Chương 3
Bậc Lão thành
có mặt ở giữa các
tông-đồ
(bài 16)
Thực-chất tông-đồ của ông Phaolô
Ông Phaolô mắc phải một
số tật/bệnh mà ông từng kể trong Thư Thứ Hai Côrinthô đoạn 12 câu 7 đại loại như
mụn gai nhọn đâm thấu thịt, và một số bênh khác như: động-kinh, sốt rét ngã nước,
mắt loà gốc tâm-lý hoặc tâm-thầm. (xem C. G. Jung), giống như thế.
Ông Phaolô không là
người để lại ấn-tượng cho bất cứ một ai. Theo giới-chức Hy-Lạp nhận-định, thì:
các thư do ông Phaolô viết đều có cân lượng lại mạnh bạo; nhưng thể-lý/xác-phàm
thì yếu ớt, kém cỏi. Thế nên, thường là các bài ông thuyết-trình bằng miệng cũng
chẳng đánh động một ai, như giòng thư Thứ Hai gửi giáo-đoàn Côrinthô đoạn 10
câu 10 từng minh-định:
“Có kẻ nói: "Trong thư thì nghiêm khắc và hùng hổ;
nhưng khi có mặt thì nhu nhược, nói chẳng ra hồn."
Ngay chính ông, cũng
phải công-nhận rằng: mình không là nhà hùng-biện tài ba lỗi lạc bao giờ hết.
Cũng tựa như những điều ông từng minh-xác ở thư này đoạn 11 câu 6, trong đó ông
từng xác-quyết:
“Giả như tôi có thua kém về khoa ăn nói, thì về sự hiểu
biết, tôi chẳng thua kém đâu! Trong mọi dịp và trước mặt mọi người, chúng tôi
đã tỏ cho anh em thấy điều đó rồi.”
Thành-quả ông đạt được,
phần lớn là để cho người Hy-Lạp ít học có dịp tiếp cận giòng tư-tưởng của ông.
Điều này, cho thấy: ông được trời cho biệt-tài có sức thu-hút người nghe như
nam-châm/điện-từ hút kim-loại. Bằng vào thông-điệp cài ở Thứ Thứ Nhất gửi
giáo-đoàn Côrinthô đoạn 2 câu 3-4, trong đó nói:
“Tôi viết trong thư như vậy, là để khi đến nơi, tôi khỏi
phải ưu-phiền vì chính những người đáng lẽ làm cho tôi vui, vì đối với anh em,
tôi xác tín rằng niềm vui của tôi cũng là niềm vui của tất cả anh em. Thật thế,
tôi đã vô cùng đau khổ, con tim se thắt, nước mắt chan hoà khi viết cho anh em:
tôi viết không phải để gây ưu-phiền, nhưng là để cho anh em biết tôi hết lòng
yêu mến anh em.”
Ngay sách Công-vụ
Tông-đồ cũng như các thư do ông gửi, đều vẽ lên một ảnh-hình về con người của
ông, ngay từ đầu, rất mực chống đối nhóm người khi trước bước theo chân Đức
Giêsu. Lời lẽ ông nói hoặc viết ra, thường là thẳng-tuột/huỵch-tẹt, tựa như Thứ
Thứ Nhất Corinthô đoạn 15 câu 9 còn ghi rõ, khi ông bảo: “Tôi từng bách-hại giáo-hội của Chúa.” Và, nhiều lúc lại mạnh-mẽ hơn, như thư Galát đoạn 1 câu 13-14, vốn từng
viết:
“Anh em hẳn đã nghe nói: tôi đã ăn ở thế nào trước kia
trong đạo Do-thái: tôi đã quá hăng say bắt bớ, và những muốn tiêu-diệt Hội-Thánh
của Thiên-Chúa. Trong việc giữ đạo Do-thái, tôi đã vượt xa nhiều đồng bào cùng
lứa tuổi với tôi: hơn ai hết, tôi đã tỏ ra nhiệt-thành với truyền-thống của cha
ông.”
Sách Công-vụ Tông-đồ
còn đưa ra nhiều chi-tiết đầy sắc-mầu kỳ-lạ, nhưng đôi lúc cũng khó hiểu như kiểu
đặt vấn-đề rành-rẽ, đó là nói theo tính-cách sử-lược. Phaolô tông-đồ được nhiều
người coi như chức-sắc cuồng-tín, quyết bắt giữ và cầm tù Giáo-hội của Chúa một
cách tàn-bạo. Và nhiều lần, ông còn tìm cách tiêu-diệt thành-viên hội-thánh ở
Giêrusalem vốn bị hàng tư-tế có thẩm-quyền, coi họ như những người chuyên
bách-hại hội-thánh, nói chung.
Hàng tư-tế nói ở đây,
là: các đấng bậc có trọng-trách duy-trì trật-tự và luật lệ. Nhiều vị lần giở
thư/sách đọc lại các đoạn do ông viết, lại đoán rằng: ông Phaolô khi xưa cũng tựa
như vị cảnh-sát ở đền-thờ đã nhiều lần xử-sự như chức-sắc có thẩm quyền được
nhóm thượng-tế gửi đến hội-đường Do-thái-giáo ở Đamát, với bài sai xoá sạch cộng-đoàn
sở-tại không còn khả-năng theo chân Đức GIêsu được nữa. Đó là điều, được sách
Công-vụ Tông-đồ đoạn 8 câu 3 và đoạn 9 câu 1-2 từng minh-chứng, như sau:
“Còn ông Saolô thì cứ phá hoại Hội-Thánh: ông đến từng
nhà, lôi cả đàn ông lẫn đàn bà đi tống ngục”;
Hoặc:
“Ông Saolô vẫn hằm hằm đe doạ giết các môn-đệ Chúa, nên
đã tới gặp vị thượng-tế xin thư giới-thiệu đến các hội-đường ở Đamát, để nếu thấy
người theo Đạo, bất luận đàn ông hay đàn bà, thì bắt trói giải về Giêrusalem.”
Có vị còn quả-quyết:
ông hành-xử một cách thụ-động, tức: luôn để mắt dõi theo mầu áo của các tay đồ
tể, như ở trường-hợp họ đối-xử với phó-tế Stêphanô là người sống ở Giêrusalem bị
ném đá chết. Sách Công-vụ Tông-đồ đoạn 7 câu 58 và đoạn 8 câu 1 cũng như đoạn
26 câu 9-11, lại đã ghi:
“Các nhân-chứng để áo mình dưới chân
một thanh-niên tên là Saolô.”
Và:
“Phần ông Saolô, ông tán-thành việc
giết ông Têphanô.”
Thêm một câu khác, vẫn
cứ bảo:
“Về phần tôi, trước kia tôi nghĩ mình phải dùng mọi cách
để chống lại danh Giêsu người Nadarét. Đó là điều tôi đã làm tại Giêrusalem. Được
các thượng-tế uỷ-quyền, chính tôi đã bỏ tù nhiều người trong dân thánh; và khi
họ bị xử tử, tôi đã bỏ phiếu tán-thành. Nhiều lần, tôi đã rảo khắp các hội đường,
dùng cực-hình cưỡng-bức họ phải nói lộng-ngôn. Tôi đã giận-dữ quá mức đến nỗi
sang cả các thành nước ngoài mà bắt bớ họ.”
Thế rồi, có cái gì đó
rất khác thường lại xảy đến với Phaolô tông-đồ với thái-độ hoàn-toàn “trở mặt”,
rất khác xưa. Theo lời ông kể ở thư Galát đoạn 1 câu 16, có nói rõ:
“Người đã đoái thương mặc-khải Con của Người cho tôi, để
tôi loan-báo Tin Mừng về Con của Người cho dân ngoại. Tôi đã chẳng thuận theo
các lý do tự-nhiên..”
Nơi xảy ra biến-cố
này, lại không được định-danh/định-hình, nên không ai rõ sự việc ấy xảy ra ở
đâu. Nhưng, thư Galát đoạn 1 câu 17 lại cài đặt vào chuyện Đamát, những ghi rằng:
“Tôi cũng chẳng lên Giêrusalem để gặp các vị đã là Tông Đồ
trước tôi, nhưng tức khắc tôi đã sang xứ Ả-rập, rồi lại trở về Đamát.”
Truyện kể ghi lại ở
sách Công-vụ Tông-đồ đoạn 26 câu 14 mang sắc-thái hoang-đường/truyền-thuyết đến
độ bảo rằng: khi đến gần thủ-phủ Đamát, ông Saolô bị một tia sáng từ trời làm
loá mắt và có tiếng phán bằng âm Aram lại định-danh vị đó là Đức Giêsu, như
sách Công-vụ Tông-đồ đoạn 26 câu 14 lại vẫn kể:
“Tất cả chúng tôi đều ngã nhào xuống đất, và tôi nghe có
tiếng nói với tôi bằng tiếng Híp-ri: "Saun, Saun, sao ngươi bắt bớ Ta? Đá
lại mũi nhọn thì khốn cho ngươi!”
Như thế là, chỉ trong
một khoảnh-khắc rất thoáng chốc, một Phaolô xừng sỏ như công-tố viện chuyên hại
người, lại trở-thành người phấn-chấn quyết dấn bước theo chân kẻ bị hại.
Và, đoạn tiếp của câu
truyện lại sẽ khác, tùy người đọc đang theo-dõi sách Công-vụ tông-đồ hoặc lời tự-thuật
của chính ông ta trong thư gửi tín-hữu Galát, mà thôi. Ở thư Galát, mục-đích
ông đề-cập đến lời mời ở trên, lập tức được diễn-nghĩa như bài thuyết-giảng
Phúc Âm dành cho người ngoài Đạo như thư Galát đoạn 1 câu 16, còn chép rằng:
“Người đã đoái thương mặc-khải Con của Người cho tôi, để
tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho dân ngoại. Tôi đã chẳng thuận theo
các lý-do tự-nhiên…”
Tuy nhiên, sách Công
cụ Tông-đồ lại mô-tả, là: bất thình lình, ông đối đầu với người theo Do-thái-giáo
ở Đamát, và đốt cháy họ bằng lời giảng-thuyết về Đức Giêsu “căng” đến độ ông đành
phải trốn thoát khỏi thành phố này vào ban đêm, bằng cách ngồi vào thúng, rồi
nhờ cộng-sự-viên thòng thúng xuống dọc tường, như sách Công-vụ Tông-đồ đoạn 9
câu 20-25 lại đã tả:
“Ngay lập tức, ông bắt đầu rao giảng về Đức Giêsu trong
các hội-đường, rằng: Ngài là Con Thiên Chúa. Mọi người nghe ông giảng đều kinh-ngạc
và nói: "Ông này chẳng phải là người sống ở Giêrusalem vẫn tiêu-diệt người
kêu cầu danh Giêsu sao? Chẳng phải ông đến đây với mục đích bắt trói họ giải về
cho các thượng-tế sao?" Nhưng ông Saolô càng thêm vững mạnh và ông làm cho
người Do-thái ở Đamát phải bẽ mặt, khi minh-chứng rằng Đức Giêsu là Đấng Mêsia.
Sau một thời gian khá lâu, người Do-thái cùng nhau bàn kế
giết ông Saolô; nhưng ông biết được âm-mưu của họ. Thậm chí, người ta canh giữ
các cửa thành ngày đêm, để giết ông. Nhưng ban đêm, các môn đệ ông đã đưa ông
qua tường thành bằng cách đặt ông ngồi trong một cái thúng rồi dòng dây thả xuống.”
Tác-giả sách Công-vụ
Tông-đồ, sau đó lại ngầm hiểu rằng: Phaolô tông-đồ tức tốc gia-nhập hội-thánh ở
Giêrusalem, do ông Barnabas giới-thiệu với các tông-đồ, bằng việc cãi vã với
người phò Hy-Lạp hoặc người Do-thái-giáo nói tiếng Hy-Lạp khiến họ nổi giận đến
độ muốn cứu sống ông, thành-viên hội-thánh đã phải giúp ông biến khỏi thành
Giêrusalem để về quê nhà dấu yêu ở Tarsus như sách Công-vụ Tông-đồ đoạn 9 câu
26-30 lại kể tiếp
“Khi tới Giêrusalem, ông Saolô tìm cách nhập đoàn với các môn đệ. Nhưng mọi người vẫn còn sợ ông, vì họ không tin ông là một môn đệ. Ông Banabas liền đứng ra bảo lãnh đưa ông Saolô đến gặp các Tông Đồ, và tường thuật cho các ông nghe chuyện ông ấy được thấy Chúa hiện ra trên đường và phán dạy làm sao, cũng như việc ông ấy đã mạnh dạn rao giảng nhân danh Đức Giêsu tại Đamát thế nào. Từ đó ông Saolô cùng với các Tông Đồ đi lại hoạt động tại Giêrusalem. Ông mạnh dạn rao giảng nhân danh Chúa. Ông thường đàm đạo và tranh luận với những người Do-thái theo văn hoá Hy-lạp. Nhưng họ tìm cách giết ông. Các anh em biết thế, liền dẫn ông xuống Xê-da-rê và tiễn ông lên đường về Tarsus.”
Sau đó, ông Phaolô lại
xuất-hiện một lần nữa tại Antiôkia làm phụ-tá cho ông Barnabas, nhưng chưa từng
bao giờ thay thế ông Barnabas phụ-trách vài trò lãnh-đạo ở nơi nào hết. Ông
luôn qui về mình, cả khi đứng trước mặt ông Barnabas, như Thư Thứ Nhất gửi
giáo-đoàn Côrinthô đoạn 9 câu 6 hoặc thư Galát đoạn 2 câu 1-9 còn ghi lại:
“Tôi xin nói điều này: gieo ít thì gặt
ít; gieo nhiều thì gặt nhiều.”
Hoặc:
“Rồi sau mười bốn năm, tôi lại lên Giêrusalem một lần nữa
cùng với ông Ba-na-ba; tôi cũng đem theo anh Titô đi với tôi. Tôi lên đó vì được
Thiên Chúa mặc khải, và đã trình bày cho người ta Tin Mừng tôi rao giảng cho
dân ngoại, -cách riêng cho các vị có thế giá-, vì sợ rằng tôi ngược xuôi, và đã
ngược xuôi vô ích. Thế mà ngay cả anh Titô, người cùng đi với tôi và là người
Hy-lạp, cũng không bị ép phải chịu cắt bì.4 Sở dĩ thế là vì có những
tên xâm nhập, những kẻ giả danh giả nghĩa anh em, đã len lỏi vào dò xét sự tự
do của chúng ta, sự tự do chúng ta có được trong Đức Kitô Giêsu; họ làm như vậy
là để bắt chúng ta trở thành nô lệ.
Nhưng với những người ấy, chúng tôi đã không chịu nhượng
bộ, dù chỉ trong giây lát, để duy trì cho anh em chân lý của Tin Mừng. Còn về
các vị có thế giá -lúc bấy giờ các vị ấy có là gì đi nữa, điều đó không quan hệ
đối với tôi: Thiên Chúa không thiên vị ai-, các vị có thế giá ấy đã không đưa
ra thêm điều gì cho tôi. Trái lại, các ngài thấy rằng tôi đã được uỷ thác nhiệm
vụ loan báo Tin Mừng cho những người không được cắt bì, cũng như ông Phê-rô được
uỷ thác nhiệm vụ loan báo Tin Mừng cho những người được cắt bì. Thật vậy, Đấng
đã hoạt động nơi ông Phê-rô, biến ông thành Tông Đồ của những người được cắt
bì, cũng đã hoạt động biến tôi thành Tông Đồ các dân ngoại. Vậy khi nhận ra ân
huệ Thiên Chúa đã ban cho tôi, các ông Giacôbê, Kêpha và Gioan, những người được
coi là cột trụ, đã bắt tay tôi và ông Ba-na-ba để tỏ dấu hiệp thông: chúng tôi
thì lo cho các dân ngoại, còn các vị ấy thì lo cho những người được cắt bì.”
Trong thời-gian ngắn,
cả hai vị lại đã xung-đột với nhau tại Antiôkia và cuối cùng đã phân đường đi
riêng rẽ, như Thư Galát đoạn 2 câu 13 , lại đã kể:
“Những người Do-thái khác cũng theo ông mà giả hình giả bộ,
khiến cả ông Banabas cũng bị lôi cuốn mà giả hình như họ.”
Sách Công-vụ Tông-đồ
đoạn 15 câu 36-40 có kể về ông Phaolô không là đối-tác dễ tính bao giờ hết, ngoại
trừ người khác để ông làm thủ-lãnh hoặc làm xếp, như:
“Ít ngày sau, ông Phaolô nói với ông Banabas: "Ta hãy
trở lại thăm các anh em trong mỗi thành ta đã loan báo lời Chúa, xem họ ra
sao." Ông Banabas muốn đem theo cả ông Gioan cũng gọi là Máccô. Nhưng ông
Phaolô thì nghĩ là một người đã từng bỏ hai ông từ khi ở miền Pam-phy-li-a và
đã không cộng tác với hai ông, thì không nên đem theo. Hai bên nổi nóng đến mức
phải chia tay nhau. Ông Banabas đem ông Máccô theo, vượt biển đi đảo Sýp. Còn
ông Phaolô thì chọn ông Xila và lên đường, sau khi đã được các anh em giao phó
cho ân-sủng Chúa.”
Câu truyện ở sách
Công vụ Tông-đồ kể về việc ông Phaolô rời Đamát đến Giêrusalem những hai lần
khiến mâu-thuẫn với câu truyện do chính ông kể lại. Trước nhất, ông Phaolô thay
đoạn giải-thích ở sách Công-vụ Tông-đồ về chuyện ông biến-mất cách đột-ngột, tức:
lần khẩn-trương thoát chạy khỏi vụ mưu-sát do đám dân chúng theo Do-thái-giáo
mưu-đồ giết hại, khiến ông phải lẩn tránh đám lính canh do tổng-trấn thành
Đamát là vua Nabatean Aretas chỉ-định. Thứ Thứ Hai Côrinthô đoạn 11 câu 32-33 có
kể rằng:
“Tại Đamát, tổng đốc của vua Arêtas đã cho lính canh gác
thành để bắt tôi. Nhưng người ta đã cho tôi vào một cái thúng, rồi thòng qua cửa
sổ dọc theo tường thành. Thế là tôi thoát khỏi tay ông ta.”
Xem thế thì, lý-do
đích-thực khiến ông Phaolô phải trốn/chạy, là vì: giới-chức có thẩm-quyền hồi
đó vẫn coi chuyện xưa/cũ ông Phaolô chuyên bắt giữ người Do-thái-giáo ở Đamát
là mối đe-doạ thấy rõ đối với pháp-luật và trật-tự. (*2)
Hai nữa, ông Phaolô cũng
từng công-khai chối bỏ việc ông từ Đamát đến Giêrusalem là để thăm viếng các
tông-đồ hiền-từ. Như ông từng tỏ-bày: đích-điểm ông nhắm đến, lúc ấy, là tìm đến
sa-mạc thuộc khu-vực người Ả-Rập sống ở Transjordan, hệt như Thư Galát đoạn 1
câu 17 từng trích-dẫn, như sau:
“Tôi cũng chẳng lên Giêrusalem để gặp các vị đã là Tông Đồ
trước tôi, nhưng tức khắc tôi đã sang xứ Ả-rập, rồi lại trở về Đamát.”
Rõ ràng là, cũng cùng
một thư thứ hai gửi giáo-đoàn Côrinthô đoạn 12 cây 2-4, ông lại diễn-tả
kinh-nghiệm thần-bí do ông đạt được bằng lời lẽ như sau:
“Tôi biết có người môn đệ Đức Kitô, trước đây mười bốn
năm, đã được nhắc lên tới tầng trời thứ ba -có ở trong thân xác hay không, tôi
không biết, có ở ngoài thân xác hay không, tôi cũng không biết, chỉ có Thiên
Chúa biết. Tôi biết rằng người ấy đã được nhắc lên tận thiên-đàng -trong thân
xác hay ngoài thân xác, tôi không biết, chỉ mình Thiên-Chúa biết.”
Ba năm sau, ông lại
có cuộc gặp mặt lần đầu, cũng ngắn ngủi, với tông-đồ khác, là: Phêrô (tức
Kêpha) và ông Giacôbê là em Đức Giêsu chứ không gặp tông-đồ nào khác hoặc
giáo-hội nào khác ở Giuđêa, cả.
Và, sau 2 tuần gần
gũi ông Phêrô Kêpha cũng như ông Giacôbê em Đức Giêsu như thế, ông lại ra đi thực-hiện
công-cuộc thừa-sai/mục-vụ của mình tại Syria và Cilicia như Thư Galát đoạn 1
câu 18-21 còn ghi tiếp, như sau:
“Ba năm sau tôi mới lên Giêrusalem diện-kiến ông Kêpha,
và ở lại với ông mười lăm ngày. Tôi đã không gặp vị Tông Đồ nào khác ngoài ông
Giacôbê, người em của Chúa. Viết cho anh em những điều này, tôi cam đoan trước
mặt Thiên Chúa là tôi không nói dối. Sau đó tôi đến Xyri và miền Kilikia.”
Người đọc chúng ta,
giả như chấp-nhận rằng: công việc khởi-đầu với ông Phaolô như thế là đúng, thì:
điều này sẽ đánh động ta không ít khi nghĩ rằng: ông Phaolô đã tự biết mình là
nhân-vật dị-kỳ đối-tác với các tông-đồ khác khiến gây ảnh-hưởng không tránh được
lên sự/việc mô-tả diện-mạo Đức Giêsu, đã đổi thay.
Truyện kể “Gót chân mềm
Archilles” do ông Phaolô diễn-tả, lại đã mang bản-chất dễ đưa ta đi vào tình-thế
dễ đặt vấn-đề về vị-thế tông-đồ của chính ông. Bởi, chính ông cũng đã quả-quyết
mình là “tông-đồ của Đức Giêsu Kitô” như Thư Thứ Nhất Côrinthô đoạn 1 câu 1 và
thư Thứ Hai Côrinthô đoạn 1 câu 1 cũng từng viết:
“Tôi là Phaolô, bởi ý Thiên Chúa được gọi làm Tông Đồ của
Đức Kitô Giêsu, và ông Xốtthênê là người anh em chúng tôi…”
Và:
“Tôi là Phaolô, bởi ý Thiên-Chúa, được làm Tông Đồ của Đức
Kitô Giêsu, và Timôthê là người anh em, kính gửi Hội Thánh của Thiên Chúa ở
Côrinthô, cùng với mọi người trong dân thánh trong khắp miền Akhaia.”
Và rồi, khi viết thư
Rôma ông lại cũng nói đến “bầy tôi” Đức Giêsu, gọi là tông-đồ, như đoạn 1 câu 1
còn ghi rõ:
“Tôi là Phaolô, tôi tớ Đức Kitô Giêsu; được gọi làm Tông
Đồ, và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên-Chúa.”
Ở chỗ khác, chính ông
Phaolô cũng đã gọi mình là “sứ-thần của Đức Kitô”, như thư Thứ Hai Côrinthô đoạn
5 câu 20 còn nói tiếp:
“Vì thế, chúng tôi là sứ-giả thay mặt Đức Kitô, như thể
chính Thiên-Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng
tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa.”
Hoặc, chính-xác hơn,
ông lại cũng mô-tả chính mình là “thừa-tác-viên của Đức Giêsu Kitô được gửi đến
với dân ngoaị”, như thư Rôma đoạn 15 câu 16 lại đã phân-bua:
“Thiên Chúa đã ban cho tôi1làm người phục-vụ Đức
Giêsu Kitô giữa dân ngoại, lo việc tế-tự là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa,
để các dân ngoại được Thần-Khí thánh-hoá mà trở nên lễ phẩm đẹp lòng Thiên-Chúa.”
Đằng khác, ông Phaolô
lại cũng tuyên-bố rằng: những điều nói ở đây, được các đấng bậc Hội-thánh chứng-giám.
Và, chính ông cũng hơn một lần từng làm sáng-tỏ bằng lời lẽ đầy tính “bút chiến”,
rất bực bội như thư Thứ Nhất Corinthô đoạn 9 câu 1-2 lại xác quyết:
“Tôi không tự do ư? Tôi không phải là tông-đồ ư? Tôi đã
không thấy Đức Giêsu, Chúa chúng ta sao? Anh em không phải là công-trình của
tôi trong Chúa sao? Nếu đối với người khác tôi không phải là tông-đồ, thì ít ra
đối với anh em tôi vẫn là tông-đồ, vì ấn-tín chứng-thực chức-vụ tông-đồ của tôi
trong Chúa chính là anh em.”
Ở một đoạn khác, ông
lại đã chối bỏ sự khiêm-tốn thua-thiệt các nhà giảng-thuyết khác mà ông từng mỉa-mai
gọi họ là “các tông-đồ siêu-đẳng” như thư thứ Hai Côrinthô đoạn 11 câu 5 và đoạn
12 câu 11, rày đã kể:
“Tôi nghĩ rằng tôi chẳng thua gì các Tông Đồ siêu đẳng
kia. Giả như tôi có thua kém về khoa ăn nói, thì về sự hiểu biết, tôi chẳng
thua kém gì! Trong mọi dịp và trước mặt mọi người, chúng tôi đã tỏ cho anh em
thấy điều đó rồi.”
Hoặc:
“Tôi điên rồi! Chính anh em đã khiến tôi ra như thế. Đáng
lẽ anh em phải khen tôi, vì mặc dầu tôi chẳng là gì, tôi đâu có thua kém các
Tông Đồ siêu-đẳng kia.”
Ông từng chuẩn bị
tình-huống cho thuận-tiện để định-vị chính ông là: “tông-đồ kém cỏi”. Nhưng, có một lúc, không tự chủ được chính mình,
ông lại đi quá xa bằng cách tuyên-bố mình “không thích-hợp để được gọi là
tông-đồ” như thư Thứ Nhất Côrinthô đoạn 15 câu 9, trong đó ông có nói, như sau:
“Thật vậy, tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ,
tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược-đãi Hội Thánh của Thiên Chúa.”
Tuy nhiên, so chiếu tâm-can
ông, có người đã tỏ lộ rằng: ông dám trao tặng toàn-bộ sự sống của chính mình hầu
tạo danh-xưng tông-đồ cho ông, dù có phải trả giá cho việc phục-vụ bằng môi miệng
khiêm tốn đến thế nào đi nữa, ông cũng chẳng ngại va-chạm, xung-đột với các bạn
đồng-nghiệp dù lão-thành/kỳ-cựu hơn ông.
(còn
tiếp)
Gs Geza Vermes biên soạn,
Mai Tá
lược dịch
No comments:
Post a Comment