Wednesday 28 March 2012

Lm Nguyễn Thế Thuấn CSsR: Sách Thánh và Mặc Khải Cứu Rỗi: Cắt nghĩa ít đoạn tin mừng (tiếp)



Phạm thượng: Tức là tiếm lấy cho mình điều thuộc riêng về Thiên Chúa. Mà, tha tội là một điều như thế (Xh 34: 6t; Ys 43: 25; 44: 22).

Như thế Mc cho thấy sự xung đột giữa Chúa Yêsu và Luật sĩ phát tụ thái độ của Chúa Yêsu đối với người tội lỗi (hay bị coi như tội lỗi). Tha tội là đặc quyền Thiên Chúa. Thế mà Chúa Yêsu trong sự giao tiếp với hạng tội lỗi (hay liệt hàng tội lỗi), lại xử thế như Ngài chính là Đấng tha thứ tội lỗi.

Câu 8-9: Tri thức lạ thường của Chúa Yêsu nói trắng ra sự phản kháng ngấm ngầm trong thái độ luật sĩ. Ngài làm điều đó bằng một lý luận phổ thông “chuống chi” (lớn còn được huống chi là nhỏ): đi từ việc nhẹ/dễ để kết luận về việc nặng/khó hơn, hay ngược lại. Bởi đó mà hỏi “cái gì dễ hơn”:

-Đôi với người thường: tha tội dễ (hiệu quả sao, ai nào biết được), chứ chữa lành khó (thành công hay thất bại có ngay trước mặt).

-Đối với Chúa Yêsu và Luật sĩ: tha tội là quyền năng Thiên Chúa, nếu thực xảy ra. Chứ phép lạ thì những người thánh trần gian có khi cũng làm. Nếu trong thiên hạ, tội và bệnh tật có liên quan đến nhau, thì chữa lành sẽ thành dấu chỉ là tội cũng được tha nữa. (Nên để ý: Mt nói thẳng ra sự ngang trái của luật sĩ trong tư tưởng. Thay vì hiểu, thì họ kết án).

Câu 10: Vẫn là ý nghĩa của tiếng “Con Người” (dịch tiếng Hipri: Ben-Adam; tiếng Aram: bar-nâsa):

-Nghĩa thông thường: một người (vật có nhân tính).
-Nghĩa văn chương Khải huyền: Đn 7: 13t: một nhân vật bởi trời đi đến trước mặt Đấng hằng có để lĩnh lấy “quyền” trên hết các dân thiên hạ. –Lời tiên tri này được sử dụng nhiều trong Tân Ước: Mt 26: 64tt; 24: 30tt; 25: 31t (như thẩm phán); 28: 18 (không dùng chính tên). Con Người ám chỉ đến tư cách “bởi trời” của nhân vật –một nhân vật điển hình, thu lại tất cả ý định của Thiên Chúa, thuộc mọi giới khác hẳn trần gian. Chúa Yêsu dùng tước đó bao giờ cũng có ý vang ra ý nghĩa việc Ngài đang làm hay sẽ làm, chứ không cốt dạy Ngài có bản tính thế nào (Thiên Chúa hay người ta). Ngài là Con người: ấy chính là khi Ngài thực hiện dưới đất điều đã viết về Con Người trên trời. Những hoạt động dưới đất là mặc khải cái chân tướng tàng ẩn đang thi thố ra trên trời.

Quyền tha tội đó Ngài là dưới đất: đối chọi với “trên trời”. Nguồn gốc ơn tha tội là nơi trời cao, nơi Thiên Chúa. Bây giờ Thiên Chúa quả quyết rằng: bởi Ngài có mặt (bởi vì Con Người đã đến trên trần gian), thì nguồn ơn tha tội đã được chuyển tự trời xuống đất: nguồn ơn tha tội đã được đặt nơi một người lịch sử.

Câu 12: Phép lạ đã xảy ra bằng một lời nói. Dân chúng ca tụng: một sự kinh ngạc! Nhưng sau sự bỡ ngỡ đó, Mc muốn đọc ra một lời xưng đức tin: Việc Chúa Yêsu làm đích thực là hành động cánh chung do tự Thiên Chúa.

Mt 9: 8: thay vì kinh ngạc (tức là không hiểu được ý nghĩa của điều đã xảy ra) thì Mt nói: dân chúng kinh sợ, kinh hãi và tôn vinh Thiên Chúa. Mt nhắm đến thái độ phải có trong Hội thánh hơn là ghi lại một chi tiết lịch sử: kinh hãi (như người ta phải có đứng trước việc hiển linh Thiên Chúa trong quyền phép Chúa Yêsu), và tôn vinh Thiên Chúa vì Người đã ban cho người đời một quyền lực như thế. Quyền lực đó là quyền nói trong Mt 9: 6: quyền tha tội, đặc quyền của Thiên Chúa, Chúa Yêsu đã sử dụng quyền đó, Nhưng Mt lại nói ban cho “người đời” : Chúa Yêsu (số nhiều) kỳ thực đồng nhất với “một người”: Chúa Yêsu. Không nhấn đến tước hiệu Con Người, mà là đến sự kiện là một quyền riêng của Thiên Chúa nay một người là Chúa Yêsu đã được sử dụng.

Nhưng giải thích ôn thoả hơn cả: phải biết dụng ý của Mt, tức là Tin Mừng có mục đích giáo huấn cộng đoàn, nên chú trọng đến quyền Chúa Yêsu đã ban cho Hội thánh ngang qua các tông đồ. Theo nhỡn giới này, thì lời của dân chúng muốn nhắm thầm cộng đoàn tín hữu tạ ơn Thiên Chúa vì quyền ban cho Chúa Yêsu theo tư cách Con Người nay vẫn còn trong Hội thánh, nhờ những kẻ đã được Chúqa Yêsu uỷ thác.
                                                                                                                                                (còn tiếp)
Lm Nguyễn Thế Thuấn CSsR
(trích tài liệu giảng huấn phổ biến nội bộ)

No comments: