Chương 7
Bên dưới Tin Mừng,
là Đức Giêsu thực
(Bài 61)
Đạo-giáo dân-gian đã có đó
trước cả thời Đức Giêsu xuất-hiện
Các cung-điện thánh-thiêng
của người Do-thái-giáo đã xuất-hiện từ thời có Kinh Sách, tức: từ thế-kỷ thứ 10
trước Công nguyên. Vào dạo ấy, mọi người đã thấy nhiều đền-đài đứng trụ ở các thị-trấn
khác nhau. Riêng tại Giêrusalem, mọi người chỉ thấy duy-nhất một ngôi đền gọi là
Đền Thánh để mọi người đến đó, mà thờ Chúa. Và, từ khi vua Josiah ban hành chính-sách
cải-tổ việc thờ-phụng vào cuối thế-kỷ thứ 7 trước Công nguyên, Do-thái-giáo đã nên
phồn-thịnh trên hai lãnh-vực. Nghi-lễ chính-thức ở đây, nằm trong tay các thày tư-tế
là những người từng thêm vào đó cả việc tế-hiến hy-sinh, hầu giúp các ngài hành-xử
qua/lại theo tư-cách của vị thẩm-phán và bậc thày dạy, rày như thế.
Thế nhưng, ngoài sự
việc này ra, các vị lại vẫn xa rời các trung-tâm nguyện-cầu, nên khi ấy, lại thấy
xuất-hiện loại-hình Do-thái-giáo mang tính dân-dã hơn. Nói thế, tức bảo rằng:
Do-thái-giáo không do giai-cấp lãnh-đạo có uy-tín chủ-trương làm thế, nhưng do các
đấng chân-truyền mà mọi người tin rằng các ngài được “trời cao” tuyển-chọn.
Danh-xưng “Người của Chúa” (tức “ish ha-elohim”) ở Kinh Sách, là Đấng trung-gian đất trời, qua đó dân con Do-thái-giáo
bình-thường bậc trung vẫn có thể tiếp-cận được với Chúa.
Tác-giả J.B. Segal người từng viết nhiều xã-luận
về các đề-tài khá đáng kể, trong đó có bài được viết dưới tựa-đề: “Những người của Chúa” tức: các vị coi
như được “trời cao” phú ban cho khả-năng mà tiếng Ả-Rập gọi là “barakah” tức: quà-tặng thánh-thiêng/huyền-bí
có kỹ-năng nói và hành-xử thay cho Đức Chúa.
Khi xưa các ngôn-sứ
được gọi là tiên-tri/”Người của Chúa” ,
đều thuộc giai-tầng này. Nhưng, địa-bàn hoạt-động của “Người của Chúa” nói ở đây, lại
trải rộng vượt quá khả-năng trao-đổi bằng lời. Các vị này, đều được tôn-dương
cách đặc-biệt. Chỉ riêng ngôn-sứ Êliya và Êlisha, là đấng bậc chuyên tạo “sự lạ”
khó hiểu, như sách Các Vua quyển 2 đoạn 1 câu 9-10 từng nói đến:
“Vua
sai một sĩ-quan chỉ-huy năm mươi quân đem theo quân của mình đến với ông Êlia.
Viên sĩ-quan này đi lên chỗ ông Êlia ngồi trên đỉnh núi. Sĩ-quan này thưa với ông
Êlia rằng: "Hỡi người của Thiên-Chúa, vua bảo: “Xin mời ông xuống!"
Ông Êlia trả lời sĩ-quan chỉ huy năm mươi quân: "Nếu ta là người của Thiên-Chúa,
thì chớ gì một ngọn lửa từ trời hãy rơi xuống thiêu-đốt ngươi và năm mươi quân
của ngươi!" Tức thì, có ngọn lửa từ trời xuống thiêu-đốt viên sĩ-quan và
năm mươi quân của ông.”
Ngôn-sứ nói ở đây,
làm được cả chuyện khiến cho sắt/thép dẻo/mềm chảy lênh-láng nơi sông nước, như
sách Các Vua quyển 2 đoạn 6 câu 6 lại cũng viết:
“Người
của Thiên-Chúa hỏi:
"Nó
văng đi đâu?"
Người ấy
chỉ chỗ cho ông.
Ông chặt
một khúc gỗ,
ném xuống
đó và làm cho lưỡi rìu bằng sắt nổi lên.”
Thời đói kém xảy đến,
ông lại khiến cho thực-phẩm nên dồi dào, dư ăn, rất thừa mứa. Có người vợ của hội-viên
nọ thuộc nhóm ngôn-sứ, đã thoát khỏi vòng tay người chủ nợ không bị xiết, nhờ nghe
lời ngôn-sứ cứ đổ dầu vào bình chảy mãi đến không ngừng, như sách Các Vua quyển
2 đoạn 4 câu 1-7 lại ghi thêm:
“Người
vợ của một trong số anh em ngôn-sứ đã kêu cứu ông Êlisa: "Tôi-tớ ngài là
chồng tôi đã chết. Và ngài biết là tôi-tớ ngài kính-sợ Đức Chúa. Nhưng chủ nợ
đã đến bắt hai đứa con tôi làm nô-lệ." Ông Êlisa bèn nói với bà: "Tôi
làm được gì cho chị, hãy cho tôi biết: nhà chị còn gì không?" Bà thưa:
"Nhà nữ-tỳ của ngài chẳng còn gì, ngoại trừ một lọ dầu." Ông nói:
"Chị hãy ra ngoài mượn bà con láng giềng các bình rỗng, nhiều nhiều vào! Nghe
rồi chị trở về nhà cùng các con chị đóng cửa lại. Chị đổ dầu vào tất cả các
bình đó, bình nào đầy thì chị hãy để riêng ra." Nghe xong, bà goá nọ bền từ
giã ông mà đi. Bà và các con của bà bèn vào nhà, đóng cửa lại. Họ đem bình đến
cho bà, còn bà thì rót dầu vào đó. Khi mọi bình đều đã đầy dầu rồi, bà goá nọ
bèn nói với con bà: "Hãy đem thêm bình nữa cho mẹ đi." Nhưng đứa con thưa:
"Hết bình rồi mẹ ạ!" Ngay khi đó, dầu liền ngưng chảy. Bà goá đến
trình cho người của Thiên-Chúa biết. Ông nói: "Chị đem bán dầu ấy đi mà trả
nợ; phần còn lại thì mẹ con chị dùng để sinh-sống."
Chỉ một dung-lượng đậu/hạt
nhỏ thôi cũng đủ nuôi sống cả trăm người, như sách Các Vua quyển 2 đoạn 4 câu
42-44 lại vẫn ghi:
“Có người
từ Baan Salisa đến, đem bánh đầu mùa biếu người của Thiên-Chúa: hai mươi chiếc
bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị. Ông Êlisa bèn nói: "Phát cho người ta
ăn đi." Nhưng tiểu-đồng hỏi ông: "Có bằng này, sao con có thể phát
cho cả trăm người ăn được?" Ông bảo: "Cứ phát cho người ta ăn! Vì Đức
Chúa phán thế này: Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư." Tiểu-đồng bèn phát cho mọi người
ăn. Họ ăn thoả thuê mà vẫn dư, như lời Đức Chúa phán.”
“Người của Chúa” lại bỏ thứ gì đó vào thực-phẩm để mọi người dễ ăn, như sách Các Vua quyển 2 đoạn 4 câu 38-41, từng chép như sau:
“Người của Chúa” lại bỏ thứ gì đó vào thực-phẩm để mọi người dễ ăn, như sách Các Vua quyển 2 đoạn 4 câu 38-41, từng chép như sau:
“Ông
Êlisa trở về Ghingan, vào lúc nạn đói xảy ra ở trong xứ. Lúc anh em ngôn-sứ
đang ngồi trước mặt ông, ông nói với tiểu-đồng: "Bắc nồi lớn lên bếp và nấu
cháo cho anh em ngôn sứ ăn." Một người trong nhóm ra đồng hái rau, tìm thấy
một thứ cây giống như nho dại, thì hái trái dưa đắng ấy, đầy một vạt áo, rồi về
nhà, thái nhỏ ra, bỏ vào nồi nấu cháo, vì họ không biết đó là thứ gì. Sau đó, họ
múc ra cho mọi người ăn. Vừa ăn chút cháo, họ kêu lên: "Người của Chúa ơi,
thần chết ở trong nồi!" Và họ không thể ăn được nữa. Ông Êlisa bảo:
"Đem bột ra đây!" Ông bỏ bột vào và bảo: "Múc ra cho người ta ăn
đi." Trong nồi liền hết chất độc.
Cũng thế, ngôn-sứ
Êlisha không chỉ chữa lành cho ông Naaman khỏi bệnh phung cùi ngặt nghèo thôi, nhưng
ông còn khiến cho nhiều trẻ nhỏ khác trỗi-dậy khỏi chết, như sách Các Vua quyển
2 đoạn 5 câu 8-14 và đoạn 4 câu 32-37, ghi như sau:
“Vậy,
khi ông Êlisa, người của Thiên-Chúa nghe biết là vua Israel đã xé áo mình ra,
thì sai người đến nói với vua: "Sao vua lại xé áo mình ra thế? Người cứ đến
với tôi, thì sẽ biết là có ngôn-sứ ở Israel." Ông Naaman đi đến có cả xe
và ngựa. Ông đứng trước cửa nhà ông Êlisa. Ông Êlisa sai sứ-giả ra nói với ông:
"Ông hãy đi tắm bảy lần trong sông Giođan. Da thịt ông sẽ trở lại như trước,
và ông sẽ được sạch." Ông Naaman nổi giận bỏ đi và nói: "Ta cứ nghĩ bụng
là thế nào ông ấy cũng đích-thân đi ra khỏi lều, rồi đứng dậy mà cầu-khẩn Danh
Đức Chúa, Thiên-Chúa của ông ta. Ông ta sẽ quơ tay lên đúng chỗ bị phung hủi mà
chữa cho khỏi.
Nước
các sông Avana và Pácpa ở Đamát chẳng tốt hơn tất cả nước sông ở Israel sao? Ta
lại không thể tắm ở các sông ấy để được sạch sao?" Ông quay lưng lại và bực
tức ra đi. Bấy giờ, các tôi tớ của ông đến gần và nói: "Cha ơi, giả như
ngôn-sứ bảo cha làm điều gì khó, chẳng lẽ cha lại không làm sao? Phương chi
ngôn-sứ chỉ nói: Ông hãy đi tắm, thì sẽ được sạch!" Vậy nên, ông xuống dìm
mình bảy lần trong sông Giođan, theo lời người của Thiên-Chúa. Da thịt ông lại
trở nên như da thịt trẻ nhỏ. Và, ông đã được sạch.”
Và, thêm một đoạn khác:
“Khi
ông Êlisa tới nhà, thì cậu bé đã chết nằm trên giường của ông. Ông đi vào chỗ cậu
bé, đóng cửa lại, chỉ có hai người trong đó, rồi cầu nguyện với Đức Chúa. Ông
lên giường nằm lên trên đứa trẻ, kề miệng ông trên miệng nó, kề mắt ông trên mắt
nó, đặt bàn tay ông trên bàn tay nó. Ông cứ nằm trên đứa trẻ, da thịt nó nóng
lên. Ông đi đi lại lại trong nhà, rồi lại lên nằm trên nó; cậu bé hắt hơi đến bảy
lần, và mở mắt ra. Ông Êlisa gọi Giêkhadi và bảo: "Đi gọi bà Sunêm lại đây."
Nó đi gọi bà; và bà đến với ông, ông nói: "Bà hãy đem con đi!" Bà đi
vào, quỳ dưới chân ông, rồi sụp xuống đất lạy ông. Sau đó, bà đem con đi và ra
khỏi phòng.”
Khi ngôn-sứ Êlya khiến
cho con bà được phục-hồi sinh-lực, thì bà goá thành Zarêphát cũng biết rằng ông
là “Người của Chúa” (X. J.B. Segal, Popular Religion in Ancient Israel”, Journal
of Jewish Studies 27, 1976, 8-9). Tác-giả J.B. Segal, khi viết sách, ông cũng gộp Đức Giêsu vào cùng một hệ-cấp
rõ như sau:
“Cũng
nên biết, giống như ngôn-sứ Êlia và Êlisha, “Người của Chúa” rất vượt-trội tức Đức Giêsu là Đấng từ miền Bắc Palestine đến… Ta có
được nhiều phép lạ -là thực-phẩm không hề cạn-kiệt, và đặc-biệt là việc chữa
lành người bệnh… Đức Giêsu, giống như “Người của Chúa” đã không nhụt-chí/kinh-sợ vì nghi-thức đầy uế-tạp phải tiếp-cận với người
đã chết hoặc tật bệnh… Cũng giống “Người của Chúa” ở Cựu Ước, Đức Giêsu đứng ngoài mọi trật-tự đã thiết-lập.” (x. Sách đã dẫn tr. 20-21)
Như ta biết, Đức
Giêsu đã chữa lành cho nhiều người tật/bệnh và trừ thần-linh ô-uế choáng ngợp cả
hiện-trường vào thời ấy. Muốn nắm bắt sự việc này hiện rõ trên thực-tế, ta phải
xem xét kỹ có ba ý-niệm nối kết với nhau của Do-thái-giáo vào buổi giao-thời giữa
Cựu-Ước và Tân-Ước, đó là: tật bệnh, tà ma, tội lỗi.
Các bà mẹ
Do-thái-giáo từng hãnh-diện khoe: “Con
tôi là Y-sĩ”, có lẽ cũng từng sững-sờ không ít khi được bảo: nghề y-sĩ ít
được đề-cập đến ở Israel vào thời có Kinh Sách. Dĩ nhiên, y-học đã có mặt từ thời
xưa ở tận vùng Cận Đông, không xa. Đây là nghề kiếm được lợi/lộc cũng khá nhiều
nhưng vẫn là nghề nguy-hiểm hơn mọi người tưởng.
Theo các điều-khoản
luật Hammurabi của Babylon, hồi thế kỷ
thứ 18 trước Công nguyên, thì phẫu-thuật-gia nào bắt tay vào việc mổ xẻ bệnh-nhân
quí-phái với “dao mổ bằng đồng” và nếu ông cứu mạng được người bệnh, ông được cấp
cho mười đồng shekel bằng bạc. Ngược
lại, nếu ông mổ không thành-công khiến người bệnh phải chết, chắc chắn ông
không bị kiện/cáo về chuyện thiếu khả-năng hành-nghề hoặc không “mát tay” hoặc cho
lầm thuốc, nhưng thay vào đó, ông sẽ bị chặt mất bàn tay từng giải-phẫu làm chết
người bệnh.
Duy chỉ một lần nói theo
kiểu hàm-ngụ đầy bí-ẩn điều gì ở bên dưới, Luật Môsê chỉ bàn về các vị y-sĩ theo
Do-thái-giáo, thôi. Đây là trường-hợp một người nào đó làm hại xác-thể người
khác, và giả như đương-sự có tội, vị chánh-án sẽ tuyên-án là ông phải bồi thường
“thiệt-hại về thời gian cho người kia” và buộc ông thanh-toán trọn phí tổn cho vị
y-sĩ không biết tên, mọi chi-phí mổ xẻ cũng như điều-trị, như sách Xuất Hành có
đề-cập ở đoạn 21 câu 19, sau đây:
“Nếu
người kia trỗi-dậy, còn chống gậy ra ngoài đi lại được, thì kẻ đã đánh đập người
kia sẽ được tha bổng, chỉ bồi-thường người kia thời-gian anh ta phải nghỉ việc
để lo chữa trị người bệnh cho lành.”
Việc tự ý đi tìm sự
giúp đỡ của y-sĩ chữa lành, coi như hành-động chống lại việc thuê ông làm theo
lệnh của toà, như thế không được, bới có thể là y-học thời đó còn mang nhiều
hình-thức tà-ma/yêu-thuật. Vua Giuđêa là Asa
cứ bị trách là: khi lâm bệnh, ông lại tìm đến vị y-sĩ vô tài nào đó hầu tái-tạo
sức khoẻ ông vốn có vào lúc trước. Thay vào đó, lẽ đáng ra ông phải chạy đến cầu-cứu
Thiên-Chúa, như ta thấy tác-giả sách Ký Sự quyển 2 đoạn 16 câu 12, từng ghi như
sau:
“Năm ba
mươi chín thuộc triều-đại mình, vua Aaa bị đau chân, bệnh-tình rất trầm-trọng;
thế nhưng trong cơn lâm bệnh, thay vì tìm-kiếm Đức Chúa, vua lại tìm đến các thầy
lang vườn.”
Trong đầu các tác-giả
Cựu-Ước, chỉ mình Thiên-Chúa mới là Bậc Thày Chữa lành mọi đớn đau/bệnh tật,
như sách Đệ Nhị Luật đoạn 32 câu 39 lại cũng viết:
“Bây giờ
hãy coi đây: Ta chính là Ta,
bên cạnh
Ta, chẳng có thần nào khác,
Ta cầm
quyền sinh tử,
Ta đánh
phạt, rồi Ta lại chữa lành,
không
ai cứu khỏi tay Ta được.”
Nói tích-cực hơn,
sách Xuất Hành đoạn 15 câu 26 lại đã ghi:
“Ngài
phán: "Nếu ngươi thực sự nghe tiếng Đức Chúa, Thiên-Chúa của ngươi, nếu
ngươi làm điều ngay chính trước mắt Ngài, nếu ngươi lắng tai nghe các mệnh-lệnh
của Ngài, và giữ mọi thánh-chỉ Ngài ban, thì Ta sẽ không giáng xuống ngươi một bệnh
nào như Ta đã làm với Ai-cập. Vì Ta là Đức Chúa, Đấng chữa lành ngươi."
Thật ra, trong hầu hết
các trường-hợp, động-từ “Chữa lành” được
dùng ở Kinh Sách thường có chủ-từ là: “Thiên-Chúa”.
Cũng có một số ngoại lệ trong đó không nói đến các vị chữa-lành mọi tật bệnh có
là chuyên-gia y-tế hay không, nhưng thường thì chỉ các vị đại-diện cho
Thiên-Chúa, mà thôi. Trong số các vị được đề-cập ở đây, nhiều người là thày tư-tế
có trọng trách chẩn-đoán xem đương-sự có bị phung cùi/lở ghẻ gì hay không; và
người bệnh đã lành-lặn hẳn chưa, mà thôi.
Ai có tư-cách để tìm-tòi/lục-lọi
tài-liệu Đamát xuất tự Qumran hầu có thông-tin chỉ-dẫn chính-xác, chắc chắn sẽ thấy
rằng: tư-tế thời đó, thường có kiến-thức rất chi-tiết, nên mới có khả-năng xem xét
bệnh tình nào có triệu chứng tiến-triển trầm-trọng để còn ly-cách/tách rời người
bệnh khiến họ tiến tới mà đón nhận việc chữa-trị cho triệt nọc, mới thôi. (X.
4Q266, 272).
Ngoài các thày tư-tế như
thế, chỉ mỗi đấng bậc chữa lành tật/bệnh có phép/tắc hẳn hòi mới được coi là
ngôn-sứ, tức: đấng bậc đại-diện cho Chúa, mà thôi. Và vị lãnh-đạo ngôn-sứ khi ấy,
như ta biết, gồm có cả tiên-tri Êlya và Êlisha. Riêng, ông Ysaya lại cũng được phép
cho toa cấp thuốc là bánh trái vả để chữa ung-bướu/mụn nhọt sưng vù trên làn da
của Vua Hêzêkiah, như sách Các Vua quyển 2 đoạn 20 câu 7, kể như sau:
“Ông
Ysaya nói:
"Hãy
lấy một bánh trái vả."
Người
ta đi lấy, đặt trên ung nhọt
và vua
sống được.”
Và, sách Ysaya đoạn 38
câu 21-22 lại cũng viết:
“Ông
Ysaya nói:
"Hãy
lấy một cái bánh vả cà vào chỗ ung nhọt
thì vua
sẽ sống."
Vua
Khítkigia nói:
"Cứ
dấu nào mà biết tôi sẽ lên được nhà Đức Chúa Trời?"
Ông
Ysaya trả lời:
"Đây
là dấu-hiệu Đức Chúa ban cho ngài,
chứng tỏ
rằng Đức Chúa sẽ thực hiện điều Ngài đã phán:
Này,
bóng mặt trời ngả trên bậc thang vua Akhát đã xây,
Ta sẽ
cho lui lại mười bậc."
Quả vậy,
bóng mặt trời đã lui lại mười bậc
trong số
các bậc thang nó chiếu rọi.”
Muốn đạt được điều này,
có lẽ ta cũng phải chờ Jesus ben Sira,
là tác-giả sách Huấn Ca ở Nguỵ-Thư vào đầu thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, mới
có được ý-niệm này. Nhưng, bằng tầm nhìn của nghệ-thuật chữa-chạy cách khôn-ngoan/khéo-léo,
không dính gì chuyện tà-ma/yêu-thuật đầy phù-thuỷ, là quà tặng Chúa ban cho mình,
thôi. Bởi, chính Thiên-Chúa là Đấng tạo-dựng nên các y-sĩ chữa-trị, Ngài cũng phú
ban cho họ mọi khả-năng để chữa lành người bệnh; và Ngài còn tạo cả dược-chất để
chữa bệnh khiến các thày lang tìm đến mà sử-dụng.
Người bệnh khi ấy được
đấng chữa lành đề-nghị: hãy nguyện cầu, sám hối và sửa đổi cách sống của mình. Là
tư-tế, Jesus ben Sira cũng tự khích-lệ
mình hãy dâng-tiến của lễ cho quen. Sau các khởi-đầu tương-tự, người bệnh được
phép vời vị y-sĩ đến chữa. Đôi khi, ông Jesus
ben Sira còn đưa ra lời khuyên-răn bệnh-nhân nào muốn phục-hồi sức khoẻ,
hãy để tay mình đặt lên tay bậc thày y-sĩ, khi ông nguyện cầu Thần thánh trên trời
đến cứu người bệnh, như sách Huấn Ca đoạn 38 câu 1-14 còn ghi chép:
“Hãy tôn trọng thầy thuốc vì mọi người
đều cần đến ông,
và vì thiên chức lương y là do Chúa thiết lập.
Quả vậy, tài chữa bệnh là do Đấng Tối Cao,
và vì thiên chức lương y là do Chúa thiết lập.
Quả vậy, tài chữa bệnh là do Đấng Tối Cao,
là ân-tứ Vua Trời ban tặng.
Thầy thuốc hiên ngang vì giàu kinh nghiệm,
khiến người có địa vị cũng phải nể nang.
Thiên Chúa làm cho đất trổ sinh dược liệu;
những thứ đó, người khôn chẳng dám coi thường.
Chẳng phải nhờ khúc gỗ mà xưa nước ra ngọt
khiến cho người thấy được hiệu-năng của khúc gỗ sao?
Cũng chính Thiên Chúa cho con người được hiểu biết
để tôn vinh Ngài vì những việc lạ Ngài làm.
Nhờ đó, Ngài chữa lành và chấm dứt cơn đau,
còn dược sĩ chỉ làm việc pha chế.
Như thế công việc của Ngài vẫn tiếp tục
cho đến khi thiên hạ được an lành.
Con ơi, khi đau ốm, con chớ coi thường,
nhưng hãy nguyện-cầu Chúa, Ngài sẽ chữa lành cho.
Hãy từ bỏ lỗi lầm, hành động cho đúng đắn,
thanh tẩy tâm hồn cho sạch mọi tội khiên.
Hãy dâng hương thơm và tinh bột làm kỷ vật,
rưới mỡ lên lễ phẩm ít nhiều tuỳ năng-khiếu.
Bấy giờ con sẽ mời thầy thuốc đến,
vì cả ông nữa cũng được Đức Chúa dựng nên.
Đừng để ông đi, phải có ông mới được.
Có lúc sức khoẻ con ở trong tay thầy thuốc,
vì chính họ cũng nguyện-cầu Đức Chúa
ban cho họ tìm được phương dược
giúp giảm đau, chữa lành nhằm cứu sống con người.”
Thầy thuốc hiên ngang vì giàu kinh nghiệm,
khiến người có địa vị cũng phải nể nang.
Thiên Chúa làm cho đất trổ sinh dược liệu;
những thứ đó, người khôn chẳng dám coi thường.
Chẳng phải nhờ khúc gỗ mà xưa nước ra ngọt
khiến cho người thấy được hiệu-năng của khúc gỗ sao?
Cũng chính Thiên Chúa cho con người được hiểu biết
để tôn vinh Ngài vì những việc lạ Ngài làm.
Nhờ đó, Ngài chữa lành và chấm dứt cơn đau,
còn dược sĩ chỉ làm việc pha chế.
Như thế công việc của Ngài vẫn tiếp tục
cho đến khi thiên hạ được an lành.
Con ơi, khi đau ốm, con chớ coi thường,
nhưng hãy nguyện-cầu Chúa, Ngài sẽ chữa lành cho.
Hãy từ bỏ lỗi lầm, hành động cho đúng đắn,
thanh tẩy tâm hồn cho sạch mọi tội khiên.
Hãy dâng hương thơm và tinh bột làm kỷ vật,
rưới mỡ lên lễ phẩm ít nhiều tuỳ năng-khiếu.
Bấy giờ con sẽ mời thầy thuốc đến,
vì cả ông nữa cũng được Đức Chúa dựng nên.
Đừng để ông đi, phải có ông mới được.
Có lúc sức khoẻ con ở trong tay thầy thuốc,
vì chính họ cũng nguyện-cầu Đức Chúa
ban cho họ tìm được phương dược
giúp giảm đau, chữa lành nhằm cứu sống con người.”
Bậc thày y-sĩ ấy giống như Jesus ben Sira chỉ phục-hồi sinh-lực những
người có khả-năng trang-trải huệ/lộc cho ông, như vua quan/lãnh chúa được
trích-thuật ở trên đã nói và cả những người khá giả nhiệt-tình yểm trợ. Thế-giới
của ông khi ấy, không có dịch-vụ y-tế chữa-trị cho người phung cùi/nghèo khổ và
cả những kẻ ăn xin mù loà ở bên đường. Giả như người như thế muốn được giúp đỡ/chữa-trị,
họ phải quay về với “Người của Chúa”, thôi.
Thêm nữa, khi xưa chẳng ai biết: bệnh-tình
các loại có bị gán cho tà ma yêu-thuật có bị khuất-phục dưới quyền-lực của thày
thuốc hay không. Bởi, theo niềm tin thông thường người Do-thái-giáo sống cùng
thời với Đức Giêsu, thì quỉ ma/tà-vạy được công-nhận là nguyên-cớ gây mọi xấu
xa về tinh-thần lẫn xác-thể. Ý-niệm này, nằm đầy trong các bài viết cũng như
tài-liệu xuất-hiệnvào buổi giao-thời giữa Cựu và Tân-Ước và cả trong văn-chương
của hàng tư-tế nữa.
Trong cuốn Tobia viết bằng tiếng
Hy-Lạp ở Nguỵ Thư có những mảng Aram và tiếng Do-thái cổ tồn-đọng ở Qumran, qua
đó ta biết thêm được việc thần-sứ Raphael đã cứu sống người trẻ Tobit khỏi tay ác-thần Asmodeus. Ác-thần đây, đã phải lòng Sarah là người vợ của Tobia đã quyết-định ăn đời ở kiếp với cô,
nên đã ra tay giết chết bảy người trong số phù dâu trước đó của Sarah vào đêm tân-hôn trước khi những
người này quay về ăn nằm với cô.
Theo lời khuyên của thần-sứ Raphael,
người trẻ Tobia đã đem hương/nhang
tươi mới vào phòng của cô dâu rồi nướng sống tim gan loài cá đặt trên đó, làm bốc
mùi ghê-rợn khiến Asmodeus là người cũng
giống như loài quỷ vẫn nhạy cảm với mùi uế-tạp, bay từ xứ Mêđia nơi tổ-chức đám
cưới bay mãi tận vùng sâu xứ Ai Cập. Ở nơi đó, thần-sứ Raphael lại đã cột ông cho
chặt bằng sợi xích như có ghi ở sách Tôbia
đoạn 3 câu 7-8, sau đây:
“Cũng
trong ngày hôm ấy, ở Écbatan xứ Mêđi, cô Sara, con gái ông Raguên, đã nghe một
trong những người tớ gái của cha cô nói lời nhục mạ. Số là cô đã được gả cho bảy
người chồng, nhưng họ bị ác quỷ Átmôđaiô giết chết trước khi ăn nằm với cô theo
tục/lệ vợ chồng. Người tớ gái nói: "Chính cô là kẻ sát phu! Coi đó, cô đã
có bảy đời chồng mà chẳng được đội tên một ông nào hết!”
Và, đoạn 6 câu 13-17 lại cũng chép:
“Thần sứ
Raphael còn nói: "Em hẳn có quyền lấy cô ấy. Này em, hãy nghe tôi đây! Tối
nay, tôi sẽ nói về cô với cha cô để xin ông chịu cho cô làm vị hôn-thê của em.
Khi từ Raghê trở về, chúng ta sẽ làm lễ cưới cô ấy. Tôi nghĩ ông Raguên không
thể từ-chối gả cô ấy cho em mà đi gả cho người khác được, vì ông biết rõ là
trong tất cả mọi người, quyền ưu-tiên cưới con gái ông là của em; chẳng vậy,
ông sẽ phải chết, theo phán-quyết ở sách Môsê. Giờ đây, này em, hãy nghe tôi! Tối
nay chúng ta sẽ nói về cô bé và sẽ xin cho em cưới cô; rồi khi từ Raghê trở về,
ta sẽ đem cô theo và đưa cô cùng đi với chúng ta về nhà em."
Bấy giờ, cậu Tôbia trả lời thần-sứ Raphaen rằng: "Anh Adaria, em nghe nói cô ấy đã được gả cho bảy người rồi, và họ đã chết trong đêm động phòng: lúc đến bên nàng thì họ chết. Em còn nghe có người nói: chính quỷ đã giết họ. Hiện giờ em sợ lắm vì, nàng, thì nó không làm hại, nhưng ai muốn gần nàng thì nó giết. Em là con một của cha em, sợ rằng nếu em chết, em sẽ làm cho cuộc đời của cha và mẹ em phải đau khổ vì em mà xuống mồ. Và các ngài không có người con nào khác để chôn cất." Thần-sứ nói: "Em không nhớ các mệnh-lệnh cha ông của em truyền phải lấy vợ trong những người thuộc gia-tộc của em đó sao? Và giờ đây, này em, hãy nghe tôi! Đừng lo lắng về con quỷ đó nữa và hãy cưới cô ấy đi! Tôi đây biết rằng đêm nay cô ấy sẽ được gả cho em. Nhưng khi động-phòng, em hãy lấy một chút tim gan loài cá đặt lên than trong lư-hương; mùi hương sẽ lan toả ra, và quỷ sẽ ngửi thấy và chạy trốn hết; nó sẽ không bao giờ xuất-hiện quanh cô nữa.”
Bấy giờ, cậu Tôbia trả lời thần-sứ Raphaen rằng: "Anh Adaria, em nghe nói cô ấy đã được gả cho bảy người rồi, và họ đã chết trong đêm động phòng: lúc đến bên nàng thì họ chết. Em còn nghe có người nói: chính quỷ đã giết họ. Hiện giờ em sợ lắm vì, nàng, thì nó không làm hại, nhưng ai muốn gần nàng thì nó giết. Em là con một của cha em, sợ rằng nếu em chết, em sẽ làm cho cuộc đời của cha và mẹ em phải đau khổ vì em mà xuống mồ. Và các ngài không có người con nào khác để chôn cất." Thần-sứ nói: "Em không nhớ các mệnh-lệnh cha ông của em truyền phải lấy vợ trong những người thuộc gia-tộc của em đó sao? Và giờ đây, này em, hãy nghe tôi! Đừng lo lắng về con quỷ đó nữa và hãy cưới cô ấy đi! Tôi đây biết rằng đêm nay cô ấy sẽ được gả cho em. Nhưng khi động-phòng, em hãy lấy một chút tim gan loài cá đặt lên than trong lư-hương; mùi hương sẽ lan toả ra, và quỷ sẽ ngửi thấy và chạy trốn hết; nó sẽ không bao giờ xuất-hiện quanh cô nữa.”
Và, đoạn 8 câu 1-3, lại
cũng ghi những giòng sau đây:
“Ăn uống
xong, họ toan đi nằm. Họ đưa người thanh niên đi và dẫn vào phòng. Tôbia nhớ lại
lời thần-sứ Raphaen nói: cậu bèn lấy trong túi ra tim gan loài cá đặt trên lớp than
ở lư-hương. Mùi cá đẩy lui ma quỷ, khiến nó chạy trốn về miền Thượng-du xứ Ai-cập.
Thần-sứ Raphaen đến đó buộc chân và trói nó lại ngay lập tức.”
Sách Ênốch quyển thứ
nhất đã mô-tả cũng một thần-sứ Raphael là sứ-giả do Chúa gửi tới để trói chân/tay
quỷ-sứ Azazel và chữa lành trái đất khỏi cảnh mục/nát đầy lỗi/tội (Ênốch 10:1-6).
Trong khi đó, các nam-nhân
được thần-sứ chỉ cho cách đánh bại ác-thần/sự dữ mà con người học được từ quỷ vương.
Truyền-thống Do-thái-giáo qui về hai đấng chính lại cũng tiết-lộ bí-kíp tẩy-trừ
loài quỷ đỏ, đó là tổ-phụ Noê và Vua Salômôn của Do-thái-giáo. Theo sách Hậu
Sáng Thế xuất hiện vào thế kỷ thứ 2 trước Công-nguyên, có thần-sứ được Chúa sai
đến dạy ông Nôê nghệ-thuật chữa-lành tật/bệnh; và đổi lại, ông Nôê sẽ phổ-biến
khoa-học thần-bí cho con cháu ông, những điều rằng:
“Và
chúng tôi giải-thích cho ông Nôê biết các dược-phẩm chống lại bệnh tật, cùng với
sức thu hút của chúng và cách-thức chữa lành họ bằng cây cỏ. Ông Nôê bèn viết tất
cả mọi thứ vào cuốn sách, những gì chúng tôi dạy cho ông về đủ loại dược-phẩm;
theo cách đó, ma-vương loài quỷ không còn làm hại con cháu ông Nôê nữa. Và, ông
lại cũng đem tất cả những gì ông viết xuống cho anh Shem là trai trưởng của
ông.” (Hậu
Sáng Thế 10: 10-14)
Sử-gia Josephus sẽ là
nguồn cung-cấp tiếp sau đây về thuốc bí-truyền ấy. Ông lại có thẩm-quyền của Vị
vua khôn ngoan là Salômôn của Kinh Sách, cả hai được mô-tả là nhà hiền-triết viết
cho người đọc thuộc thế-giới La-Hy, qua tư-cách là anh-hùng của nghệ-thuật chữa
lành đầy thần-bí, viết cho cử toạ Do-thái-giáo của ông.
Cộng thêm vào việc viết
lên “một nghìn lẻ năm tập thơ tụng-ca và bài hát cùng ba nghìn cuốn dụ-ngôn và các
tài-liệu tương-tự” (1Các Vua 4: 32; Ant.
8: 44), ông còn góp ý đưa ra tất cả mọi khía-cạnh tự-nhiên cùng nghiên-cứu
triết-học rất xuyên-suốt, chứng-tỏ đặc-tính tinh-thông vẹn-toàn về những gì
mình sở-hữu. Hơn nữa, sách Tụng-ca đoạn 8 câu 45 lại cũng viết:
“Thiên-Chúa
phú-ban cho ông kiến-thức nghệ-thuật được sử-dụng để chống quỉ-thần quái ác hầu
làm lợi và chữa lành các nam-nhân. Ông cũng đã sáng-tác ra các câu thần-chú/tụng-niệm
cứ đọc lên là mọi tật bệnh đều bớt nhiều. Đồng thời, ông còn để lại các loại-hình
trừ tà ma/quái- ác theo đó người bị quỉ ám sẽ tống-xuất chúng ra ngoài, không
còn quay trở lại với họ nữa.”
Câu cuối cùng đây làm
ta nhớ đến hiệu lệnh của Đức Giêsu truyền cho tà ma/quỉ-quái ra khỏi người đàn
ông bị ám-hại, để rồi chúng không còn quay lại ham hại ông ta nữa.
Chúng ta còn biết được
từ sử-gia Josephus về quyền phép chữa bệnh của nhóm Essênê, vẫn bảo rằng:
“Họ chứng-tỏ
sự thích-thú cách đặc-biệt về bài viết của người xưa, bằng cách chọn ra những người
chuyên về phúc-lợi thể-xác cũng như linh-hồn; và nhờ sự giúp đỡ của những người
này cộng với lập-trường chữa-trị tật bệnh, những người trong họ đều đã nghiên-cứu
các rễ thuốc và đá tảng để xây nhà. “(X. War.
2: 136)
Cũng nên nhớ, nhờ sự hướng-dẫn
của hai thần-linh ghi ở Qui Định Cộng-đoàn người Essênê tại Qumran, việc chữa
lành là để hướng tới phần thưởng dành cho con cái sự sáng (1QS 4: 6), và
văn-chương tinh-anh của nhóm này lại cũng bao gồm các bài thơ trừ tà nữa
(4QS510-11)
Sách Ênốch, Hậu Sáng
Thế, cũng như tài-liệu lịch-sử của Josephus và nhóm Qumran đã chứng-tỏ có sự nối-kết
chặt-chẽ về tâm-tưởng của Do-thái-giáo vào buổi giao-thời giữa Cựu và Tân-Ước về
chữa lành có dính đến trừ tà, là những chi-tiết ta cần lưu-tâm khi xem xét truyện
kể có liên-quan đến Đức Giêsu.
Mô-tả rõ việc tống-xuất
lũ tàma quỉ quái ra khỏi con người còn cho thấy có bất cứ sự tương-đồng hoặc
khác-biệt nào cũng đều đáng kể. Có lẽ,
tài-liệu chi-tiết nhất về sự việc này, là truyện kể từ sử-gia Josephus ghi rõ trường-hợp
trừ-tà do một người Do-thái-giáo chuyên chữa lành có tên là Êlêazar có Vespasian là chỉ-huy-trưởng đội binh La Mã ở Palestin từng chứng-kiến.
Cả đến hoàng-đế tương-lai cùng con cái ông cũng như dân-con và binh sĩ ở đây đều
đã biết.
Theo Josephus, thì Êlêazar
đã “đặt vòng khoen kim loại vào mũi người
bị quỉ ám, ở trên vòng khoen ấy có dấu-vết các rễ cây do vua cha Salômôn diễn-tả”,
có thể đây là rễ “baaras” mọc trong vùng Makêrô bên TransJordan được
coi là có khả năng tống-xuất loài quỉ tha ma bắt ra bên ngoài (X. War, 7:
185). Và khi ấy, thoạt lúc người bệnh vừa
ngửi thấy, thì người chữa lành đã lôi được lũ ma ra khỏi người bệnh qua ngã rốn.
Và khi người bệnh ngã vật xuống, y ta đã khẩn nài loài quỉ quái kia đừng bao giờ
trở lại với người ấy nữa. Và thoạt khi nêu tên vua cha Salômôn ra cùng đọc các
câu thần-chú/tụng niệm do ông lập ra, là xong.” (Ant. 8: 46-47)
Có biết đến các đặc-trưng
riêng của mỗi loài quỉ ma, ta mới tạo lời ích của việc trừ tà này. Ta hẳn đã biết,
là: vào thế-kỷ thứ 2 sau Công nguyên, có hai vị tư-tế, một là Simêôn ben Yohai và vị kia là Êlêzar ben Yosê đã giải-thoát người con
gái của hoàng-đế nọ khỏi loài quỉ quái hãm-hại, nhờ đã kêu đích-danh tà ma quái
đản kia ra mà bảo: “Hỡi Ben Temalion,
ngươi hãy xuất khỏi người này! Hỡi Ben Temalion hãy cút xéo ngay lập tức!” (bMeilah
178)
Chẳng còn nghi ngờ gì
nữa, Đức Giêsu được hiểu là Ngài cũng đã có được điều lợi như thế khi tra hỏi
tên tuổi loài quí đang ám-hại ở Gergêsênê
rằng: “Tên ngươi là gì?” Và khi ấy,
có tiếng đáp từ loài quỉ: “Tên tôi là Lữ
Đoàn! Bởi, chúng tôi rất đông!” hệt như Tin Mừng Mác cô đoạn 5 câu 9 có ghi
rõ, như sau:
“Ngài hỏi
nó:
"Tên
ngươi là gì?"
Nó
thưa: "Tên tôi là đạo binh, vì chúng tôi đông lắm."
Và, Tin Mừng Luca đoạn
8 câu 30 cũng đã bảo:
“Đức
Giêsu hỏi anh:
"Tên
anh là gì?"
Anh
thưa: "Đạo Binh", vì rất nhiều quỷ nhập vào anh.”
Đức GIêsu đã coi việc
đồ đệ Ngài thất bại không xua được loài quỉ ra khỏi người bệnh là do các vị đây
không biết được bản-chất của địch-thù, như Tin Mừng Mác cô đoạn 9 câu 29, lại
cũng viết:
“Ngài
đáp:
"Giống
quỷ ấy, chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi."
Thông thường, thì: những
việc tống-xuất quỉ ma ra khỏi người bệnh được Đức GIêsu thực-hiện đều được đánh
dấu bằng sự-kiện làm giảm nhẹ tình-trạng của người bệnh trước đó bị quẫn-trí và
thường là độc-tác co giật, động-kinh khẩn-thiết là thế, nhưng đấng chữa lành
khi ấy lại quá nhiệt-tình đến độ ông cứ muốn chứng-tỏ là mình có thẩm-quyền chữa-trị
rất đặc-trưng.
Sử-gia Josephus còn
cho biết trường-hợp cùng một thày tư-tế chuyên chữa-trị bệnh tật là Êlêzar lại đã thực-hiện việc chữa lành đầy
kịch tính trước mặt Vespasian cốt chứng-tỏ là tà ma/quỉ quái đã ra khỏi bệnh-nhân.
Trong cuốn Antique đoạn 8 câu 48, ông
có trình-thuật rằng: Y ta đặt một cái
chén hoặc chiếc ủng đầy nước ở nơi hơi xa và rồi truyền lệnh cho ác-thần là, kịp
lúc nó ra khỏi người bệnh, phải quay mặt lại để những người chứng-kiến thấy rõ
là chính nó đã ra khỏi thân-thể người bệnh.”
Các tác giả Tin Mừng
lại ám-chỉ một bằng chứng trừ tà có hiệu-quả còn giật gân hơn nữa bằng việc
di-chuyển loài quỉ ma nhập vào đàn heo lúc nhúc ở Gerghêsa.
Cuối cùng thì, trước
khi quay về với chân-dung Đấng Thánh-hiền ngoài sách Tân Ước, tưởng cũng nên
giáp mặt mà xem phản-ứng của những người không tin vào hiện-tượng trừ tà ma quỉ
quái, để xem sao. Phải chăng họ đang chứng-kiến các trò bịp-bợm của ảo-thuật-gia?
Ở Tin Mừng, các kẻ đối-nghịch
với Đức Giêsu lại đã gán ghép quyền-lực trừ tà cho ma-vương của Ngài là Bêelzêbul hoặc bảo rằng Ngài sử-dụng quyền
phép của vua loài quỉ như đã đề-cập ở
Tin Mừng Máccô đoạn 3 câu 22, và Mát-thêu đoạn 12 câu 24, cũng như Tin Mừng
Luca đoạn 11 câu 15, như sau:
“Còn
các kinh sư từ Giêrusalem xuống
thì lại
nói rằng Ngài bị quỷ vương Bêendêbun ám
và Ngài
dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ.”
Và, Tin Mừng Mát-thêu
12: 24 lại cũng viết:
“Nghe vậy,
những người Pharisêu nói rằng:
"Ông
này trừ được quỷ
chỉ là
nhờ dựa thế quỷ vương Bêendêbun."
Cuối cùng thì, Tin Mừng
Luca 11:5 cũng đã viết:
“Nhưng
trong số đó có mấy người lại bảo:
"Ông
ấy dựa thế quỷ vương Bêendêbun
mà trừ
quỷ."
Thật ra, như ta đã thấy:
những người dè bỉu Đức Giêsu vào thời hậu Tân-Ước, cả người ngoài Đạo lẫn
Do-thái-giáo đều nhất mực qui cho Ngài là nhà phù-thuỷ. Theo cách chạy
lòng-vòng, thày tư tế nổi danh là Rabban
Yohanan ben Zakkai (xuất-hiện vào cuối thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên) đã
so sánh nghi-thức tẩy-uế của Lêvi trong việc trừ tà ma/quỉ quái và tin rằng hiệu-năng
của cả hai sự việc đều xuất-xứ không phải từ động-tác cử-hành nghi-thức những
là từ Thiên-Chúa. Yohanan từng tìm
cách chứng-minh cho giới trí-thức ngoài Đạo biết, nhờ vào việc thực-hành động-tác
trừ tà, bản-chất không mang tính chất phù-thuỷ của nghi-thức giết bò cái, tức
quyền-năng tẩy sạch bằng nước có trộn tro cốt loài bò cái được tế-lễ như có kể ở
sách Dân-số đoạn 19 câu 1-10, sau đây:
“Đức
Chúa phán với ông Môsê và ông Aharon: "Đây là quy tắc trong luật mà ĐỨC
CHÚA đã truyền: Ngươi hãy bảo con cái Ít-ra-en đưa tới cho ngươi một con bò cái
màu hung đỏ, nguyên tuyền, toàn vẹn và chưa bao giờ mang ách. Các ngươi sẽ trao
nó cho tư tế Elada. Người ta sẽ đưa nó ra ngoài trại và sát tế nó trước mặt
ông. Tư tế Elada sẽ lấy ngón tay nhúng vào máu nó mà rảy bảy lần về phía mặt tiền
Lều Hội Ngộ. Người ta sẽ thiêu con bò trước mắt ông; da, thịt, máu và phân nó đều
đốt hết. Và tư tế sẽ lấy gỗ bá hương, hương thảo và chỉ màu đỏ thẫm mà quăng
vào giữa con bò đang cháy. Sau đó tư tế phải giặt áo, và lấy nước rửa mình cho
sạch, rồi trở về trại, tư tế sẽ bị nhiễm uế cho tới chiều. Người thiêu con bò ấy
cũng phải lấy nước giặt áo và rửa mình cho sạch, và cũng bị nhiễm uế cho tới
chiều. Một người nào thanh sạch sẽ hốt tro con bò ấy, để ở một nơi thanh sạch,
bên ngoài trại. Đối với cộng đồng con cái Israel, thì tro đó được dự trữ dùng
làm nước tẩy uế. Đó là nghi thức tạ tội. Người đã hốt tro con bò cũng phải giặt
áo, và cũng bị nhiễm uế cho tới chiều. Đối với con cái Ít-ra-en cũng như với
ngoại kiều trú ngụ giữa chúng, thì đó là một quy tắc vĩnh viễn.”
Có người dân ngoại nó
nói với Rabban Yohanan ben Zakkai những
lời như sau:
“Có những
điều mà người Do-thái-giáo các ông hành-động y như nhà phù-thuỷ. Bò cái giết đi
đem đốt, hốt tro tàn để một chỗ. Rồi sau đó, giả như người nào trong các ông diễu-hành
sờ vào thi-thể của ai đó nó được xịt rửa hai ba lần, rồi bảo: ngươi đã được tẩy
sạch rồi.”
Tư-tế Rabban Yohanan ben Zakkai khi đó mới trả
lời: “Có khi nào thần ô-uế/xấu xa xâm-nhập
vào người không?” Người ngoài Đạo trả lời: “Không.” Yohanan lại hỏi: “Vậy.
Có khi nào ngươi thấy thần ô-uế hỗn-tạp xâm-nhập vào ai khác không?” Y ta
trả lời: “Có chứ.” Yohanan lại hỏi: “Thế, người ta làm gì với chúng?” Người
ngoài Đạo thưa: “Chúng đem rễ cây đến đốt
thành khói ở dưới con người rồi xịt nước lên hắn và rồi thần ô-uế biến mất.”
Và như thế, Yohanan thấy lối biện-luận này không xứng-hợp
và nhận ra là : sau khi người ngoài Đạo ra đi rồi, anh ta bị “hạ-bệ chỉ bằng một
cọng rơm” thôi. Các vị này cũng nghĩ rằng không có nền-tảng lý-luận qua đó cho
thấy uy-lực đầy quyền-thế của nghi-thức tế-tự giết bò cái lại được xác-minh là
đúng thực.
Thật sự, thì nhìn vào
nó giống như trò phù thuỷ mà thôi. Nhưng, Yohana
ben Zakkai giải-thích là: sự việc hoạt-động theo niềm tin của người thờ-phụng
đã được thuyết-phục bảo rằng ông đang thực-hiện ý của Chúa. “Không có xác chết nào diễu-hành qua đó và
cũng chẳng có nước nào tẩy sạch được ô-uế, nhưng đó chỉ là một ý-niệm không hơn
không kém của vị Vua các vua.” (X. sđd)
Điểm nhấn ở bên dưới
gợi nhớ lời Đức Giêsu từng nói về việc đi ngang qua, là do sức mạnh từ bên
trong chứ không phải bên ngoài thân-xác mà ra.
(còn tiếp)
Gs Geza
Vermes biên-soạn,
Mai Tá lược dịch
No comments:
Post a Comment