Liên
tiếp trong mấy ngày liền, tại Phòng Công Lý và Hòa Bình DCCT, tôi được gặp chị
Bùi Thị Minh Hằng vừa được thả tù về, rồi cha Đặng Hữu Nam cùng với một đoàn
Giáo Dân ngược chuyến xe vào Nam. Và hôm qua hôm kia xem các clip video
"chuyến đi vạn hành" của cha Nguyễn Đình Thục và bà con Song Ngọc từ
Nghệ An vào Hà Tĩnh để kiện Formosa. Tất cả những anh chị em ấy đều có chung
một tinh thần: không sợ tù tội, không sợ bị tấn công, không sợ bị vu khống xỉ
nhục, không sợ cả cái chết !
Công bằng mà nói, họ chỉ là
những Linh Mục thấp mập hoặc gầy gò, những bà mẹ, những chị em, những bạn trẻ
giản dị bình thường ta có thể gặp ngoài đường, trong khu xóm, ngay bên cạnh nhà
của ta. Không có một miếng võ nào để hộ thân, không có một mẩu vũ khí nào để tự
vệ. Trên tay một xâu chuỗi Mai Khôi, trên miệng một lời Thánh Ca da diết
"Mẹ ơi đoái thương xem nước Việt Nam…" Vậy mà sao họ lại có thể thẳng
thắn nói lời cám ơn cán bộ nhà tù đã rèn luyện họ thêm "chân được cứng, đá
phải mềm" ? Vậy mà sao họ lại có thể sẵn sàng để cho hàng trăm kẻ hung
hăng và trang bị dữ dằn lừa gọn vào bẫy, vây lại như một đàn cừu, hè nhau xông
đến tấn công, họ chỉ í ới gọi bảo nhau "ngồi xuống, ngồi xuống" rồi
bật lên tiếng cầu nguyện đau đến chảy máu bên ngoài, xé lòng bên trong ?
Có bài báo nào đó đã viết về họ như là một
"hành trình đòi quyền sống trong nỗi chết". Nghe kinh khủng quá,
nhưng đó là sự thật ! Họ làm cho chúng ta rưng rưng kính phục và tự hào, rồi
như được khơi lên sâu trong lòng một sự can đảm cần thiết để hiệp thông, để sát
cánh với họ chứ không thể tiếp tục tụ thủ bàng quan trong một nỗi e sợ ngấm
ngầm âm ỉ được khéo léo che giấu cho đỡ xấu hổ!
Hôm nay, xem lại các video cảnh bà con Song
Ngọc quây quần trong sân Nhà Xứ Đông Tháp, tôi thấy nghèn nghẹn trong cổ họng
và ứa nước mắt, từ cha xứ đến bà con Giáo Dân đều bảo nhau cúi đầu vâng lời Bề
Trên để trở về nhà. Vâng, họ đã đành phải trở về nhà cho dẫu họ tỏ ra không hãi
sợ chút nào những gì vừa trải qua, họ bảo nhau sẽ có cách đấu tranh khác với
chính quyền, với Formosa, vẫn hoàn toàn bất bạo động, vẫn sẵn sàng chịu bách
hại kinh khiếp hơn nữa, chỉ để cho cả nước, cho cả thế giới thấy họ có chính
nghĩa, và họ quyết sống chết vì Công Lý và Sự Thật…
Tin mới nhất nhận được từ Tin Mừng cho Người
Nghèo, cha già Lê Đăng Niêm của Giáo Xứ Thủ Thiêm báo tin ngày mai nhà nước cho
xe đến ủi sập ngôi trường học của Giáo Xứ, cha mời gọi lúc 7g sáng ngày 17
tháng 2, mọi người hãy kéo đến hiệp thông với cha, với các Nữ Tu Mến Thánh Giá
và bà con Giáo Dân. Cha già bảo "sẽ mặc áo chùng thâm, ngồi xe lăn ngay
tại vị trí mà nhà cầm quyền muốn bình địa"…
Đến đây thì tôi nhớ lại biến cố năm 1975,
ngược dòng thời gian đến 42 năm. Mùa Chay năm ấy, một Linh Mục Dòng Đa Minh
giảng thuyết nhiều ngày liền thật hùng hồn thu hút tại Nhà Thờ Đức Bà Paris.
Rất nhanh, các bài giảng được in ra xuất bản với tựa đề "Contre toute
espérance". Có ai đó cầm được một bản từ Pháp về tới Sàigòn trong những
ngày đạn bom không còn ở vùng hỏa tuyến xa xôi, nhưng đã tràn về đến ngoại ô,
đến cửa ngõ thủ đô miền Nam.
Cha Jean Marie Trần Văn Phán, Dòng Phanxicô
ở Đakao, đã dịch rất nhanh tập sách với tựa đề "Tuyệt vọng mà vẫn một niềm
cậy trông". Câu này lấy từ Thư Rôma chương 4 câu 8, bản dịch tiếng Anh là:
"Who in hope believed against hope", bản dịch tiếng Pháp là: Espérant
contre toute espérance, il crut", bản dịch tiếng Việt của Nhóm CGKPV là:
"Mặc dầu ông Abraham không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững
tin". Xem ra cách dịch thoát ý của cha Phán tuy không theo sát các bản
dịch Tân Ước nhưng lại lột tả được tinh thần toàn bộ bài giảng của tác giả
Bernard Bro.
Tập
sách được quay "roneo chui", phổ biến ngay trong giới Linh Mục Tu Sĩ
Sàigòn dạo ấy. Dù vậy, hình như cha Phán chưa hài lòng, ngay sau ngày mất
Sàigòn, khi mọi người còn đang ngơ ngác, thậm chí có phần hoảng loạn vì diễn
tiến lịch sử quá nhanh, quá bi đát và tàn bạo, cha sang nhà chúng tôi chỉ cách
Nhà Thờ khoảng 300m, gặp ba tôi, ông Lê Văn Lộc, để bàn về một bản dịch mới,
chu đáo cẩn trọng hơn. Chỉ trong khoảng mấy tháng, ba tôi đã dịch xong, nhanh
nhưng rất kỹ lưỡng. Và thật bất ngờ cho tôi là thằng bé út 17 tuổi, học giỏi
môn Văn, được ba tôi giao một trách nhiệm hết sức nặng nề mà vinh dự là giúp
ông biên tập câu văn lại cho nó ra văn phong tiếng Việt xuôi chảy mà không phản
nghĩa nguyên tác. Ba tôi chọn dịch tựa đề ngắn hơn, mạnh hơn, lúc đầu là
"Niềm cậy trông bất chấp tuyệt vọng", rồi sau ông lại đổi ngắn hơn
nữa, mạnh hơn nữa "Niềm cậy trông bất khuất".
Và tôi đã may mắn được tiếp cận với một bộ
bài giảng tuyệt vời, không chỉ về ý nghĩa Thần Học sâu xa độc đáo mà còn về cả
những minh họa sống động của cuộc đời cho những giá trị Tin Mừng Chúa Giêsu đem
đến cho nhân loại khốn khổ bi thương ở mọi thời và ở mọi nơi, ám hợp ngay cả
với hoàn cảnh đất nước quê hương Việt Nam chúng ta vừa lọt vào tay những người
CS vô thần.
Bản dịch được chính ba tôi đánh máy lưu giữ
trong nhà như một di sản trong khoảng năm 1978. Sau khi ba tôi mất năm 1988,
tôi đi TNXP để đủ điều kiện vào Đại Chủng Viện Giuse cũng không xong, tôi xin
theo DCCT. Tôi đã mang theo 6 tập sách đánh máy chữ này vào Nhà Tập năm 1991 để
dùng như sách thiêng liêng. Đến 1998, làm Phó Tế về phục vụ ở vùng quê Vĩnh
Long và Đồng Tháp, tôi bắt đầu mỗi ngày một chút, lọ mọ gõ mổ cò bằng bàn phím
computer thành một cuốn sách đem đi photo đóng bìa như một cuốn sách ấn hành
đẹp.
Hôm nay, tôi xin trích một
đoạn ngắn trong tập sách dịch tuyệt vời ấy để tỏ lòng biết ơn và để tôn vinh
những con người Việt Nam nhỏ bé, gầy gò, hiền hòa, bình dị, đàn ông và đàn bà,
còn trẻ hay đã già, còn nhanh nhẹn đi lại hay đã phải ngồi xe lăn, ở khắp mọi
miền đất nước quê hương trong nhiều năm qua, và đặc biệt trong những ngày tháng
đầu xuân này, đã hầu như "tuyệt vọng mà vẫn một niềm cậy trông", phải
nói họ đã có được một "niềm cậy trông bất khuất" trước mặt Thiên Chúa
và trước mặt người đời để trở thành "những người sẵn sàng chịu chết"
cho Lẽ Phải.
Xin trích bài giảng của cha Bernard Bro dẫn
lời văn hào Nga hiện đại Andrei Siniavski ( 1925 – 1997 ). Ông đã từng mang án
khổ sai, phải sống lưu vong và dạy học tại Pháp. Với nhãn quan của một người
không có tín ngưỡng, ông đã viết về niềm tin Kitô giáo của các tín hữu xuyên
qua các cuộc bách hại mọi thời và mọi nơi trên thế giới như sau:
"Trong
đội ngũ của họ, hạng người khôn ngoan không có là bao. Tiểu sử của họ là một
chuỗi dài những cuộc tuẫn đạo và tử vong nặng nề của một đoàn quân chỉ biết noi
gương Thiên Chúa của họ. Đó là những chiến sĩ phô bày trước thế gian những vết
sẹo và thương tích như những dấu hiệu hiên ngang, tự hào và vinh quang.
Họ thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội, cả giới hạ lưu
bần cùng, cả bọn trọng phạm. Thế nhưng, họ đều đã nhận lấy thập giá. Bất cứ ai
cũng đều có thể gia nhập đội ngũ của họ, người dốt nát cũng như kẻ đã từng phạm
tội, chỉ với một điều kiện là sẵn sàng nhảy vào lửa.
Đó là thứ tôn giáo của một niềm hy vọng lớn nhất phát sinh
từ cảnh tuyệt vọng. Không một tôn giáo nào trên thế giới này lại có được sự tiếp
cận mật thiết nhất với tử thần nhiều như Kitô giáo. Mà không phải là họ không
biết sợ hãi đâu ! Họ không hề chiêm ngưỡng sự vĩnh cửu, nhưng họ chiếm lấy sự
vĩnh cửu bằng cách phấn đấu với một thứ vũ khí duy nhất; đó là sẵn sàng chịu
chết !”
Lm. QUANG UY, DCCT, đêm 16.2.2017
No comments:
Post a Comment