Wednesday 7 September 2005

HỒI KÝ 50 NĂM LINH MỤC - Kỳ 7

NIỀM VUI VĨ ĐẠI - Kỳ 7

HỒI KÝ 50 NĂM LINH MỤC

NHỚ NGÀY “INTROIBO”

Ghi lại dư âm buổi Thánh Lễ Mở Tay tại Dòng Mến Thánh Giá Tân Thanh, Bảo Lộc ngày 9.9.1956.

Vừa bước ra khỏi Nhà Nguyện, tay còn thấm ướt Dầu Thánh, tôi còn ngơ ngác nhìn bà con quen biết, trí óc hướng về cha mẹ già, thầm gởi đến hai đấng phép lành đầu tiên với lòng biết ơn yêu mến sâu xa vì đã dạy tôi yêu Chúa thương người, đã thúc đẩy tôi trên đường Linh Mục, thì cha Eugène Larouche, vị giám đốc và linh hướng thương yêu của tôi từ lúc tập tễnh bước vào Đệ Tử Viện, đến ghé tai tôi: “Con lên phòng cha đã”.

Tôi theo cha. Tôi không biết ngài muốn gì, nhưng vì đã kính trọng và yêu mến ngài sẵn, nên tôi không cần thắc mắc. Về đến phòng của ngài, ngài nói: “Roch nhỏ bé nay đã làm Linh Mục. Bây giờ con ban phép lành đầu tiên cho cha”. Nói xong ngài quỳ xuống, cúi đầu.

Thật bất ngờ ! Tôi sửng sốt. Cha già đã muốn tôi dành cho ngài phép lành đầu tiên của đời Linh Mục của tôi. Tôi vâng lời ngay vì nghĩ rằng: ngài có quyền đòi hỏi một quyền ưu tiên, bởi tôi có ngày hôm nay cũng là vì tinh thương của ngài hằng theo dõi, săn sóc, khích lệ, an ủi, giúp đỡ, chịu đựng và nhẫn nại dạy dỗ tôi.

Với tất cả niềm tin vào quyền năng tôi vừa lãnh nhận và đem hết lòng yêu mến, tôi kéo ơn Chúa Trời xuống người cha yêu dấu ấy. Đôi tay tôi đặt trên mái đầu bạc của ngài mà rưng rưng nước mắt: “Xin Thiên Chúa toàn năng là Cha, Con và Thánh Thần ban muôn phép lành xuống cho vha và ở với cha cho đến muôn đời”. Vị Linh Mục là Đấng sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế tại Việt Nam nói như hô: AMEN; đoạn ôm lấy tay tôi hôn.

Tôi nhớ lại cái hôn đầu tiên trên tay tôi, năm 1943, khi tôi về nghỉ hè lần sau cùng để rồi từ đó không bao giờ gặp lại cha mẹ tôi nữa. Sau mấy tuần ở nhà, tôi trở lại Nhà Đệ Tử. Mọi lần tôi đi xa thì thầy tôi đưa tôi đi, nhưng năm ấy, mẹ tôi dành đưa tôi ra tỉnh để lên tàu. Phút nghẹn ngào khó tả ! Mẹ tôi và tôi đều im lặng. Tôi biết nói gì đây ?

Tàu đã đến rồi, nhưng tôi đâu có buồn lên. Tôi vẫn nán lại, đứng với mẹ tôi như linh cảm rằng: đây là lần sau cùng... Mãi cho đến lúc còi hú báo giờ tàu sắp chạy tôi mới đành lòng. “Mẹ, con đi”. Mẹ tôi, trong một cử chỉ bất ngờ cúi người xuống, nắm lấy tay tôi, đưa lên môi. Mẹ tôi hôn tay tôi ! Nước mắt tôi trào ra, không giữ được nữa. Không phải vì phải từ biệt mẹ tôi, nhưng vì nỗi xúc động của nụ hôn ấy. Cặp mắt mẹ hiền từ lúc ấy thật cao cả, đầy tư tưởng: Con sẽ làm Linh Mục. Bàn tay này sẽ cầu Chúa trời đất. Khi Người đến, Người sẽ gặp cái hôn của mẹ, vì ngày đó, mẹ sẽ không có mặt. “Thôi con đi”. Tôi đi, mang theo cái hôn mẹ tôi đã đặt trên đôi tay của tôi.

Mười mấy năm trôi qua, hôm nay, trên đôi tay này, nụ hôn thứ hai: nụ hôn của cha già Larouche đã dẫn dắt tôi trên đường Linh Mục, tôi vụt nhớ lại cái hôn thủơ xưa với một sự rung động sâu xa khó tả. Đáng lẽ tôi phải cúi thật sâu, ôm đôi tay nhân hậu đầy yêu thương đã săn sóc chở che tôi trong lúc tôi mỏng dòn nhất, để tỏ lòng biết ơn yêu mến, nhưng ngược lại, tôi được hôn trên đôi tay vừa hiến thánh. Tôi rưng rưng nước mắt vì những xúc động dồn dập.

Vị cha già đứng lên, ôm lấy tôi, vẻ vui mừng hiện rõ trên nét mặt. Ngài đã đàm đạo với tôi, như quên đi bao người đang còn chờ đón mừng tôi vì hồng ân cao cả làm Linh Mục của Chúa. Sau một hồi lâu, ngài đứng dậy và tươi cười bảo tôi: ”Thôi, bây giờ chúng ta xuống dưới nhà, người ta chờ con !”

Xuống phòng khách, tôi luôn tay và hết lòng cầu xin phúc lành của Chúa trên chị tôi, em tôi, anh Thư, thầy Khoa bạn lớp, các cha Bề Trên, giáo sư, anh em và nhiều người khác. Sacerdos oportet BENEDICERE. Cả đời tôi phải là một đời đem sự lành, chúc sự lành, mãi mãi không ngớt.

Trưa hôm ấy, chúng tôi chia sẻ niềm vui với gia đình thiêng liêng của chúng tôi. Nhà Dòng chính là Mẹ đã dọn cho chúng tôi trận mưa Hồng Ân hôm nay.

Ngay chiều hôm ấy, 8.9.1986, tôi đi Tân Thanh. Tôi sẽ dâng lễ mở tay, lễ đầu tiên của đời Linh Mục tôi tại Nhà Dòng Mến Thánh Giá Thanh Hoá. Tôi đã chuẩn bị kỹ càng về nghi lễ, tôi lại được cha An-tôn Nguyễn Đức Tuyên làm Tổng Phó Tế giúp tôi. Tôi yên lòng không sợ luýnh quýnh mà mất sự cầm trí. Sáng nay, ngày tôi tự mình bước lên bàn Thánh, INTROIBO, tôi có ý thức mình sắp làm một công việc quan trọng nhất đời. Tôi sẽ truyền Chúa Ki-tôâ xuống trên bánh và rượu. Thiên Chúa hiện diện do ý muốn của tôi. Thiên Chúa nên của ăn, của uống, nên bạn đường của loài người do chỉ một lời tôi nói.

Tôi nhớ lại một bài thơ đã làm lúc ấy, so sánh tôi với Mi-ca-e Tổng Lãnh Thiên Thần. Tôi đóng vai chính, tôi nâng của lễ, tôi làm cho Chúa hiện diện, tôi trao Chúa cho kẻ khác, tôi cầm nắm Chúa trong tay... Đang khi ấy, Mi-ca-e Tổng Lãnh Thiên Thần chỉ có thờ lạy. Quyền năng này là quyền năng lớn nhất mà một thụ tạo có thể có được. Hơn cả quyền ban sự sống, hơn cả quyền trả lại ơn nghĩa, hơn cả quyền mở cửa Nước Trời.

Tôi tiến lên bàn thờ. Introibo. Sau lưng tôi, cả Nhà Dòng Mến Thánh Giá cùng đi với tôi, các cha Tổng Phó Tế, Phó Tế, Phụ Phó Tế. Trên cung Thánh, lại còn có vị Giám Mục già. Ngài lại có mặt để như khích lệ tôi, cầu nguyện cho tôi, dâng tôi cho của lễ chí Thánh trên bàn thờ, làm nên một dấu chỉ cho tôi biết: Giáo hội ở với tôi trong tình thương ân cần và tỉnh thức.

Cha An-tôn Nguyễn Đức Tuyên đã giảng ngày hôm ấy. Ngài đã chọn một đề tài không mấy vui. Ngài không ca tụng chức Linh Mục, ngài không có một lời nâng niu tôi, khuyên bảo tôi và kể cả khích lệ tôi. Tôi đã hơi có vẻ không mấy vui, vì trong cả bài giảng, ngài không nhắc đến công ơn cha mẹ tôi, không chia vui với tôi vì vinh dự hôm nay. Tác giả cuốn: “Ý nghĩa sự đau khổ” đến bốn, năm lần tái bản, đã nói về “sự đau khổ, Thánh Giá trong đời sống Linh Mục”. Toàn là những viễn tưởng mờ mịt, buồn đau của Linh Mục, toàn là một chân trời trồng đầy Thánh Giá. Ngài nói: “Đời Linh Mục là một đời đau khổ, và bước vào đời Linh Mục là chấp nhận đi lên Núi Sọ với cây Thánh Giá sừng sững giữa trời với đinh sắt đâm thủng tay chân, với lưỡi đòng đâm qua trái tim. Đừng tưởng là Linh Mục để được sung sướng. Linh Mục phải lãnh nhận đau khổ như một món quà quí báu Chúa ban cho bạn hữu thân tình...

Ngài nói nhiều lắm. Tôi cố nghe như những lời tiên báo về cuộc đời Linh Mục của tôi mở màn từ ngày hôm qua khi được thụ phong và khởi sự hôm nay với nhiệm vu ïlớn lao nhất là PHỤNG TẾ lên Cha của lễ cao trọng nhất mà loài người có để dâng lên Thiên Chúa.

Buồn quá nhỉ ! Tôi có cảm tưởng như giờ phút này, Chúa đã dùng cha Tuyên để nói cho tôi biết Linh Mục là thế đó, và riêng với tôi thì đó là phần gia nghiệp của tôi. Vì là Linh Mục tôi sẽ phải gian lao, đau khổ, mặc dầu lúc này những khổ đau ấy không có tên tuổi gì cả.

Suốt 26 năm nay, tôi kinh nghiệm đời Linh Mục của tôi. Tôi đồng ý với vị giảng thuyết hôm tôi dâng Lễ Mở Tay: khổ vì muốn làm lại bị ngăn cấm, thích việc này thì lại bị sai đi làm việc khác, gặp khó khăn chống đối bởi người ghét mình, gặp bất hợp tác nơi đồng chí với mình, gặp thần Mammon trong các giao dịch để hoạt động tông đồ do chính những người đã “bỏ mọi sự theo Thầy” cùng với mình, cả những tranh chấp vì danh lợi, vì sự chú ý của người trên hay vì sự hâm mộ của dân chúng. Lên một nấc nữa, khổ vì việc bổn phận khó chu toàn bởi chính giới hạn khả năng của mình, khổ vì sự cứng lòng của người đời, vì sự chống đối thầm kín hay ra mặt của những người không nhìn nhận sự sáng đã đến trong thế gian...

Nhưng cái đau khổ sâu xa nhất mà tôi cảm thấy thấm thía là sự yếu đuối của chính mình, vì sự yếu đuối tình yêu của tôi đối với Thiên Chúa. vì sự yếu đuối của tôi trong phạm vi hoạt động mà Lòng Tin là lửa, là động lực, là ánh sáng, là hướng đi... Tội lỗi và kém cỏi của chính tôi chính là điều làm cho tôi khổ sở nhất, “Trong tôi có một luật đi ngược lại luật của Đức Chúa Trời”. “Tâm thần thì chóng vánh nhưng xác thịt thì nặng nề”, “Ánh sáng đến giữa lòng tôi, và bóng tối không nhìn nhận sự sáng”.

Và ở đây, tôi đã nhận được bài học mà Chúa muốn dạy cho tôi và tôi đã học mãi mà chưa thông: bài học Khiêm Tốn. Khiêm Tốn tức là Sự Thật.

Là Linh Mục, tôi vẫn là thọ tạo, với tất cả những gì là hạn chế, là khuyết điểm, là kém cỏi, là tội lụy. Hơn ai hết, Linh Mục phải thấy sự thật về mình để đặt trọn niềm tin cậy nơi Chúa, để ân cần tìm Ngài trong cầu nguyện, cầu nguyện liên hồi, cầu nguyện không thôi, để không chán nản khi gặp thất bại và tự phụ khi được thành công.

Như Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Linh Mục mãi mãi phải nhớ mình là đầy tớ, là thừa tác viên của một Thiên Chúa mà sự cứu rỗi con Người là đặc điểm của tình thương yêu từ đời đời. Khi đã đem hết lòng mình cho Chúa và cho sứ mệnh Ngài giao phó thì Linh Mục phải yên vui và tin tưởng. Niềm vui ấy sẽ bất tận.

Do vậy mà tôi vẫn nhớ đến bài giảng của vị Linh Mục đã nói với tôi trong ngày lễ mở tay và nếu chỉ nói rằng: Đời Linh Mục là một đời đau khổ, chắc tôi vẫn không nói được.

Tôi chưa đủ điều kiện để kết luận như thế, mặc dầu tôi đã qua 26 năm làm Linh Mục với đủ mọi thứ khổ đau, kể cả phỉnh gạt, lừa lọc, ích kỷ, phá hoại, chửi bới, tù đày, chiến đấu bên trong lẫn bên ngoài. Sao tôi vẫn thấy tôi tràn đầy hạnh phúc. Tôi vẫn thấy đời Linh Mục của tôi đầy an ủi và niềm vui. Hạnh phúc và niềm vui của một cuộc Phục Sinh huy hoàng trong ánh sáng của chính cuộc Thương Khó của Chúa Ki-tô và sự Sống Lại của Ngài.

Tôi cũng còn thấy niềm vui ấy ở lòng tin chắc chắn tôi được một tình yêu vĩ đại của Mẹ Ma-ri-a, vì “Lạy Mẹ, chưa hề nghe có ai là con cái Mẹ mà bị bỏ rơi, bị thất vọng...”

Tôi vui vì cả đời Linh Mục của tôi, tôi đặt niềm tin ở Giáo Hội. Tôi xin không bao giờ chống đối lại Hội Thánh và các vị đại diện Chúa Ki-tôâ ở trần gian này. Tôi coi đó như chiếc hàn thử biểu để biết tôi đã đến mức báo động chưa ! Và tôi vẫn tiếp tục xin ơn trung tín với Giáo Hội, xin cho những sự lầm lỗi của tôi dầu thế nào đi nữa cũng không hề tác hại đến Giáo Hội, bạn tinh tuyền của Chúa Ki-tô.

Tôi xin cho những ai đến với tôi, dầu họ thấy tôi khuyết điểm thế nào đi nữa nhưng cũng không bao giờ cho rằng, nghĩ được rằng: tôi chống lại Hội Thánh, rằng tôi phê phán hàng giáo phẩm... Tôi muốn thế, tôi cầu cho được như thế và tôi tin rằng: nhờ đó tôi giữ được đời Linh Mục của tôi trong vui tươi hạnh phúc dầu có thế nào đi nữa.

Vị Giám Mục già chắc phải thương tôi lắm vì thấy tôi còn non dại quá. Các chị Dòng, nhất là những chị đã bạc đầu và nhăn nhúm vì bao năm phụng sự Chúa chắc phải thương những Linh Mục “mới toanh” chưa ra đời như tôi. Họ nghĩ đến bao khó khăn cạm bẫy đang rình rập... và chắc là tôi đã nhận được lời cầu nguyện thật nhiều của họ.

Nhớ lại những hơn một phần tư thế kỷ là Linh Mục, tôi phải tạ ơn Chúa vì đã cho tôi được nhiều người cầu nguyện cho, cách riêng trong buổi Thánh Lễ hôm ấy. Và hôm nay, nhân ngày kỷ niệm, nhớ đến một vạn Thánh Lễ tôi đã dâng cho Thiên Chúa chí Thánh, nhớ đến nỗi buồn khổ khi ở biệt giam tôi không có được một mẫu bánh để dâng lễ; nhớ đến những Thánh Lễ cho mọi hạng người, trong mọi hoàn cảnh, nhất là những Thánh Lễ cử hành bí mật... Tôi luôn dâng niềm tin yêu tạ ơn Thiên Chúa đã lắng nghe tôi, đã đưa tay nhận lấy với lòng tràn từ ái.

Lạy Cha chí nhân, nhờ Đức Giê-su Ki-tô,

Xin cha đoái thương nhận lễ vật chúng con dâng tiến lên Cha,

Cho vinh quang Cha và sự cứu độ trần gian.

Xin Cha nhận lễ vật con dâng Từ ngày hôm ấy cho đến hôm nay và cho đến cùng đời con.

Xin Cha hãy ban cho đời con là một Thánh Lễ,

Một Thánh Lễ đẹp lòng Cha, một Thánh Lễ muôn đời trong ca tụng

Ngợi khen Cha là Chúa Tể, là Thiên Chúa Hằng Sống.

Introibo, con sẽ bước vào tiệc cưới Nước Trời, trong niềm hân hoan. Amen, Halleluia.

Lm. NGUYỄN TỰ DO, DCCT ( Còn tiếp nhiều kỳ )

No comments: