Wednesday 7 September 2005

HỒI KÝ 50 NĂM LINH MỤC - Kỳ 2

NIỀM VUI VĨ ĐẠI - Kỳ 2

HỒI KÝ 50 NĂM LINH MỤC

NHỮNG CỘT MỐC ( tiếp theo )

4. NGHỀ LINH MỤC

Trong một buổi “làm việc” với Công An, tôi được hỏi: “Nghề gì ?” – “Tôi là Linh Mục”. Người Công An im lặng một hồi khá lâu, xong anh nói: “Linh Mục là phản động”.

Đối với anh Công An, đó là chân lý. Anh đã được dạy như thế từ lâu rồi, anh đã thuộc các bài học ấy. Tôi nhớ lại thời gian đi tù, một trung úy Công An, sau thời gian tiếp xúc với tôi, đã thành thật nói với tôi: “Linh Mục không phải như người ta đã nói với chúng tôi”. Nhưng anh Công An của sở Công An TPHCM vẫn rất “chính thống” khi phán: “Linh Mục là phản động”.

Không im lặng trước lời vu khống đó, tôi trả lới anh: “Anh nói sai chính sách của nhà nước về sự tự do tôn giáo”. Anh Công An liếc tôi một cái, rồi cúi xuống xem xét hồ sơ của tôi. Sau một hồi, anh nhìn lên và lại phán: “Các ông chỉ lợi dụng tôn giáo để làm chính trị”.

Đó cũng là một “chân lý” anh đã được học. Người ta dạy cho anh mấy điều sai lạc đó. Tôi thưa lại: “Thưa cán bộ, cán bộ nói sai chính sách. Chúng tôi có nhiều việc phải làm, không có thời giờ để làm chính trị”.

Đối với họ “nghề Linh Mục” là “nghề chính trị”. Con người không phải chỉ có việc sống, làm ăn, được cai trị theo một thể chế nào đó. Họ quên hẳn rằng con người còn có tâm linh, còn có lương tâm, còn có linh hồn và còn có sự sống sau cái chết.

Linh Mục không làm chính trị và cũng không lợi dụng chính trị, quyền lực và cả tiền bạc để phục vụ Tin Mừng và làm tròn nhiệm vụ của mình. Tin vào các giá trị tự nhiên đó một cách quá đáng là đi ngược lại với “Hiến chương Nước Trời”. Thế thì nhiệm vụ, vai trò, chỗ đứng của Linh Mục trong xã hội là gì ? Chúa Giê-su đã không dùng người giàu có và của cải trần gian để chinh phục con người.

Giáo Hội thời bị bách hại tại Giê-ru-sa-lem rồi tại Rô-ma và ngay cả tại Việt Nam vẫn chinh phục tâm hồn con người. Tài sản của Tòa Thánh bị tước đoạt hết đưa đến quyềt định vị Giáo Hoàng tự giam mình tại Vatican để phản đối. Phải chờ cho đến Gio-an 23 mới có cuộc “Phi hành ra khỏi Vatican”, mở đường cho các cuộc công du vũ bão của Phao-lô 6 và nhất là của Gio-an Phao-lô 2.

Cách Mạng Pháp đã tàn phá của cải, cơ sở của Giáo Hội, đặt các Giáo Sĩ, Tu Sĩ ra ngoài vòng pháp luật. Chỉ trong 10 tháng, 546 Linh Mục trong số 828 người bị chất lên tàu đầy sang đảo Madame năm 1794 đã chết vì đói, vì bị bạc đãi, vì bệnh. Cách Mạng Pháp mãi là vết nhơ của một dân tộc văn minh đã có thành tích văn hóa và truyền giáo đáng nể trọng.

Thế nhưng Giáo Hội Pháp vẫn tồn tại và cả thời bụổi này vẫn liên tục gửi các Thừa Sai đi khắp vùng truyền giáo xa xôi. Trước 75 tại Miền Bắc và sau biến cố 30.4.1975 tại Miền Nam Việt Nam Giáo Hội đã bị tước đoạt nhiều cơ sở, ruộng đất và phương tiện kinh doanh để tự túc và phát triển. Các Giáo Phận và các Hội Dòng chịu nhiều mất mát nhưng Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam vẫn đứng vững, kiên cường, các ơn gọi Linh Mục Tu Sĩ nam nữ đông chưa từng có. Mọi sự đều có mặt trái, nhưng Thiên Chúa như có lúc để xẩy đến những sự “bất công đó” để chúng ta không quên bài học của việc Chúa đã làm là chọn 12 cột trụ của Hội Thánh giữa những thành phần gọi được là tầm thường, là “thấp hèn” trong xã hội.

Nếu các Giám Mục, Linh Mục và Tu Sĩ không quên cội gốc của Giáo Hội Chúa Giê-su đã lập và cội nguồn của chính mình thì họ sẽ luôn luôn khiêm tốn, hiền hòa nhân hậu và thật sự là như Đấng Messiah, “người tôi tớ đau khổ”, “phi bạo lực” không hề có khí giới nào khác là Tình Yêu, một Tình Yêu đi đến cùng. Một cách nào đó, họ sẽ thi hành điều tác giả thư Do Thái đã viết: “Họ sẽ có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những người lầm lạc, bởi vì chính họ cũng yếu đuối mà vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào thì cũng phải dâng lễ cho chính mình như vậy” ( Rm 5, 2 – 3 ).

Không ai chối từ văn minh, tiến triển. Mọi sáng chế của con người phải được sử dụng cho vinh quang của Thiên Chúa và lợi ích của con người, nhưng những xa xỉ rõ ràng là không phù hợp với nếp sống của người tu hành, của Linh Mục.

Đừng quăng đá cho ai, đừng tận lực lấy cái rác trong con mắt kẻ khác đang khi tải cả một súc gỗ trong mắt mình. Nhưng thật tình, tôi không thích mấy Nữ Tu phát biểu rằng phải mặc đồ ngoại, vải ngoại, vì... lâu rách hơn hàng nội. Tôi quý trọng những Linh Mục không ngại tốn kém để có những chén thánh, những đồ lễ sang và đẹp xứng đáng với Thiên Chúa toàn năng. Có những cái không được tiếc, nhưng những gì liên hệ đến cá nhân của mình thì có lẽ không bao giờ bỏ qua nếp sống đơn sơ, bình thường, nhỏ bé, nghèo mọn.

Một tờ giấy thật nhỏ mọn, nhưng tôi không bao giờ quên những Thừa Sai Canada từng làm giám đốc Đệ Tử Huế. Tôi nhớ đậm nét các ngài cắt từng lề trang báo còn trắng để dùng lại. Một mảnh giấy cỡ bàn tay được người tù trân trọng cất giữ cẩn thận để vấn thuốc, gói cái gì đó, làm đóm hút thuốc... Có lẽ vì đã nằm lòng mà tôi không bỏ xọt rác những mẩu giấy, những chiếc phong bì... Tất cả đã là giấy thảo cho tôi viết bài, viết sách. Tôi chỉ cố gắng tận dụng của Chúa ban trong tinh thần “người nghèo của Gia-vê”.

Công An nói với tôi: chúng tôi biết rõ ở thành phố này có một Linh Mục có một bộ âm thanh nhất Sài-gòn. Cách nay cả chục năm, khi có ý định làm những cuốn phim về Nhà Dòng và Giáo Hội, nghĩ đến những cuộc hành trình qua những con đường vô cùng gian nan bùn lầy, lắm khi phải leo non lội suối, tôi đã mua lại một chiếc xe jeep cũ với giá 15 triệu. Công An biết ngay và hỏi tôi: “Ông mua xe làm gì ?“ Chắc hẳn không phài vì lý do hào nhoáng hay thoải mái, nhưng đối với họ thì chính là mục đích: để làm gì ? Đã có thay đổi. Bây giờ ai để ý đến Linh Mục mua xe ! Điều hệ trọng là đối với vị Linh Mục ấy. Mua xe để làm gì ?

Cuộc sống của một Linh Mục không phải để hào nhoáng, để đua đòi với đời, nhưng luôn nhắm đến việc sử dụng của cải trần gian để làm được công việc mình phải làm. Nhớ lại năm trước 75, tôi đã trang bị phòng thâu thanh tại Trung Tâm ATAS. Nhờ ơn Chúa và sự giúp đỡ của nhiều người, tôi đã sắm được, trang bị được phòng thâu với máy móc đắt tiền vào thời đó: máy thu Sony tốc độ 15 với băng lớn. Giá mỗi chiếc tương đương với một chiếc xe Wolswagen 12 chỗ.

Sau 75, các máy móc để thu, để sang, để quay phim 16 ly, máy chụp, máy chiếu và rất nhiều thứ khác một phần do Nhà Nước lấy, một phần để tại phòng tôi tại Kỳ Đồng... ( Xin lược bớt một đoạn ngắn )

Có một vật dụng tôi rất quý mến vì nó đã giúp tôi trong rất nhiều việc: cái bút máy Parker rất hợp tay. Tôi đã từng với nó viết nhiều bài báo, nhiều cuốn sách, ký hằng vạn bức thư trong và ngoài nước. Vừa về lại nhà sau gần 6 năm tù, tôi hỏi người nhà câu đầu tiên và mong muốn được nắm lại trong tay “người bạn đường” quý báu đó. Người nhà cho biết: một anh Công An xét nhà cầm cây bút ấy, lắc lắc mấy lần rồi phán: “Ăng-ten”, rồi dắt vào túi áo. Chiếc đồng hồ của tôi được nghe phán: “Điện đài !” cũng sẽ đi theo con đường ấy nếu không có sự can thiệp của một người lính: “Đồng hồ của người ta chứ đài gì mà đài”. Anh lính dằng lấy và trao lại cho người nhà tôi: “Chị giữ lại cho ông ấy”.

Trong tù, người ta gọi tôi ra chụp ảnh. Họ chụp tôi với chính máy của tôi: “Máy của ông đó. Đồ của ông thiếu gì ở trong này”. Tôi không biết tôi đã bị mất những gì. Tiếc nhất vẫn là những bản thảo sách của tôi đã viết xong, đánh máy: gần 400 trang đánh máy cuốn sách tôi đã viết trong cả chục năm: “Giáo Hội trong thế giới ngày nay” trong đường hướng Công Đồng Vatican 2, cuốn “Thư gửi con trước cuộc đời hôn nhân” cũng cỡ đó...

Nghĩ cho cùng thì tôi mất hết mọi sự qua cuộc biến cố xẩy đến năm 75, chung số phận với nhiều Giáo Phận, Dòng Tu, và một số lớn dân miền Nam. Giáo Hội vẫn sống, vẫn hoạt động và tôi cũng thế, tôi không tiếc xót, bởi vì đó là những phương thế Chúa ban một thời gian hoạt động.

Tôi chỉ tiếc là vì đã không còn cơ hội để đeo đuổi chí hướng. Tôi cứ tự an ủi mình rằng: ý Chúa chưa muốn. Chúa dẫn dắt lịch sử và đúng thời đúng lúc Chúa sẽ cho dấy lên “nhửng con cháu Áp-ra-ham từ những sỏi đá”. Có tiếc xót cũng chẳng đem lại lợi ích gì. Thôi thì ta cứ chấp nhận thời gian mới và làm những gì mới, khác với những gì ta từng quen làm với một hy vọng là “mọi sự sẽ tốt hơn” và ta lại có thể đóng góp sức lực và khả năng của mình cho cái gì khác, trong hoàn cảnh khác và với phương tiện mới khác, như câu chuyện xẩy đến cho tôi vào những ngày đầu của cuộc “đổi đời”.

Vào tháng 6 năm 75, vì không nhận được lệnh phải đi trình diện, tôi đến Tòa Tổng Giám Mục. Đức Tổng Bình có vẻ ngạc nhiên vì tôi không đi trình diện. Ngài lạc quan nói với tôi: “Cha đi trình diện đi, học tập 10 ngày rồi sau đó sẽ có thể lo việc phát thanh khi được phép”. Có lẽ ngài quá “ngây thơ” vì quên đi rằng: người ta sẽ không bao giờ chia sẻ quyền truyền thông với ai khác ngoài các cơ quan của chính quyền, hay thân với chính quyền.

Đến đây, tôi liên tưởng đến cái lý tưởng truyền Tin Mừng qua làn sóng điện, một lý tưởng tôi đã từng ôm ấp trong suốt cuộc đời Linh Mục...

5. GIẤC MƠ TRUYỀN THÔNG

Tôi không biết cái lý tưởng và quyết tâm phục vụ Tin Mừng qua các phương tiện truyền thông đã đến với tôi từ lúc nào. Tôi chỉ nhớ lúc ở đệ tử, tôi đã tham gia vào những sinh hoạt “nội san”, và thời gian ở Học Viện tôi đã cùng anh Nguyễn Ngọc Lan hỳ hục với nhau dùng thời gian giải trí để thực hiện nội san của Học Viện với những tờ pelure tẩm dầu, đánh máy với cả sức lực để chọc thủng giấy và dán đủ cách để những tờ ấy có thể nhân bản Ronéo. Lúc viết bằng tiếng Việt, khi bằng tiếng Pháp và phát hành trong các tu viện của Dòng tại Việt Nam, có lúc còn vượt biển sang Canada, Pháp...

Làm Linh Mục, tôi được chỉ định về Sài-gòn và tức khắc được mời thuyết giảng trong các chương trình “Tiếng Vọng Tình Thương” do cha Phan Văn Thăm lúc ấy là phó xứ Nhà Thờ Chánh Tòa thành lập trên Đài Phát Thanh Quốc Gia. Các bài của tôi lại được in rộng rãi trên tờ tuần báo Thẳng Tiến cũng do cha Thăm phụ trách.

Trong một bữa ăn tại Nhà Dòng, tôi được nghe cha Phan Phát Huồn, tuyên úy quân đội cho biết là đã được mời thực hiện chương trình Truyền Hình nhân dịp lễ Noel năm đó, năm đầu tiên có truyền hình tại Sài-gòn. Ngài cho biết là đã phải từ chối vì “không có người làm được”. Tôi xung phong nhận làm chương trình. Đó là chương trình truyền hình Công Giáo đầu tiên trên đất nước Việt Nam.

Kinh nghiệm chưa có bao nhiêu, nhưng đó là bước đầu. Chương trình được thu trong một stuđio nhỏ bé, và ca đoàn tôi đưa lên đã bắt buộc camera phải dời khỏi phòng ra tận hành lang, để có thể thu hình được đầy đủ. Máy lạnh lúc ấy chưa đạt và sức nóng đem thêm máu nóng cho buổi thu hình. Trong thời gian vừa qua, tôi đã gặp lại được cô bé tên Nguyệt lúc ấy mới 5,6 tuổi với bó hoa tươi để chúc Lễ Giáng Sinh cho các vị khán giả. Ánh đèn đã làm cho cô bé rơm rớm nước mắt, và chúng tôi đã phải cố gắng dỗ dành để cô bé nói được mấy lời vắn tắt. Thời xa xưa ấy vẫn không làm cho tôi quên được, nhất là khi thấy các “bé” thật dạn dĩ nói, hát trên đài truyền hình mầu ngày nay. Tôi cứ mơ đến những chương trình Truyền Hình Công Giáo trong hệ thống truyền hình nay phủ sóng trên toàn cõi Việt Nam. Tiếc xót ! Và vẫn chờ đợi !

Từ ngày đó, nha Tuyên Úy Công Giáo yêu cầu tôi nhập vào, đề chỉ... lo các chương trình Phát Thanh, phát hình của Nha Tuyên Úy Công Giáo. Cơn cám dỗ không thắng nổi, và tôi vào quân đội. Người ta giữ lời hứa và trao cho tôi công việc ấy bằng một cú điện thoại, không có một giấy tờ tài liệu gì.

Trong gần 7 năm, tôi đã thực hiện các chương trình phát thanh và chiến dịch: “Đức tin trong quân ngũ”, “Sách Kinh cho quân nhân” và lớn nhất là “Mỗi quân nhân một Tân Ước”. Có một thính giả, một thiếu nữ viết thư cho tôi, trong đó có lời đề nghị “tặng Tân Ước cho quân nhân Công Giáo Việt Nam”. Và đó là khởi điểm của chiến dịch: “mỗi quân nhân một Tân Ước”. Tôi hăng say hoạt động, phát huy nhiều sáng kiến. Tôi sung sướng thấy “giấc mơ Truyền thông” đang trên đà thành sự thật.

Đúng ra là tôi vào ngành Tuyên Úy Gông Giáo không phải vì để được “làm quan” mà chỉ để làm Truyền Thông. Anh em quân nhân biết đến tôi chỉ vì nhờ báo chí, phát thanh. Tôi thương mến anh em và tận lực làm những gì đem lại niềm Tin Yêu cho những con người ngày đêm phải đối diện với gian nan và cái chết. Tôi đi thăm các đơn vị. Với chiếc áo Dòng, tôi đi khắp nơi: An Lộc, Chương Thiện, Bến Hải... Ở đâu chiếc áo Dòng vẫn được tiếp đón trân trọng. Có lần vừa xuống khỏi trực thăng, các sĩ quan mời tôi theo họ. Sau một hồi, một vị hỏi tôi: Thưa cha ông Đại tá theo cha là ai vậy. “Tôi nhìn lại thì thấy Đại tá đó là “cha Giám đốc nha Tuyên Úy Công Giáo”.

Tại một nơi khác, đang buổi tiếp đón trọng thể, tôi len lỏi vào giữa anh em để lấy hình, lấy tin chứ không ngồi trên khán đài. Một đại diện nói vài lời chào đón phái đoàn và kết luận: “Anh em chúng con chỉ xin cha Giám đốc và phái đoàn cho chúng con được một ơn huệ là được cha Tự Do đến thăm đơn vị chúng con”. Mọi người ngạc nhiên khi biết tôi đang ở đây. Sau buổi nghi thức, anh em quây quần tôi với những cử chỉ và lời nói thân thương. Tôi vẫn thích như thế và các cuộc cung nghinh trọng thể không làm cho tôi “dễ chịu” mấy. Tôi làm lớn không được !

Người Tông Đồ Truyền Thông hoạt động trong một lãnh vực “hư hư thực thực”, đối tượng ở đâu đâu, không có những tiếp xúc nóng ấm trực tiếp với những con người bằng xương bằng thịt, thiếu hẳn những ánh mắt, những nụ cười sống động cùng với những buổi tâm sự thân mật và kết quả trông thấy... Người Tông đồ Truyền Thông lúc nào cũng đối mặt với những máy móc: thu âm, thu hình, nói với ai đó “không chân dung” chẳng biết được họ vui thích thông cảm hay bỉu môi ngoảnh mặt và có lúc còn bực bội vặn nút tắt máy. Ngành Truyền Thông được chê nhiều, khen ít. Khán thính giả luôn là những người xa lạ, mặc dầu trong thời gian phụ trách phát thanh, ngày nào tôi cũng nhận được vài chục bức thư.

Được coi như là phương tiện giải trí, các phương tiện truyên thông Công Giáo thường không được quan tâm lắm và việc đầu tư vào ngành này lại rơi vào hạng thứ yếu. Tôi được nghe nói rằng: các phương tiện máy móc của các Đài Công Giáo được quan tâm nhất như Vatican, Veritas... hầu hết là “đồ cũ”, đã sử dụng từ mấy mươi năm rồi. Tôi có nghe được cảm nghĩ của một vị lãnh đạo tinh thần cao cấp nói: “Tôi không bao giờ nghe Phát thanh Công Giáo vì... không có thì giờ”.

Một kinh nghiệm: thời gian thực hiện chương trình trên Truyền hình, tôi hát bài “Vào Đời” của Thành Tâm. Sau buổi phát hình, chị tôi, Nữ Tu Dòng Mến Thánh Giá Đà Lạt đến gặp tôi. Bà nghiêm nghị nói với tôi: có mấy cha xem truyền hình thấy em hát có đến nói với chị: “Ông cha Do làm Linh Mục chưa đủ sao mà còn muốn làm ca sĩ ”. Sau ít phút trao đổi, tôi chỉ nói với chị: “Xin chị cám ơn các cha đã cho lời khuyên dạy, và xin chị thưa với các ngài rằng: “xin mời cha xem cha Do hát trên truyền hình lần sau”.

Những kinh nghiệm “không vui” trong nghành Tông Đồ Truyền Thông không thiếu, và người Tông Đồ Truyền Thông gặp nhiều khó khăn về mọi mặt, nhất là vào thời mà các phương tiện máy móc còn chưa tân tiến và tiện lợi như ngày nay.

Giáo Hội chưa tận dụng phương tiện truyền thông đại chúng để phục vụ Tin Mừng. Chắc phải đợi hoàn cảnh bị cấm đoán mới hiểu được lý do và sức mạnh của các phương tiện truyền thông đại chúng để truyền bá Chân Lý và Tình Thương Cứu Độ.

6. MỖI QUÂN NHÂN MỘT TÂN ƯỚC

Đây có thể là dịp để tôi nhận thấy sức mạnh của các phương tiện Truyền Thông đại chúng, chương trình được phổ biến trên đài phát thanh, với tiêu chuẩn là 300. 000 cuốn Tân Ước, phỏng theo số người Công Giáo trong quân lực VNCH và mỗi cuốn là 100 đồng Việt Nam. Từng vạn người nhiệt tình hưởng ứng. Có những người góp 300 cuốn và nhiều em bé nhịn quà góp nửa cuốn. Chỉ không đầy 2 năm, số tiền in Tân Ước đã lên gần 8 triệu bạc. Công việc chuẩn bị bản văn được tiến hành.

Thời đó, cuốn Tân Ước của cha Giu-se Nguyễn Thế Thuấn, DCCT, là bản dịch được phổ biến và được yêu thích. Chúng tôi đã xin ngài cho được sửa chữa một số câu văn có vẻ khó hiểu để bản dịch mang tính cách “bình dân” hơn. Ngài đã đồng ý và cùng với cha Giu-se Trần Hữu Thanh, chúng tôi đã có một bản văn mới hy vọng dễ đọc và được sự đồng ý của dịch giả. Công việc sắp chữ được tiến hành tại nhà in Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, 38 Kỳ Đồng. Hằng ngày, tôi phải đọc mấy chục trang bản thảo. Tôi phải thường xuyên thức đêm để sửa bản in sao cho kịp sáng hôm sau trao cho nhà in.

Tôi đã đọc cuốn Tân Ước khoảng 7 lần. Cám ơn Chúa, vì nếu không bị thúc bách bởi công việc đó thì có lẽ cả đời tôi mới chỉ đọc trọn bộ Tân Ước đều đặn chỉ có một lần từ đầu đến cuối lúc ở Nhà Tập. Đồng thời tôi và một số các Linh Mục như cha Phan Phát Huồn, Trần Hữu Thanh, G.B. Nguyễn Văn Vàng..., chúng tôi đã hằng tuần sọan và đọc trên Đài Phát Thanh những bài học hỏi về Kinh Thánh.

Hằng tuần, phòng thu thanh của Nha Tuyên Úy Công Giáo đón tiếp các quân nhân thuộc các đơn vị đến trao đổi về Kinh Thánh, thu thanh buổi gặp gỡ, lựa chọn các đoạn súc tích để làm thành một chương trình sẽ được phát trên Đài. Tại Đài truyền hình quốc gia, Đức Cha Giuse Lê Văn Ấn, Giám Mục đặc trách Tuyên Úy Công Giáo ngỏ lời với quân nhân và những cuộc “đấu tử chiến” về Tân Ước được tổ chúc, trong đó các sĩ quan cấp tá sát kề với các anh em hạ sĩ quan, binh sĩ, trong cuộc so tài “tìm hiểu Tân Ước”.

Không phải hết mọi người đều hưởng ứng và hợp tác. Chiến dịch phải đương đầu với bao khó khăn, nhiều “cám dỗ”. Nhiều lời nói xuyên tạc, nhiều lập trường khác luôn tạo nhũng khó khăn lắm khi khó vượt khỏi: “Người Công Giáo Việt Nam không thể đọc Kinh Thánh được, họ chưa đủ trình độ...; mấy ông DCCT chỉ bày trò” “làm tiền”, ”Họ sẽ in sách nhưng vài ngàn cuốn thôi còn tiền thì...”

Tôi không hiểu được tại sao người ta lại có thể “sáng chế” ra những điều kỳ lạ như thế đến mức mà chỉ nghĩ tới cũng đã phải xấu hổ. Có một số các vị muốn lấy hết số tiền chiến dịch để “mua lại” một số sách Kinh Thánh bằng hình vẽ của một tác giả nào đó. Có những vị không hề phát động chiến dịch trong đơn vị mình. Có mấy Nhà Thờ không cho chúng tôi đến giảng, nói rằng họ tự làm lấy, nhưng không bao giờ chúng tôi nhận được món tiền nào từ đó cả.

Trong những lời phê phán, suy đoán có tính cách “bất đồng nhuốm mầu phá hoại đó”, có những điều xúc phạm đến cá nhân tôi, đến các cha hợp tác và đến cả DCCT, cả tập thể Linh Mục. Đáng lẽ mọi sự đã “xuôi chèo” khi nhiều lần Nha Tuyên Úy Công Giáo “đòi” bộ Tổng Tham Mưu giải ngũ tôi hay ít là đưa tôi đi một đơn vị tác chiến xa Sài-gòn. Đức Cha Giu-se Lê Văn Ấn đã tự tay viết thư cho trung tướng tổng cục trưởng Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị Trần Văn Trung với chỉ thị: “Không được giải ngũ Linh Mục Nguyễn Tụ Do nếu không có sự đồng ý của Giám Mục đặc trách”.

Dò hỏi tại Việt Nam về việc ấn hành, đóng bìa cứng, tôi được một nơi nhận đóng bìa với giá khoảng 100 đồng một cuốn. Tiền in chưa kể, thế thì làm sao hạn chế một cuốn trong 100 đồng. Chúa lại đến trong cha Mario Del Acquista Pace, Dòng Don Bosco. Trong nhiều năm, ngài thường mời tôi giảng cấm phòng cho các học sinh, và tôi đã có liên hệ thường xuyên mật thiết với các Tu Sĩ Salésien, cách riêng với cha Mario. Ngài cũng được biết chiến dịch qua phát thanh và đã sẵn sàng giúp đỡ, không phải bằng tiền bạc, nhưng: “Tại sao cha không in tại Hong Kong, vừa đẹp vừa rẻ. Tôi sắp đi Hong Kong, nếu cha cùng đi, chúng tôi sẽ giúp cha nơi ăn chốn ở và sẽ giới thiệu với cha mấy nhà in”.

Chỉ trong nửa giờ, passeport, visa đuợc hoàn thành, nhờ hộ chiếu ngoại giao do ngoại trưởng Trần Văn Lắm cho làm trong thời gian uống một ly nước cam. Vé máy bay đã được mua trước khi có passeport, và tôi đã lên đường sang Hong Kong với cha Mario. Ngài đưa tôi về trường “Tăng king Po school” tại Kowloon, phòng có máy lạnh, tìm cho tôi một thầy Việt Nam, thầy Hùng, để suốt thời gian hướng dẫn tôi trong thành phố lớn và sinh động này, lúc đó còn thuộc nước Anh. Ngài đưa tôi đến gặp Giám Mục, gặp cha Gabriel de Allegra Linh Mục Dòng Phan Sinh, người đã dịch bộ Kinh Thánh ra tiếng Hoa, tiếp xúc với mấy chủ nhà in, và cuối cùng thì chọn nhà in của ông Fu Yam. Ông này không nói tiếng Anh.

Thầy Hùng vừa phiên dịch vừa cố vấn. Ông đối xử rất thân tình, tạo cho tôi mọi sự dễ dàng trong công viêc, và cuốn Tân Ước được nhận in với giá khoảng 50 đồng một cuốn, bìa PVC có bao bên ngoài sách. Hợp đồng được ký cho đợt đầu 100.000 cuốn. Thật là tốt đẹp. Đây là lần đầu tiên Tân Ước được in đến con số lớn như thế cho Giáo Dân Việt Nam. ( Ảnh chụp: Tại Hong Kong In Tân Ước. Từ trái sang: Thầy Hùng, Lm. Nguyễn Tự Do, áo trắng bỏ ra ngoài là ông YAM, chủ nhà in Manhing Offset Printing Press ).

Cha Phe-ârô Phan Phát Huồn lúc ấy làm phó Giám đốc nha Tuyên Úy Công Giáo đã tổ chức lễ Xuất Phát với phòng triển lãm Thánh Kinh, với bức tượng “Quân nhân và Tân Ước”, và với cuộc lễ trọng thể Xuất Phát. Khoảng 3.000 quân nhân Công Giáo thuộc các đơn vị Bộ Binh, Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động, Không Quân, Hải Quân... đã đến chật trong ngoài Nhà Thờ Đồng Tiến.

Chiến dịch đã thành công lớn, nhưng không trọn vẹn, do một số người có những tư tưởng và suy luận thiếu trung thực và tình thương, đã không biết gạt đi những ác cảm do phân biệt Triều-Dòng, hay chỉ trong phạm vi cá nhân. Tôi nghĩ rằng có lẽ con người của tôi không “ngoại giao đủ”, nguyên tắc quá và không chinh phục được cảm tình và sự hợp tác của người khác. Tôi không thi hành được chính sách: Nhu nhược thắng cang cường, lui một bước để tiến hai bước. Khi cả trăm thùng hàng được xe “lowboy” kéo về trụ sở Dồng Tiến chiếm hẳn cả một căn phòng lớn thì người ta không còn rỉ tai được là “chỉ làm bộ” in vài ngàn cuốn như họ đã từng nói trước đó.

Một thời gian sau, ban Giám đốc lại “tự nhiên” ra chỉ thị phát động lại chiến dịch. Tôi vẫn hợp tác, nhưng công việc đã mất trớn rồi và phát động lại đã chẳng đi đến kết quả cho đến khi tàn lụi. Tôi đã không còn phục vụ tại Nha Tuyên Úy Công Giáo nữa và nhận trách nhiệm Nhà Dòng trao thực hiện việc Tông Đồ Truyền Thông dưới quyền lãnh đạo của Đức Tổng Giám Mục Sài-gòn, Phao-lô Nguyễn Văn Bình.

Trước đó, tôi đã nhận phân phối Tân Ước cho các cha tuyên úy, theo tỷ lệ số quân nhân mà các ngài đã báo cáo. Những người không báo cáo được lãnh 100 cuốn. Tôi đã hành động như thế dựa trên tài liệu báo cáo. Không ai trách móc được.

Nhưng ở đây một lần nữa, tôi lại chạm trán với một số khó khăn do những suy nghĩ hay cách làm của những người phải “phát tặng Tân Ước cho quân nhân”, khi tổ chức các cuộc xuất phát tại địa phương. Một số phiếu “Nhận Tân Ước” được gửi về văn phòng, nói lên niềm vui hiên ngang của họ được có cuốn Tân Ước “của quân nhân”. Tiếc thay, cũng có một số phiếu ghi rõ: đã mua với giá 500 đồng.

Tài liệu triển lãm, trong đó có một bức họa dài khoảng 50m ghi lại lịch trình cứu độ qua Kinh Thánh từ Cựu Ước đến Tân Ước được các cha tuyên úy “mượn” về tổ chức tại địa phương. Thế rồi một ngày kia, nó biến mất.

Bức tượng Quân Nhân Tân Ước, sau 30.4.1975 được sửa lại là Giáo Dân Tân Ước, để cuối cùng khoảng sân trước Nhà Thờ Đồng Tiến bị “xung công” làm nhà máy sấy chuối và bức tượng cũng không còn. Thế nhưng, về sau này, tôi cũng được niềm vui nhận được chứng tá của những người lính đã “dấu” cuốn Tân Ước gọn gàng ấy trong thời gian ở tù tại các trại cải tạo và Lời Chúa đã đem lại niềm vui, tin tưởng cho những anh em trong thử thách. Ý định của Thiên Chúa đã biết từ lâu rằng: Lời Chúa sẽ là sức mạnh cho con cái khi mọi nguồn hy vọng tự nhiên trên cõi đời này đã không có lối thoát qua những năm dài tù đầy chỉ vì hoàn cảnh và không hề có tội, có nợ gì khi đã làm tròn bổn phận của mình.

Sau thời gian tôi bị tai nạn lật xe và bị thương, tôi đã giải ngũ và trao lại phòng thu thanh với máy thu, nhạc cụ và hồ sơ sách hát cho người khác. Chỉ một tuần sau, đến thăm lại phòng thâu thanh, tôi đã chứng kiến nó trở thành phòng của... giám đốc. Thắc mắc của tôi nhận được câu trả lời: “Cha X đã đem hết về nhà ngài”.

Kinh nghiệm này đã cho tôi một nỗi buồn vì không thấy tinh thần nối tiếp trong các công trình xây dựng và tôi đã cố gắng nghĩ phải làm một cái gì bền vững hơn để ngành Truyền Thông Công Giáo có sức mạnh trong việc tiếp tục loan báo Tin Mừng cho đại chúng.

Lm. NGUYỄN TỰ DO, DCCT ( còn tiếp nhiều kỳ )

No comments: