làm thế, thì chắc chắn
họ sẽ bị lời nguyền có chúc dữ từ dân con mọi người. Người ngoại giáo hồi hướng
trở về với Đạo cũng sống có niềm tin, chứ không chỉ mỗi hậu duệ của Abraham mới
làm thế. Xem thế thì, lý luận rất phải của đám người này, là để trở về với cuộc
sống theo luật Torah qui định. Cũng thế, những người này sẽ bị lời nguyền/chúc
dữ đeo bám, nếu không sống theo qui định được nêu ra ở luật Torah nói trên. Bởi
thế nên, “Cắt bì” là cung cách xđể ta ét nghiệm trường hợp này.
Thánh Phaolô, một
lần nữa, lại phản bác một cách tuyệt vời, thật nhuần nhuyễn. Đây là dịp để
đoàn/nhóm của thánh-nhân suy tư theo tư thế sống thực, nhưng cũng là cơ hội để
các ngài có được nhận thức mới về những gì mình suy nghĩ. Thánh-nhân tự cho thấy
là niềm tin của đoàn/nhóm mình khác với phong cách tin tưởng của phe/nhóm đối
nghịch. Cung cách của phe/nhóm nghịch với đoàn/nhóm của thánh Phaolô là ở chỗ:
phe/nhóm ấy chỉ tin vào mỗi hậu duệ của Abraham, tức dân con Do-thái-giáo vẫn cứ
phải giữ luật Torah, mà thôi. Còn, niềm tin của đoàn/nhóm thánh Phaolô, là tin
vào con cháu đích thực của Abraham, tức Đức Kitô, và như thế đâu cần chỉ sống
theo mẫu mực của luật Torah là đủ, đâu! Phe/nhóm đối nghịch lại cứ tin vào thể
chế rất tiêu cực, còn thánh-nhân và đoàn ngũ dưới trướng của ngài nay tin vào Đấng
Phục Sinh thật sự rất sống động. Đấy, chính là điểm khác biệt nơi hiện-tượng-học
ở niềm tin của đoàn/nhóm rất Phaolô.
Phe/nhóm đối nghịch với thánh
Phaolô khi đó lại đã trả miếng bằng cách bảo rằng: Đấng mà đoàn/nhóm Phaolô tin
tưởng, rày đã bị chính luật Torah bài bác. Luật Torah bài bác/chúc dữ bất cứ ai
bị treo trên cây gỗ và Đức Kitô là người chết thảm trên cây gỗ mang hình chữ thập,
tức chịu đóng đinh vào khổ giá, chết rất nhục. Xem thế thì, nói theo cách mặc
nhiên, chính luật Torah đã chúc dữ Đức Kitô.
Thánh Phaolô đối ứng
rất nhẫn nại, lại vẫn bảo: bằng vào niềm tin ta có với Đức Ktiô, là ta ở trong
Ngài; và như thế, ta cũng bị luật Torah chúc dữ. Tuy nhiên, giả như tất cả mọi
người đều đã bị luật Torah chúc dữ rồi, thì ta đâu buộc phải tuân giữ luật này
nữa. Ngay như Đức Kitô nếu Ngài cũng bị luật Torah chúc dữ, thì Ngài cũng đâu bị
ràng buộc nhiều như thế. Và, các tín hữu nào tin vào Đức Kitô bị Luật Torah
chúc dữ, cũng đâu còn bị gò bó, bắt buộc như thế. Niềm tin ta có, là chỉ có với
một người, một Đấng. Chính vì ta ở trong sự tự-do của Đấng từng bị hệ thống lề luật
chúc dữ và cũng đã được giải thoát khỏi hệ thống chuyên chúc dữ ấy, nên rất thoải
mái.
Vì thế nên, ta được
giải án tuyên công là nhờ vào niềm tin khác biệt rất như thế. Bởi, ta tin vào Đấng
chấp nhận chịu đóng đinh vào khổ giá mang hình chữ thập, tức là: Đức Kitô, Đấng
đã bị luật lệ chúc dữ, nên cũng bị luật Torah của Do-thái-giáo o ép. Một khi ta
chịu trở thành đồng hình/đồng dạng với Ngài, thì tự khắc ta đã tham gia vào với
lời nguyền/chúc dữ do lề luật đề ra. Và, chính luật này cũng đã đặt mọi ráng buộc/o
ép lên chính mình Ngài. Do đó, ta được Ngài giải cứu, là để có được tự do. Thứ
tự do, không bị ràng buộc vào với tục lệ “cắt bì” hoặc bất cứ lời nguyền/chúc dữ
nào khác do thói tập tục này đặt ra. Ta có tự do dành sẵn cho ta, tạo được từ tổ
phụ Abraham là nhờ vào niềm tin ta có với Đức Kitô, Đấng đã được miễn giải khỏi
mọi lời nguyền/chúc dữ dù rất khác. Giải thoát khỏi mọi lời nguyền/chúc dữ cũng
tương tự như phục sinh/trỗi dậy khỏi cái chết trên cây gỗ mang hình chữ thập, đầy
máu đỏ.
Thế nên, có thể là:
ta buộc phải tuyên bố rằng: những ai hiểu/biết chuyện này là vì hệ thống luật lệ
do con người đặt ra, quyết khống chế mọi người bằng luật lệ. Và như thế, con
người sẽ nguyền rủa/chúc dữ lẫn cả ta, vì ta không làm theo họ, giống như họ, tức
không tuân giữ luật lệ do họ đặt ra, theo hệ thống. Diễn rộng hơn, sẽ thấy rằng:
ta được bảo cho biết: là ta sẽ bị hệ thống của người đời gồm những luật lệ kềm
chế bằng lời nguyền/chúc dữ, và không theo cung cách họ muốn; bởi thế nên, ta mới
được giải thoát, và thật sự rất tự do.
-------------------
Phe/nhóm đối nghịch với đoàn/nhóm
của Phaolô bèn chuyển qua luận cứ thứ hai để tranh cãi. Tranh và cãi, là họ chỉ
muốn bàn về Giao ước Môsê thôi. Phe/nhóm
đối nghịch đã bắt bẻ thánh Phaolô và bảo: “Hỡi
ông Phaolô, ông cũng nghĩ là ông được giải thoát sao? Chính chúng tôi mới được
giải thoát chứ! Chúng tôi được giải thoát bằng vào việc tuân giữ luật Torah.”
Và rồi, họ lại nói: Abraham có hai con trai là Isaac và Ismael. Isaac là con bà
Sarah, một nữ phụ tự do. Trong khi đó, Ismael là con của người đàn bà nô lệ tên
Hagar. Abraham ruồng rẫy người đàn bà nô lệ, nên Sarah mới trở thành nữ phụ tự
do, bởi đó toàn thể con cháu của bà là chúng ta, những người Do thái có được tự
do là nhờ đó.
Sinai là núi thánh ở nơi đó,
Môsê đã trao cho ta giao ước do ông đại diện thiết lập với Thiên Chúa. Núi đó
là nhà của những người được tự do con cái CHúa. Là dân con Do thái, ta không
thuộc truyền thống nô lệ, mà chỉ mỗi người ngoài Đạo mới như thế. Ta có được tự
do trong tuân giữ Giao ước do Môsê lập. Ta không giống như người Gals ở Galát.
Hồi đáp vấn đề này, thánh
Phaolô đưa ra lập trường mà thoạt nhìn ai cũng thấy giống như ông đang rơi vào
vòng luẩn quẩn. Thánh-nhân có lần bảo: Giêrusalem hiện tại (tức: núi Sinai) là
ý thức hệ rất khác biệt, cũng tựa hồ như núi Sinai, thôi. Nhưng ông lại cải
chính: Sinai là ở Ả rập! Cũng có thể, ở đây, ông chơi chữ trên âm vận na ná giống
hai tên gọi “Sinai” và “Siôn”. Và nhất là, kiểu chơi chữ hơi “bê bết” như đoán
già đoán non sự việc rồi bảo: dù sao, thì tất cả cũng đều là Ả rập hết. Điều
này có nghĩa là, với ông, Giêrusalem hiện ở vào vị thế của người nô lệ. Bởi, vốn
được coi như ở vào vị thế nô lệ, nên luật Môsê mới đòi tín hữu Do thái ở
Giêrusalem phải sống làm sao để được tự do như thế. Tức: thánh nhân muốn mọi
người đều có được tự do cả với luật Môsê nữa; và tự do khỏi mọi ràng buộc do luật
của Giêrusalem tạo ra. Nhưng ông chỉ đòi hỏi chuyện đó qua cung cách khác biệt
của niềm tin, thôi.
Điều này, dẫn ông vào với tư
tưởng về thanh tẩy chứ không phải tập tục “cắt bì”. Thanh tẩy, là động thái ngụp
xuống với nỗi chết và sống lại của Đức Kitô. Bởi, một khi ta đã tin, là ta ở trong
niềm tin mới từng chuốc lấy lời nguyền/chúc dữ, như với Đấng từng cất bỏ lời nguyền
thập giá để tạo tình thương yêu dành cho người bị áp bức, o ép. Và, khi ta được
biểu-tượng-hoá bằng thanh-tẩy để vào với trạng-thái giống như Ngài, thì tất cả
mọi người như ta, cũng được đồng hình/đồng dạng ngang bằng nhau qua tư thế
“thanh tẩy” mà về với trạng huống khác hẳn tình trạng nào đó tức có tự do. Và
khi đó, sẽ chẳng còn ai là Do thái hay dân ngoại, đàn ông hay đàn bà; chẳng ai là
nô lệ hoặc tự do. Chính nhờ tin vào “trạng huống có nỗi chết” của Đức Kitô, là “tình
trạng” của những người được thực sự giải thoát nay ra thế. Và, ta được thế, là
nhờ ơn thanh tẩy xoá bỏ nơi ta mọi lời nguyền/chúc dữ của khổ giá hình chữ thập.
“Quả thế, bất
cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô.
Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn
bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô. Mà nếu anh em thuộc về Đức
Kitô, thì anh em là dòng dõi ông Áp-ra-ham, những người thừa kế theo lời hứa.” (Gal 3: 27-29)
Với cộng đoàn tín hữu thời
tiên khởi, nghi thức thanh tẩy được thực hiện cả vào trước thời của thánh
Phaolô, nữa. Ở thời đó, thanh tẩy được thực hiện bằng động thái lặn ngụp sâu dưới
nước. Và đó là, sự ngụp lặn đầy biểu tượng của việc đi vào với cái chết và sự sống
lại của Đức Kitô. Đến lúc đó, thánh Phaolô mới lại bảo: “Vâng. Nhưng, anh chị em được thanh tẩy để đi vào với lời nguyền của
Ngài. Đừng để bị thanh tẩy nếu anh chị em không muốn ở vào tình thế ấy theo
cung cách chính trị.” Và đó là ơn thanh tẩy để ta đi vào với tình thế lạ lùng
khi Đức Kitô bị ràng buộc bởi lời nguyền/chúc dữ, lại là sự tự do của ta. Theo
tôi, đó có thể là lập luận của người chủ trương đừng để cho người khác thanh tẩy
mình, mà nhiều người lâu nay vẫn đưa ra. Chính đó là điều, mà theo tôi, nhiều
người tuy đã được thanh tẩy nhưng không nhận ra, thôi. Ở đây, tôi không chỉ nói
về thanh tẩy trẻ nhỏ, mà thôi. Bởi, ta đang chấp nhận mặc lấy cho mình thứ gì
đó rất cao cả. Giả như, ta sống đích thực việc tháp đặt phục sinh cho đúng cách,
là ta đã được tẩy trừ; và, nhờ việc tẩy trừ ấy mà lần đầu tiên trong đời, ta sẽ
cảm nghiệm để hiểu được thế nào là “Phục sinh” .
Không thể có được điều này mà
lại không có điều kia. Không thể có được phục sinh mà lại không chết đi. Cũng
thế, ta không thể nào có được tự do mà lại không bị tống xuất ra khỏi nơi đó.
Và việc đòi hỏi ứng viên nhận thanh tẩy phải như thế, cũng là chuyện rất nặng
nghĩa/nặng tình. Có thể, Hội thánh ta đã khôn ngoan đủ trong kinh nghiệm dạy dỗ
dân con mình, nên mới không nói cho ứng viên chịu thanh tẩy biết trước hết mọi
việc. Thế nhưng, ở đây nữa, có cái gì đó rất cao cả và cũng sâu sắc rất không
chừng.
Và, một khi ta tin vào niềm
tin tưởng nơi Đấng chấp nhận lời nguyền/chúc dữ cho Ngài ngang qua thập giá,
thì tình thương yêu con người sẽ không bị đè nén, bức bách. Một khi ta được biểu-tượng-hoá
bằng thanh tẩy để đi vào trạng huống Ngài từng sống, thì tất cả chúng ta được đồng
hình/đồng dạng như người được tẩy rửa là có được tự do. Thế nhưng, một khi ta
được thanh tẩy khỏi lời nguyền/chúc dữ, để được tự do như thế, thì hiển nhiên
là không luật lệ nào kể cả luật Torah lại có thể sờ chạm đuợc ta. Và như thế, tức:
không còn phân biệt ai tốt/ai xấu theo nghĩa lề luật đã qui định. Ở đó, tất cả
mọi người đều ngang bằng, đồng hạng. Và như thế, không còn phân biệt nào dựa
trên yếu tố sắc tộc như Do thái hoặc dân ngoại. Không còn cách biệt nào theo giới
tính nam/nữ hoặc tình trạng nô lệ/tự do nữa. Chính đây là niềm tin vào trạng huống
chết đi, hoặc “tình trạng có lời nguyền/chúc dữ”được Đức Kitô mặc lấy, như trạng
huống sống động của những người được niềm tin giải thoát, rất tự do. Tức, một
trạng thái sống rất đồng đều, cho mọi người. Đây là thứ tự do đồng đều mà tất cả
những ai được thanh tẩy chấp nhận vào với “lời nguyền/chúc dữ” của thập giá, đã
thấy rằng: Thanh tẩy chính là tiến trình rất khác biệt, ở xã hội.
“Quả thế, bất
cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức
Kitô. Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn
ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô. Mà nếu anh em thuộc về Đức Kitô, thì anh em là dòng dõi ông Áp-ra-ham, những người thừa kế
theo lời hứa.” (Gal 3:
27-29)
Đó chính là sự việc rất “hụt
hơi”, nếu ta dừng lại mà suy nghĩ. Và theo tôi, đây là chuyện lớn lao/cao cả, cũng
rất thực. Là, cái giá của nó, nếu ta dùng ngôn từ hành chánh quản trị để diễn tả.
Nhưng, nếu ta không trả cái giá đó mà mua lấy, thì đây là sự chấp nhận một thua
lỗ. Là, công nhận các hệ thống dân dã nào khác và chúng dân sẽ là người quản trị
hệ thống đó. Và, đó cũng tựa như lời ca ở đâu đó vẫn cứ hát: “Đi đâu quanh co
cho đời mỏi mệt.”
Đến đây, lại thấy nảy sinh một
vấn đề, là: có chăng khác biệt nào không giữa người Công giáo và tín hữu theo
trào lưu của thánh Phaolô? Nếu ta là người Công giáo tốt lành/hạnh đạo vẫn vui
hưởng việc giữ luật Hội thánh cho đúng cách, thì thánh Phaolô ắt sẽ bảo với ta
rằng: “Các anh chả biết gì hết. Các anh không
hề biết, là: mình đang mất mát thứ gì, điều gì hết cả sao? Đây, chính là quyền
uy/sức mạnh ta đây vẫn còn thấy”.
Ở đây, tôi không nghĩ thánh
Phaolô thuộc giống giòng hào kiệt, lại mắc phải chứng “khổ dâm”; hoặc nghĩ rằng:
ông là người từng mời gọi dân con mọi người hãy đi vào trạng thái bị đào thải.
Thánh Phaolô chỉ mỗi nói: dầu sao thì đó cũng là chuyện đang xảy đến. Tôi không
nghĩ là ta phải làm thế. Và, đây là những gì từng xảy ra để ta nắm được ý nghĩa
của Phục sinh. Thánh Phaolô từng thấy sự bí nhiệm nơi những người như thế. Một
ví dụ cụ thể về trỗi dậy từ cõi chết, mà theo tôi, có thể khiến nhiều người sẽ thay
đổi thái độ không còn tuân thủ luật lệ một cách triệt để, nữa. Thành ra, nếu ta
nhìn vào sự việc được diễn tả theo cách đó, thì đấy chính là Phục sinh, rất thực.
Thánh Phaolô đạt đến giai đoạn thấy được rằng: Phục sinh không là khoảnh khắc xảy
ra vào ngày Chúa nhật lễ Vượt Qua. Mà, là cả một thời đại lịch sử.
Phục sinh, không chỉ là hành xử
của Thiên Chúa dù Ngài vẫn ở trong đó. Phục sinh chính là sự năng động trong đó
có sự hợp tác giữa Thiên Chúa và con người. Đó là sự hợp tác có kết quả chính
trị và xã hội xảy ra ngay ở thế giới này. Và Phục sinh như thế, vẫn được những
người từng trải nghiệm một cuộc sống có cả lời nguyền/chúc dữ lẫn tự do vẫn cứ tiếp
tục thực hiện. Và tôi nghĩ, thánh Phaolô đã nói: không có cuộc sống nào lại giống
như cuộc sống của Đức Kitô mà không dính dự cả hai yếu tố ấy. Và tôi nghĩ: đây
là suy tư khác thường, cho đến khi nào ân huệ của Thiên Chúa hoặc sự năng động
của Ngài gặp gỡ ta ở nơi ta đang sống. Nhưng, thánh Phaolô lại bảo: năng lực
sinh động ấy, không để ta ở lại nơi ta đang sống, bởi nó thay đổi ta và biến cải
con người của ta. Tiến trình qua đó nó thay đổi và biến cải, là tiến trình đặt
ta vào trong kinh nghiệm sống có mùi vị của lời nguyền/chúc dữ từ luật lệ;
trong và ngang qua tiến trình mà ta không thể bị lấy đi, ta sẽ có được kinh
nghiệm và mùi vị của tự do nó giúp ta thoát khỏi mọi luật lệ. Tôi nghĩ: luật của
tinh thần sống động trong Đức Kitô đã giải thoát ta ra khỏi mọi luật lệ. Đó,
cũng tuơng tự như cung cách lý sự của người La Mã mà thánh nhân thực sự đang
nói đến.
Ở đây nữa, cũng chẳng
là cung cách của người theo Do-thái-giáo nói về cánh chung. Cũng chẳng như
thánh Giacôbê lại cứ nghĩ rằng sự việc như thế chắc chắn sẽ xảy đến, trong lai
thời.
Trên lý thuyết, thì nhiều người
không tin vào sự sống lại của Đức Giêsu. Nhưng nếu những người ấy tham gia vào
tiến trình sống động có sự phục sinh đã khởi sự cùng với Đức Giêsu, thì rõ ràng
là những người này đã góp phần của mình vào trong đó. Cả chúng ta, lẫn Đức
Giêsu và Thiên Chúa, tất cả đều ngang bằng nhau trong tiến trình ấy, bởi tất cả
chúng ta đều cùng được giải thoát khỏi lời nguyền/chúc dữ của hệ thống có những
luật và lệ. Và giờ đây, tất cả chúng ta đều cùng chung sống, cùng ngang bằng nhau
và tất cả đều có tự do.
Thế nên, nếu thánh Phaolô nói
điều này cho những người đã chịu thanh tẩy và từng có kinh nghiệm như thế, thì
có thể họ sẽ nói với thánh-nhân rằng: “Vâng.
Ông Phaolô ơi. Chúng ta đều có tự do. Thế thì, chúng tôi có thể làm những gì
mình thích chứ?” Và thánh Phaolô sẽ đáp trả: “Không phải thế đâu! Các bạn không được như thế. Chỉ được thế, nếu các
bạn thực tình sống như người đã chịu thanh tẩy, thôi.” Hoặc giả, ta cũng nói: “Thường thì, bọn tôi vẫn ra ngoài ăn nằm với các nữ phụ lôi thôi/bê bối
ở Côrinthô vào ngày cuối tuần. Tuần nào cũng thế.” Và khi ấy, thánh Phaolô
hẳn sẽ nói: “Không được thế đâu. Xin lỗi
bạn!”
Vậy nên, có những thực tại kiểu
“làm người quý phái, ta buộc phải thế!”
đã khiến thánh-nhân không áp đặt luật lệ lên mọi người. Và theo tôi, đấy chính
là cung cách khác biệt để ta có thể tiếp cận chuyện ấy. Thế nhưng, thánh Phaolô
luôn đưa vấn đề vào với thực tại cuộc sống của ông và thực tế của những người
giống như thế. Và, những gì còn lại chỉ là biểu-tượng lớn/rộng vẫn cứ luẩn quẩn
ở phía sau hậu trường, mà thôi.
Theo tôi, đó chính là nét đặc
thù của thánh Phaolô. Tôi không nghĩ, thánh-nhân thực sự muốn thuyết phục mọi
người về những gì xảy ra, vào lúc đó. Thánh-nhân chỉ muốn qui tụ mọi người, rồi
để cho họ có cảm tưởng hoặc ý nghĩ như thể thánh-nhân là ai và có kinh nghiệm
thế nào và để họ có được kinh nghiệm nào đó, mà đôi lúc cũng chẳng biết rằng nó
có ý nghĩa gì hoặc thêm thắt đôi ý vào đó. Nói chung, thì họ vẫn thế chứ? Nhưng
theo tôi thì, chỉ một số rất ít là nắm được vấn đề một cách sâu sắc; tức: thấy
được các vấn đề mang tính thách thức, tế nhị, thấy được điểm nét tuyệt vời mà
thánh-nhân đang có trong người. Và, thánh-nhân cũng lại nói: những thứ ấy, anh
chị em cũng đang có trong đời mình, thôi. Thật ra, họ nghe những chuyện có vẻ
chắc nịch là thế, nhưng theo tôi, họ vẫn biết rằng thánh Phaolô đang xác định với
họ. Và tôi nghĩ, đây chính là một phần của thập giá nơi thánh-nhân. Ông chẳng
bao giờ nghĩ mình có thể qua được chuyện ấy cách xuyên suốt; và thông thường
thì có lẽ ông cũng chẳng qua được một cách xuyên suốt, đó là ý của tôi đoán như
thế.
Và đôi lúc, có lẽ thánh
Phaolô cũng thấy những chuyện “trẻo cẳng ngỗng” được đưa vào đường lối này khác
khiến thánh-nhân không mấy hài lòng, đặc biệt là các tác giả của “Ngụy thư
Paholô” mượn danh nghĩa/tên tuổi của ông để làm những chuyện khác ý. Nhưng, đó
cũng có thể là những sự việc, mà theo tôi, đã khiến thánh-nhân phải để tâm lui
tới đặt vấn đề. Tôi thiết nghĩ, một trong những cung cách đầy thách thức đòi
ông phải xả bớt năng lực mà nói ít đi chính là sự phục sinh đang đi vào với thứ
ngôn ngữ đầy lời nguyền/chúc dữ, đến như thế. Nhắm chiều sâu, thì đó là ý niệm
cũng rất khó đối với một số người tin vào chuyện áp đặt và bao gộp, để có thể
nói được rằng: cả ta nữa, cũng được kể là mình cũng bị bao gộp trong số những
người đã trải qua kinh nghiệm bị tống xuất, rất lọc lựa.
Vì thế nên, có thể là
thánh-nhân cũng mất đi một số bạn là vì ông đã nói ra chuyện ấy. Đó là theo tôi
đoán: ông thực sự bị như thế. Nhưng, thánh Phaolô phấn đấu không ngừng nghỉ cho
chuyện này, vào thời ấy.
Đó cũng là lý do
khiến thánh Phaolô phải bắt chụp ý nghĩa Phục sinh, rất như thế. Thánh-nhân đã quảng
diễn lập trường của ông về Phục sinh theo nghĩa: đó không là khoảnh khắc trong
đời, mà là cả một “thời đại”. Đây không là “hành động của Chúa”, mà là cơ
năng/động lực trong đó có sự hợp tác/hợp lực giữa Thiên Chúa và con người, để dẫn
đến kết quả chính trị và xã hội trong thế giới hiện tại có sự tự do theo nghĩa
trần gian, lan man nhiều thế lực.
Đây không là điều
mà thần học cánh chung của Do-thái-giáo hoặc của thánh Giacôbê từng nghĩ sẽ xảy
đến trong lai thời.
Thánh Phaolô có
nói: về lý thuyết, chúng ta không tin là Đức Giêsu đã Phục sinh, mà là: ta tham
gia dính phần vào với tiến trình sống động của sự sống lại rất thông thường đã
bắt đầu với Đức Giêsu và ta góp phần vào tiến trình đó, tự bên trong. Chúng ta,
Đức Giêsu và Thiên Chúa, tất cả đã ra đồng hạng trong tiến trình này, là bởi ta
cùng ở/cùng được giải thoát khỏi hệ thống luật-lệ có lời nguyền/chúc dữ vẫn
đính kèm. Và nay thì, đó là sự việc của tất cả mọi người cùng gộp lại; tất cả đã
ra đồng đều, đồng hạng. Tất cả đều có tự do con cái Chúa.
Phe/nhóm đối nghịch lại vẫn
cho rằng: họ có quyền hơn cả thánh Phaolô, nghĩa là vẫn ở “trên cơ” thánh
Phaolô nữa.
Thánh Phaolô viện
cớ lý luận rằng: hoạt động tông đồ của ông là do Chúa gửi đến, cách trực tiếp,
nên ông có uy quyền để nói lên điều đó. Ông có được quyền uy đó thoạt vào lúc
ông được thị kiến với Chúa trên đường Đamát; khi đó ông đã thấy được lời nguyền
thập giá có nghĩa một cuộc sống mới rất khó tưởng tượng vì Đức Giêsu. Quả là,
thánh-nhân thấy điều này một cách trực tiếp đến từ Thiên Chúa tựa hồ như cùng một
sự việc được đặt để vào cùng một lời nguyền/chúc dữ như Đức Giêsu từng gặp.
Thánh-nhân không là sứ giả đến từ Antiôkia hoặc từ thánh Giacôbê hay Phêrô hoặc
bất cứ ai khác ủy thác. Phải chăng ông có được chuyện ấy là do niềm xác tín nói
rằng vào khi ấy, ông đã tách bạch khỏi thánh Phêrô cũng như Barnaba, tại
Antiôkia, chăng?
----------------
Tranh luận như thế, thánh
Phaolô đã sử dụng một loạt các nối kết mang tính ẩn dụ để tạo nên sự việc có
liên quan đến chính ông. Trí tưởng tượng đầy ẩn dụ của ông vẫn lớn rộng hơn bất
cứ ai khác, trong chúng ta. Ông có tài “lý luận” rất rạch ròi để nối kết các ẩn
dụ khác biệt vẫn xa vời cung cách ta thường làm. Thế nhưng, đó cũng là phong
cách hùng biện được phe/nhóm đối nghịch sử dụng. Theo nghĩa đó, thì đây là
phong cách mang tính rất Do-thái-giáo. Theo tôi, đây cũng là một trong những điều
mai mỉa/châm biếm trong sự việc ông chống đối lại phe/nhóm đối địch. Ông đưa những
người trong phe/nhóm ấy vào với lập luận của chính ông, rồi cứ nghĩ rằng mình đã
thắng cuộc…
Nói về tục “cắt bì” ông nghĩ nhiều
về chuyện “yêm hoạn”. Nói đến núi đồi đạo giáo ở Galát, ông cũng nghĩ nhiều đến
đạo giáo của núi đồi Sion ở Giêrusalem. Ông lại cũng nghĩ đến Hagar và Sarah,
hai bà vợ của Abraham: một bà là nô lệ, còn bà kia rất tự do. Từ đó, ông lập ra
sự tương phản/đối chiếu giữa yêm hoạn-đạo giáo-của-núi đồi Galát-Hagar(nô lệ)-người
ngoại giáo (tức Ismael) so với tục lệ “cắt bì”-đạo giáo của núi đồi ở
Siôn-Sarah-Do thái-giáo (tức Isaac). Nếu phân tách theo chiều hướng viễn tượng,
hẳn ta sẽ bảo rằng: sự yếu kém song hành này là ở nơi bà Sarah: chính bà là nữ
phụ rất tự do. Thánh Phaolô hiểu rõ điều đó, nhưng thánh-nhân đã phát biểu như
một kẻ tin rất xác tín vào Đức Giêsu. Thánh Phaolô bèn đề nghị, là: con cháu
Sarah, là người Do thái ở Giêrusalem lại không giữ bà trong tự do nhưng lại đã
rơi ngược vào cung cách nô lệ bằng việc cứ nhắc đi nhắc lại đòi hỏi buộc phải
“cắt bì” rất nhiều lời; làm như thế, tức biến mình trở thành đồng hạng với những
người ở núi đồi Galát, cũng giống thôi. Rõ ràng là, thánh Phaolô muốn tỏ cho thấy:
chỉ những ai ở trong Đức Giêsu, là Đấng từng bị lời nguyền/chúc dữ nơi thập giá
và đã Phục sinh mới là người thực sự có tự do như thế, nhưng không cần đến “cắt
bì”! “Cắt bì” là dấu chỉ ngược ngạo đối với tất cả những điều được thánh-nhân
trình bày, ở đây!
Thánh Phaolô lại cũng nói: hiện
ở trên các núi xứ Ả Rập có ngọn đồi được gọi là “Hagar”, và ở nơi đó vẫn có người
ngoại giáo, tức: nô lệ của thói thờ cúng kiểu dân ngoại và các nghi thức họ cử
hành cũng đều như thế. Thánh Phaolô lại cả gan nói rằng: Giêrusalem (núi Siôn)
là núi thánh ở Giuđêa. Những người sống ở đó, tức Do thái, cũng đang theo một đạo
giáo của núi đồi mang tên Do-thái-giáo! Họ là nô lệ của lề luật rất Torah!
Giêrusalem tương tự đền thờ-đất nước gồm những người nô lệ đang sống kiểu khắc
kỷ có hệ thống kiểm soát toàn cầu gọi là Torah, đầy luật lệ. Vậy nên, dấu hiệu
và chỉ dẫn trước tiên cho thấy mình thuộc vào đạo giáo nô lệ này là cứ đi mà chịu
“cắt bì” chỉ thế thôi. Nếu quý vị chấp nhận chịu cắt bì, thì cũng tương tự như
quý vị trở thành nô lệ giống như thế và như thế, tức đã để luột mất sự tự do là
điều con dận Israel đáng được thừa tự… Xem thế thì, thánh Phaolô rõ ràng đã so
sánh một cách đầy nguy hiểm coi việc cắt bì của người Do-thái-giáo ngang bằng
chuyện yêm hoạn của người dân Galát!
Lập luận đầy cay đắng này, thực
ra là quảng diễn việc hiểu biết tiến trình Phục sinh do thánh Phaolô đưa ra. Phục
sinh, là tiến trình gồm việc đóng đinh vào thập giá để rồi đi vào với sống lại.
Thực ra, thánh Phaolô không đi vào với việc đóng đinh thể xác và bạn bè của ông
cũng chẳng làm thế, nhưng các ngài đã tự tách rời khỏi cộng đoàn Do-thái-giáo, từng
bị Lề luật chúc dữ có cả lời nguyền rủa đính kèm và ngay đến các cột trụ của Hội
thánh tiên khởi, cũng đã từ khước. Điều mà thánh Phaolô muốn nói ở đây, là: tiến
trình phục sinh bao gồm cả kinh nghiệm của mọi người về lời nguyền/chúc dữ vốn tống
xuất họ khỏi kinh nghiệm về sự sống lại. Theo tôi thì, thánh Phaolô từng đem những
yếu tố khó nuốt như thế về với người mình và ta thấy là thánh-nhân vẫn thích đề
cập đến chuyện ấy, vào mọi lúc. Nhưng điều này thực sự đòi hỏi cộng đoàn tín hữu
của ông nhiều hơn là chính ông, như ta từng nói ở các đoạn trên, về con người của
thánh Phaolô. Có lần, thánh nhân lại cũng nói: “Tôi đang nếm thử một thứ gì đó rất chán chết, nhưng mùi vị chán chết ấy
lại chính là mùi vị của tự do.” Và theo tôi, thì đó là thách thức cũng sâu
sắc. Đó là để diễn giải việc đóng đinh vào thập giá cốt đưa vào cuộc sống đích
thực rất thường ngày của mọi người, hôm nay.
Nói khác đi, thì: nếu ta xử sự
theo kiểu này, tức; cho đi chính mình, cách cởi mở và san sẻ hết mọi thứ với mọi
người, thì người theo đạo Do thái lại sẽ bảo là ta có khùng mới làm thế và làm như
thế, tức là ta không muốn vào hội đường của họ. Người La Mã cũng nói rằng: tốt
hơn ta nên loại bỏ những người có lập trường như thế, ném họ ra khỏi bất cứ hệ
thống chính trị này khác. Vứt họ ra ngoài cho mọi người dày đạp. Xem thế, thì: lời nguyền/chúc dữ mà thánh
Phaolô đã thấy, theo ông, chỉ là đường lối duy nhất để ta trải nghiệm/nếm thử
và thực sự đi vào với chính mình, đem vào người mình toàn bộ kinh nghiệm của thập
giá từng cho ta biết về Đức Giêsu Kitô cũng như thế. Và đó mới là điều, là những
gì sẽ bị nuốt chửng và đưa vào chính sự phục sinh đang diễn tiến trong ta và với
mọi người chung quanh.
Đó còn là đòi hỏi rất nặng nề,
nhưng tôi nghĩ có như thế mới thực sự mang ý nghĩa. Và theo tôi, đó là những gì
khiến thánh Phaolô phải đối đầu cả với người Galát cũng như người Do-thái-giáo ở
Galát tức đã mang về cho thánh-nhân hơn là chính ông đã mang về cho họ, vào trước
đó.
Đối chiếu những điều đang xảy
ra ở thời buổi hôm nay, thì ta có thể sánh với những người Công giáo từng ly dị
rồi tái giá nên bị hội thánh từ chối không cho dự tiệc Thánh có rước lễ. Những
người như thế lâu nay cũng bị đá, bị vứt bỏ ra ngoài cho mọi người chà đạp, hệt
như thế. Theo cung cách nào đó, thì thánh Phaolô, nếu ông gặp được người thời hôm
nay bị như thế, chắc ông cũng sẽ nói cho họ biết rằng: chính trong việc nếm thử
kinh nghiệm đắng cay ấy họ mới được giải thoát khỏi thứ địa ngục đầy chết tiệt.
Và, đó còn là cảm nghiệm về chuyện đi vào nhiệm tích đóng đinh vào khổ giá có hình
chữ thập để rồi cũng sẽ phục sinh, quang vinh. Tôi tin rằng: ở đời, cũng có nhiều
ví dụ đại loại như thế, nhưng đây là một trong những ví dụ rất cụ thể của đời
đi Đạo, rất Giêsu.
-------------------
Điều thú vị là, mãi về sau,
chẳng thấy ai nói gì đến những điều xảy ra với tín hữu Đạo Chúa ở Galát, hết.
Ngay đến Gioan Patmốt, Clêmentê thành La Mã, Y Nhã ở Antiôkia, Pôlycarp ở Smyrna cũng chả bao giờ
đề cập đến những chuyện đại loại như thế mặc dù các ngài đề cập đến rất nhiều
thứ tại những nơi khác trong vùng, suốt trăm năm hoặc hơn.
Thánh Phaolô cũng đã lưu lại
Galát một thời gian, nhưng xem ra đó là điều ngoài dự kiến. Thật sự cũng chẳng ai
biết là thánh-nhân có tính đi về mạn Bắc không hoặc về vùng cận duyên ở Hắc hải,
cũng không rõ. Có rõ ít nhiều đi nữa, có lẽ cũng chỉ là “sự cố”, hoặc việc đỗ
nhờ trong chốc lát, thế thôi. Có thể, chuyện ấy cũng đã xảy ra là vì thánh-nhân
bị đau yếu mắt bị mờ hoặc sao đó. Ông từng ngã bệnh tại Galát. Phải chăng là căn
bệnh tương tự như thế, tức: như mũi gai nhọn đâm vào đầu hay sao đó, có ai mà biết.
Cũng có thể là thánh-nhân bị chứng tật gì đó giống như cơn sốt rét/ngã nước,
nơi mạn ngược, chăng? Có thể là hồi còn trẻ ở Tarsus, ông từng bị chứng bệnh gì
đó do khí hậu khắc nghiệt trong vùng gây ra; có thể, ông cũng dự tính đi về mạn
Bắc đến với Galát là để tại sức khoẻ tốt cho mình, hơn là đi với Barnaba về miền
cực thấp quanh Địa Trung Hải. thật khó biết.
(còn tiếp)
--------------------------------
Lm
Kevin O’Shea, CSsR –
Mai Tá lược dịch.
No comments:
Post a Comment