Wednesday 7 September 2005

HỒI KÝ 50 NĂM LINH MỤC - Kỳ 4

NIỀM VUI VĨ ĐẠI - Kỳ 4

HỒI KÝ 50 NĂM LINH MỤC

10. ĐỨC TỔNG GIÁM MỤC PHAO-LÔ NGUYỄN VĂN BÌNH

Nhưng trong những nỗ lực “Tông Đồ Tuyền Thông” của chúng tôi, Chúa ban cho chúng tôi những niềm vui lớn, qua giáo quyền. Tôi không thể quên được Đức Tổng Giám Mục Sài-gòn, Phao-lô Nguyễn Văn Bình. Ngài hằng theo dõi, khích lệ và nâng đỡ chúng tôi.

Vì Nhà Dòng đã trao các hoạt động của tôi cho Đức Tổng Giám Mục, ngài đã tỏ ra rất quan tâm đến công việc. Thỉnh thoảng ngài lại đến thăm, dầu có lúc trời mưa gió – Đức Tổng Giám Mục có việc gì dạy con – Không, tôi đến thăm cha và anh em.

Các công việc tại Trung Tâm ATAS được báo cáo cho Đức Tổng Giám Mục hằng tháng, các chương trình “Phát Thanh Giáo Dục Y Tế” được sự phối hợp với CARITAS của Giáo Phận , thời ấy do Linh Mục Nicolas Huỳnh Văn Nghi điều khiển. Đức Tổng Giám Mục nói với tôi: “Tôi không có tiền để yểm trợ cho cha, nhưng cha cần chữ ký của tôi cho bất cứ việc gì thì cha cứ đến tôi”. Ngài lại đến dự lễ làm phép tượng Đức Mẹ “Nữ Vương Làn Sóng Điện” đặt ở cửa vào Trung Tâm ngày 22.9.1974.

Ngài thường đến tham dự các nghi thức được tổ chức tại Trung Tâm,quan sát toán hoạt động tại các địa điểm quanh Sài-gòn.

Tôi không tìm hiểu ý định của Đức Tổng Giám Mục về Trung Tâm ATAS, do đó tôi không khỏi ngạc nhiên khi ngài bất thần hỏi tôi: “Cha có sẵn lòng trao lại Trung Tâm cho Hội Đồng Giám Mục để sử dụng cho Giáo Hội không ?” Tôi không chút ngần ngại: “Con sẵn sàng, con chỉ xin trả lại tiền đất cho gia đình, vì Trung Tâm sử dụng đất của gia đình em con”.

Biến cố 75 đã một lần nữa cúp cỏ dưới chân tôi và tôi lại vẫn không được “chuyên môn và chính thức phục vụ Giáo Hội trong ngành “Tông Đồ Truyền Thông” như tôi hằng mong ước và quyết tâm từ lâu rồi.

Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình còn đi xa hơn trong lòng thương và tín nhiệm đối với tôi khi “gợi ý” cho tôi lập một “nhóm” để tiếp nối công việc như tôi sẽ kể về sau này. Tôi nhận thấy ngài rất quan tâm đến “Tông đồ Truyền Thông”, không chỉ khuyến khích theo chỉ thị của Tòa Thánh mà thật sự đã làm, đã nghĩ đến những gì phải làm để tận dụng các phương tiện thính thị cho việc loan báo Tin Mừng, điều mà tôi nghĩ chủ quan rằng: Hàng Giám Mục và Linh Mục chưa đặt nặng lắm vì nhiều lý do: chuyên viên, tài chánh, trang bị....

11. KHÂM SỨ TÒA THÁNH HENRI LEMAITRE

Niềm an ủi lớn cũng đến với chúng tôi trong vị Khâm Sứ Tòa Thánh Henri Lemaitre. Vào quãng 1974, tôi ngạc nhiên nhận được giấy mời đến Tòa Khâm Sứ Tòa Thánh tại đường Hai Bà Trưng. Ngạc nhiên là phải, bởi ngài ở cao quá và tôi là gì mà liên hệ, bởi lẽ nữa là mọi công việc của tôi đều được Đức Tổng Giám Mục Sài-gòn “hướng dẫn”. Thắc mắc trước giấy mời này, tôi trình sự việc với Đức Tổng Giám Mục, không biết vì lý do gì mà Tòa Khâm Sứ “quan tâm” đến tôi. Ngài nói là ngài không biết chuyện gì nhưng bảo tôi cứ đi lên gặp Đức Khâm Sứ.

Đúng hẹn, tôi lên Tòa Khâm Sứ và được đưa vào phòng khách với vẻ “trịnh trọng” xứng hợp với một cơ quan ngoại giao của Tòa Thánh. Vị đại diện ân cần tiếp đón tôi. Ngài nói: “Tòa Khâm Sứ Tòa Thánh theo dõi mọi công việc của cha làm và...” Sau một phút hồi hộp đối với tôi, ngài nói tiếp: “Rất cảm phục. Nhưng... có một điều làm cho Tòa Khân sứ thắc mắc vì thế mời cha đến”. Có vẻ gay cấn ! Có gì chẳng xuôi ! Tôi nhanh chóng đưa thuẫn đỡ: “Thưa Đức Khâm Sứ, mọi công việc làm đều được báo cáo đầy đủ cho Đức Tổng Giám Mục Sài-gòn”. Ngài hiểu ngay tâm tư của tôi. Ngài cười và nói: “Cha đừng lo. Tôi biết. Nhưng Tòa Khâm Sứ thắc mắc là: “Tại sao cha làm việc như thế mà không tìm sự giúp đỡ của Tòa Thánh”. Khó mà tả được niềm vui tràn ngập tâm hồn tôi khi nghe lời đó. Tôi sực tỉnh và nhớ đến nhiều điều: Tòa Thánh theo dõi mọi hoạt động và luôn rộng tay khích lệ những người thiện chí và cố gắng nhiệt thành. Tôi cảm thấy được khích lệ và cảm nghiệm được tình thương của Hội Thánh.

Vị đại diện trao cho tôi xem một danh sách dầy đặc những tập thể, cá nhân được sự “trợ giúp” của Tòa Thánh với số tiền Mỹ kim. Tôi hơi giật mình được biết như thế vì không thể ngờ được rằng Tòa Thánh cho nhiều như thế. Cuộc tiếp xúc tràn tình thương khích lệ. Cuối cùng vị Đại diện nói với tôi: “Từ nay, cha cần gì thì đừng ngại trình bầy với Tòa Khâm Sứ”. Tôi chỉ thưa lại: “Chúng con cố gắng làm phần của chúng con, theo khả năng và sẽ trình Đức Khâm Sứ những dự án quan trọng.”

Tôi ra về với niềm vui phấn khởi trước sự chúc lành từ vị Đại diện của Tòa Thánh tại Việt Nam. Mấy tháng sau, tôi lại được một dịp cảm nghiệm được tình thương của Tòa Khâm Sứ. Tôi có liên hệ với mấy hãng phim tại Pháp và Mỹ để mua một số phim đạo, nhưng không biết làm sao để nhận dễ dàng các tài liệu đó. Các cộng tác viên đề nghị: “Sao cha không nhờ Tòa Khâm Sứ Tòa Thánh ?” Thế là tôi xin được gặp Đức Khâm Sứ và được trả lời: “Xin cha cứ đến ngay”. Vị đại diện vừa gặp tôi đã vui vẻ: “Xem nào chúng tôi có thể làm gì cho cha !” Tôi trình bầy kế hoặch nhập cảng Phim về Việt Nam. Vị đại diện ngắt ngang:

- Và cha cần tiền để thanh toán ?

- Thưa Đức Khâm Sứ không ạ.

- Thế thì chúng tôi làm được việc gì ?

- Chúng con xin Tòa Khâm Sứ nhận các phim ấy thay cho chúng con.

Vị đại diện hiểu ngay nhu cầu của tôi, ngài tươi cười nói:

- Cha muốn nhận qua “valise diplomatique”. Đó là điều Tòa Khâm Sứ không làm, nhưng đối với cha thì chúng tôi sẽ làm.

Tôi ra về và không hiểu tại sao Tòa Khâm Sứ Tòa Thánh tại Việt Nam lại có lòng thương đối với một nỗ lực nhỏ bé của chúng tôi như thế. Tôi giữ lại hình ảnh của vị Khâm Sứ Tòa Thánh cuối cùng tại Việt Nam và vị phụ tá của ngài, bởi vì chỉ vài tháng sau 30. 4.1975, các ngài đã “được mời” rời khởi nhiệm sở và trở về Rô-ma. Được biết ngài tiếp tục phục vụ Hội Thánh và mới qua đời năm 2004 gì đó. Liên hệ với ngài còn có Đức Ông Đa Minh Trần Ngọc Thụ, lúc đó làm thư ký tại Tòa Khâm Sứ, sau này về Rô-ma giữ chức thư ký riêng của Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô 2. Tôi đã được gặp ngài tại Roma Tết 2002 và sau đó được tin ngài qua đời.

Qua các sự kiện tôi đã kể ở đây cũng như rải rác trong tập hồi ký này, tôi thấy đường công danh và thành công của tôi thường bị trở ngại, không do con người trong đó có cả những người đáng lẽ phải giúp tôi thì cũng do thời cuộc, chính trị, quân sự thường bất ngờ bổ xuống trên đất nước này là môi trường hoạt động của tôi.

Sau này, khi đã bắt đầu muối tiêu, tôi cũng gặp nhiều khó khăn tương tự. Tôi được mời giảng thuyết tại Đại Học Chính Trị Đà Lạt, tại trường Cao Đẳng Quốc Phòng, trường Cảnh Sát Quốc Gia... Cũng có người anh em tỏ vẻ không mấy vui. Nhưng tôi được khích lệ bởi những anh em phát biểu: “Có người được mời như thế là vinh dự cho hàng Linh Mục, cho Nhà Dòng, cho nha Tuyên Úy Công Giáo...” Tôi cũng chỉ biết cố gắng làm hết sức mình để đạt kết quả tốt nhất. Dầu ở đâu thì tôi cũng vẫn chỉ là người mang Tin Mừng, và dầu nói về vấn đề gì thì người nghe cũng thừa biết rằng: tôi là một Linh Mục. Do đó tôi không tự phụ lên mặt được với ai mà chỉ một lập trường là làm hết sức mình vì Chúa và vì anh em, điều nằm lòng từ những năm ở Đệ Tử, Nhà Tập, Học Viện, qua sự chăm sóc của những vị Giám Đốc, Giám Học mà tôi vô cùng quí trọng và biết ơn: Eugène Larouche, Camille Dubé, Alphonse Tremblay, Thomas Côté, Stêphanô Chân Tín...

Từ lúc vào Đệ Tử, với 10 tuổi và rất... nhà quê, tôi đã nhận được ngọn lửa Thừa sai từ tâm hồn các Giám đốc, giáo sư, và đó là lý tưởng đời tôi, không có gì khác. Thực tế lắm lúc làm lu mờ cái lý tưởng ấy đi, nhưng không xóa bỏ được và trái lại càng in sâu hơn, vì dựa trên xác tín qua khổ đau của cả một cuộc đời.

12. ĐI TÙ

Trung Tâm ATAS nói riêng và công cuộc “Tông Đồ Truyền Thông” đang trên đà tiến triển tốt đẹp và công việc thực hiện chương trình cho Đài “Chân Lý Á Châu – VERITAS ASIA” đã khởi sự, thì biến cố 30.4.1975 đã xẩy đến. Tôi đón nhận sự thay đổi và hết lòng tiếp tục sứ vụ Linh Mục của tôi trong những điều kiện mới.

Tôi đã “ở tù” trong thời gian 5 năm, 5 tháng và 23 ngày. Dầu sao thì đó cũng là một chặng đường của đời tôi, một cuộc “đổi đời” như người ta thường nói, mặc dầu không có gì thay đồi trong chí hướng của tôi. Tôi nhớ ông Nguyễn Mạnh Bảo, kiến trúc sư chuyên nghiên cứu Kinh Dịch, đã được giải thưởng Ngô Đình Diệm vì những nghiên cứu của ông về Kinh Dịch, cuộc nghiên cứu cuối cùng đã đưa ông đến Thiên Chúa. Tôi đã giúp ông học giáo lý. Ông bà đã được Thanh Tẩy vào những năm tháng cuối đời. Ông lấy tên Gio-an Baotixita, bà thích được gọi là Têrêsa. Ông đã xem “số tử vi” của tôi và nói: “Cha thật lạ: người tu hành lại có cốt nhà binh, rồi lại ở tù. Thật khó hiểu !”

Chẳng cần phải xét xa hiểu rộng, thay đổi chính trị ở Miền Nam Việt Nam đã đến thì người sinh vào ngày nào giờ nào cũng đều ở tù ráo”. Đó là chính sách. Các Linh Mục Tuyên Úy nghĩ rằng: các vị Giám Mục sẽ lên tiếng bảo vệ các cha, bởi vì chính các ngài đã sai các cha vào tuyên úy để chỉ lo việc thiêng liêng cho những người Công Giáo thuộc các gia đình có con em, có người vào quân đội tại Miền Nam. Tôi không biết gì về lệnh phải trình diện.

Tình cờ gặp Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình, ngài tỏ vẻ ngạc nhiên vì thấy tôi chưa trình diện “học tập cải tạo”. Ngài nói với tôi: “Cha đi trình diện đi, để sau này nếu có phát thanh Công Giáo thì tôi lại nhờ đến cha”. Ngài còn lạc quan vì chưa biết rõ chủ trương và đường lối của chính quyền cộng sản. Tôi cũng mong như ngài và nghĩ mình còn cơ hội để phục vụ Chân Lý và Tình Thương. Với chiếc áo Dòng, tôi cỡi xe máy đến ngay địa điểm tập trung. Lính chận tôi lại. “Tôi đi trình diện”. Sau một hồi bàn tán, người ta trả lời cho tôi: “Ông trình diện trễ rồi, đợi đợt sau”. Tôi về nhà, lòng khá lo âu. Thế rồi không thấy nói đợt nào nữa, mà có thì tôi cũng không biết.

Tôi tỏ thiện chí, chấp nhận chế độ mới, tìm cách giúp anh em đang hoang mang để họ có việc làm hầu tránh bị đưa đi “kinh tế mới”. Công-ty “Dân Tiến” được thành lập với mục đích sản xuất những nồi nhôm. Tôi không cần biết những người “xã viên” là Công Giáo hay lương. Tôi chỉ muốn giúp mọi người có công ăn việc làm. Công ty tiến triển khả quan, đã bán được một số sản phẩm và khoảng 80 xã viên có việc làm, tiền lương không nhiều, nhưng có việc làm.

Cùng thời gian đó, tôi có nhà nguyện và mỗi ngày mấy chục người đến dự lễ. Tôi tổ chức các buổi họp Cầu nguyện, ca đoàn và sinh hoạt Huynh Đệ, tưởng như thế là yên ổn.

Thế nhưng, ngày 26.9.1976, đang khi tôi dùng bữa sáng, thì CA ập tới. Bộ đội và du kích canh các ngả đường. Lệnh bắt được đọc và tôi bị đưa về CA ở đường Trần Hưng Đạo. Đang khi ấy thì nơi tôi ở bị khám xét kỹ càng. Máy móc, giấy tờ, tài liệu bị tịch thu. Tối hôm đó, có học tập tại phường, đề tài: một tên phản cách mạng vừa bị bắt. Khi gọi tôi ra chụp ảnh, anh cán bộ nói với tôi: “Máy của anh đây này”. Tôi nhìn kỹ thì đúng là chiếc mát chụp hình Topcon của tôi. Anh còn thêm: “Đồ của anh còn nhiều lắm”. Tôi nghĩ đến một cuộc tịch thu lớn hơn trên cả đất nước này. Điển hình: cán bộ đến phòng hỏi: “Ai trong số các anh chuyên về vàng bạc, đăng ký” !

Sau được biết qua một người tù là ngày nào cũng thấy chuyển về từng cần xé vàng “cây”, phải nấu lên làm vàng thỏi. Công việc kéo dài trong nhiều tháng. Tôi biết là các máy móc thu thanh Ampex, các máy dĩa nhạc và vô số dụng cụ âm thanh trong phòng máy, toàn bộ băng thu và bộ Thánh Ca nước ngoài đều bị tịch thu cùng với tất cả album về sinh hoạt, các cuộc hành trình trong đó có cuộc hành trình nước Mỹ... Tôi không tiếc. Vì đã mất nhiều rồi: tiền nhà băng để xây Trung Tâm, sở đất 5.000m2 ở bãi Ô Quắn Vũng Tầu nơi tôi tính xây dựng Trung Tâm Gio-an 23, những gì tôi đã bỏ ra để làm “Nhà Thờ Liên Tôn” tại Vũng Tầu... Tôi chấp nhận mọi sự vì tôi nghĩ rằng: “Đó là Thánh Ý Chúa !”

Tôi được kêu đi “làm việc”. Tôi cứ tưởng đi làm việc là đi lao động, quét tước... Làm việc ở đây tức là đi “lấy cung”. Tại sao tôi ở tù ? Trên lệnh bắt giam có ghi tội trạng của tôi “Phản cách mạng”. Tôi không có một quan niệm gì về “tội lỗi” của tôi. Cán bộ chấp pháp hỏi câu đầu:

- Anh có biết tại sao anh bị bắt không ?

- Không

- Anh có đôi tí tiếng tăm, chúng tôi giữ anh một thời gian. Thôi chúng ta “làm việc”.

Họ hỏi tôi về Fatima Bình Triệu:

- Anh đến hoạt động ở Fatima Bình Triệu.

- Tôi không hề đi đến đó từ cả năm nay.

- Anh không đi nhưng anh sai cán bộ của anh đi !

Sau đó tôi mới biết là có vụ anh Hồ Ngọc Anh, người được chữa khỏi tê liệt. Tôi được biết cha Võ Văn Bộ bị bắt. Chẳng hiểu tại sao tôi lại bị ghép vào vụ này với tội danh “phản cách mạng”. Tôi tạ ơn Chúa và hát bài “Magnificat” trong cảnh xà lim mà lúc đó tôi thấy rõ chẳng có gì là rùng rợn lắm. Thời gian ở Đà Lạt, tôi đã từng ngồi cả buổi trong xà lim để an ủi giúp đỡ những người tù. Có lúc tôi nghĩ mình không đến nỗi gì phải ngồi tù: tôi đã tích cực “lao động” giữa những người lao động, tôi đã nhận được lời mời giữ một mục “Suy niệm Phúc Âm” trong tờ “Công Giáo và Dân Tộc”, nhất là trong quá khứ, tôi đã từng giúp đỡ những người được coi là CS: Phạm Ngọc Thảo, Phạm Ngọc Thu... Ông Phạm Ngọc Thuần chủ nhiệm văn hóa hải ngoại tương đương với cấp bộ trưởng, đã đến gặp tôi và mời tôi về nhà dùng bữa: “có cả Tướng Trần Văn Trà, Phạm Hùng, Võ Văn Kiệt...” Ông nói với tôi: “Vì có mấy ông ấy nên xin cha cho gia đình gọi cha bằng chú cho tiện”. Đồng ý thôi, nhưng tôi nói là thích ăn cơm riêng với gia đình. Tôi đã từng chở những người này trên xe để trốn lánh khi cần, mặc dầu có những bích chương dán đầy đường: “Thưởng 3 triệu đồng cho người cung cấp tin tức...” Khi ở tù, cán bộ CS sau khi biết quá khứ của tôi liên hệ đến Phạm Ngọc Thảo đã hỏi tôi:

- Anh có khai mấy chuyện này cho cán bộ không ?

- Không.

- Anh có giá lắm. Tại sao không khai ?

- Tôi làm vì bác ái Công Giáo mà.

Cuộc đời của tôi, quen những người có quyền thế cũng nhiều. Những cử chỉ quí trọng từ những người có quyền có lực làm ngạc nhiên cho những anh em trong Dòng và người quen biết: một cử chỉ như Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đưa tiễn tôi ra tận xe của tôi, các thượng nghị sĩ tín nhiệm tôi, các sĩ quan cao cấp kính trọng tôi, cậy nhờ tôi. Đại tá Phạm Văn Liễu Tổng Giám Đốc cảnh sát quốc gia có tiếng không thiện cảm với đạo, thiếu tá Đặng Sĩ hằng năm biếu bánh cho tôi vào những dịp lễ Tết.

Trong đạo tôi được biết và dễ dàng lui tới các vị Giám Mục, các Linh Mục nổi tiếng và có thành tích như Hoàng Quỳnh, Mai Ngọc Khuê, Trần Đức Huynh, Nguyễn Quang Lãm... Rõ ràng tôi có những quen biết lớn. Nhưng trong mọi sự tôi vẫn là Linh Mục và tôi thi hành nhiệm vụ thiêng liêng của mình. Tôi không hề dựa trên các quen biết đó để mưu lợi ích cho mình và lúc nào tâm hồn tôi cũng thư thái và không bao giờ thấy mặc cảm vì quyền lực nào. Thái độ và lập trường đó làm cho tôi thoải mái và bình an qua mọi biến chuyển.

Giờ đây, ở tù tôi vẫn là tôi và tôi không tự phụ vì đã có công gì đối với các anh em cộng sản. Không bao giờ tôi thù ghét họ. Họ mãi mãi là anh em tôi, là những người phải được tình thương và sự cứu rỗi của Thiên Chúa. Tôi không bao giờ quên những cán bộ quản giáo ở trại giam Trần Hưng Đạo, Phan Đăng Lưu và Chí Hòa thường rất tốt đối với tôi. Có người tôi còn mãi nhớ tên.

Trong suốt thời gian ở tù, dầu ở với những người trí thức, những người quan trọng như các bộ trưởng, nhân viên tình báo, giáo sư, tiến sĩ, thương gia... hay với những thường phạm... tôi quý trọng mọi người trước mặt Chúa, và tôi chỉ nghĩ đến nhiệm vụ của tôi: mãi mãi là Linh Mục, là chứng tá của Tình Thương của Thiên Chúa. Tôi cố gắng sống bình an, tự trọng không dành dật, không tìm tư lợi. Dầu thăm nuôi không bằng ai, nhưng tôi luôn để một phần cho lại những người không có thăm nuôi. Họ nói với nhau: “Ai không cho chứ ông cha là phải cho rồi”. Tôi chấp nhận thiệt thòi đôi chút để làm chứng cho một cái gì mà tôi biết mà có lẽ họ không biết đủ, nhưng họ phải cảm nhận được một điều gì.

Thỉnh thoảng tôi phải can thiệp với đôi lời vào các câu chuyện hay những phát biểu không đẹp, kể cả những phát biểu sai lầm. Anh Võ Xuân Đình trước làm báo Chính Luận cứ phải can tôi: “Cha cứ mêler vào đó làm gì ?” Tôi tìm mọi dịp để chuyện vãn với anh em về đạo, dâng lễ cầu nguyện, chia sẻ Lời Chúa, hướng lòng về cầu nguyện. Có người xin tôi Rửa Tội cho, tôi khuyến khích học hiểu, dùng thời giờ để cầu nguyện, rồi khi ra ngòai sẽ dễ dàng hơn nếu muốn được Rửa tội. Tôi nghĩ như thế là khôn ngoan hơn cả, mặc dầu tôi cũng được nghe mấy anh em kể là đã đưa nhau vào phòng tắm và cử hành nghi thức Rửa Tội. Tôi đến với những anh “đại bàng”, những người phạm trọng tội, nhất là khi họ lãnh án tử...

Tôi đã có những buổi sinh hoạt “liên tôn”. Công Giáo, Tin Lành, Phật Giáo, Hòa Hảo..., chúng tôi ngồi lại trong một góc phòng, đưa vài miếng bánh ra “làm mồi” và chúng tôi nói về tôn giáo, có lúc đề nghị thinh lặng để mỗi người cầu nguyện. Riêng đối với anh em Tin Lành, chúng tôi đã có những lần gặp gỡ, đọc vài đoạn Kinh Thánh và đọc Kinh Lạy Cha theo cách của mỗi đạo.

Sách Kinh Thánh ư ? Chúa cho chúng tôi có những mảng Kinh Thánh qua những giấy mà y tá dùng để gói thuốc. Biết là nhiều cuốn Kinh Thánh bị xé làm giấy gói thuốc cho người đăng ký bệnh, chúng tôi liền... “lâm bệnh”, được cấp thuốc và cấp luôn cả... Lời Chúa ! Mất đầu mất đuôi, nhưng chúng tôi vô cùng được an vui vì được đọc từng mảng Lời Chúa, chứ không lõm bõm nhớ được vài câu trong Kinh Thánh. Xúc phạm đến Kinh Thánh mà vẫn không gặp biểu tình chống đối, bạo động, cắt đứt bang giao, bị lên án tử hình... như khi có thái độ khinh thị Coran của Hồi Giáo vào những năm tháng vừa qua.

Nói về sách đọc, giấy viết, bút... trong tù, xin đừng nghĩ là người tù được dễ dàng có những thứ ấy. Cấm ngật đấy ! Nếu xét phòng mà khám phá ra ai đó có một mẫu giấy trắng bằng bàn tay thôi hay một mẩu viết chì dài cỡ một đốt ngón tay, thì đương sự cứ việc dọn “một cái ca, một khăn mặt và mặc quần đùi đi vào biệt giam trong 15 ngày”.

Sau này, khi đi tù về, tôi nháng nghe có lời trách xa xôi: “Đi mấy năm mà không gửi về Nhà Dòng được mấy chữ”. Đừng nghĩ rằng vào đó để học hành, để xong chương trình Đại học, để viết... nhật ký. Nhiều bạn tù tìm cách học sinh ngữ. Sách học là những bản chỉ dẫn đi theo các thứ thuốc ngoại quốc. Có người học đến thuộc lòng cả mấy toa thuốc. Tại sao không được như ngày xưa ? Chắc ai cũng hiểu được...

Có người làm thơ, sáng tác bài hát và ghi chép... trong trí. Cha Huyền Linh đã đặt một số bài hát như thế và tôi đã được nghe người ta hát truyền lại cho nhau, như bài: “Nhà Giam ơi, ngươi đã dạy ta, dạy ta bao nhiêu điều ta chưa biết đến, dạy ta bao nhiêu điều ta chưa xác tín...” Khi ở biệt giam ra phòng chung, có mấy anh em tù Công Giáo đã hát tặng tôi bài ấy và tôi cũng cố học thuộc lòng, để nghêu ngao và tự khích lệ mình. Tôi cũng làm thơ và nay còn nhớ bài “Thánh Lễ đời tôi” làm tại trại giam Chí Hòa. Xin chép lại làm kỷ niệm.

THÁNH LỄ ĐỜI TÔI

INTROIBO, tôi sẽ bước tới

Bàn Thánh Đấng gieo vui tuổi xuân tôi.

Tôi say sưa trong niềm vui nồng mới

Chúa Hoan lạc, chính Ngài Gia Nghiệp tôi.

Hoa đèn hương tỏa tràn trong Đền thánh

Khúc hoan ca rộn rã khắp cõi lòng.

Của Lễ tôi: Bánh trắng và Rượu nồng.

Tạ ơn Chúa: TÌNH THƯƠNG NGÀI ĐÃ THẮNG !

Rồi từ đó tôi dâng lễ hằng ngày:

Nơi Thánh Đường nguy nga tràn ánh sáng,

Giữa xóm nghèo tăm tối mấy ai hay,

Nơi núi rừng hay một mình thinh lặng,

Giữa ngày vui hay buổi gặp u buồn,

Lúc thành công cũng như hồi thất bại,

Cả những lúc chán nản muốn bỏ luôn.

Tạ Ơn Chúa: TÌNH THƯƠNG NGÀI TỒN TẠI !

Mấy năm nay, tôi dâng lễ trong tù:

Không hoa đèn, chẳng phẩm phục, nghi thức.

Thánh Đường đây, tù hôi hám âm u.

Tôi vẫn nhớ: Tôi mãi là Linh Mục,

Giữa nhân loại thu gọn bốn bước tường.

Của lễ tôi: cảnh tù đầy gian khổ.

Đáp Tình Thương, tôi dâng trọn yêu thương.

Tạ Ơn Chúa: TÌNH THƯƠNG NGÀI CHẲNG BỎ !

ECCE VENIO ! Này con đây !

Vâng ý Chúa, con hết lòng tuân phục,

Con xin đến, nên lễ tế hằng ngày.

Đã làm người, Ngôi Hai thành Linh Mục.

Là Linh Mục, rập khuôn khổ Ngôi Hai.

Nơi bàn Thánh cả đời con nương tựa.

Lễ Đời tôi: Mến, Thờ, Tạ, van nài:

Tạ Ơn Chúa: TÌNH THƯƠNG ĐÃ CHỌN LỰA.

Thời giờ thì dư thừa, nhưng ngoài những gì trong thể xác của mình thì không có gì cả. Thức uống là nước hơi nóng không đủ ngâm gói mì ăn liền hay khi có cháy thì ngâm vào để nước có mùi “đăng đắng” nhắc nhở đến cà- phê đen rất thèm. Của ăn thì phải làm sao tích trữ được một tháng, toàn là những thứ để lâu được, lắm khi về cuối cùng phảng phất mùi không mấy an toàn. Về cuối tháng, càng phải tiết kiệm nhiều hơn, nhất là thuốc hút đối với những anh em nghiền thuốc. Mà sao không nghiền được khi khói thuốc giúp bay bổng và quên những khổ cực của cuộc đời trong bốn bức tường luôn phải cảnh giác đề phòng và lúc nào cũng... đói.

Vui nhất là khi diêm đã cạn kiệt. Phải khéo tay lắm mói có thể tách một que diêm thành hai ba, cuốn một tí giấy hay ni-lông rồi hô hào anh em chuẩn bị đóm để câu lửa. “Một, hai ba...” Anh em thở phào nếu lửa bén, và ngọn lửa được thông chia cho nhau tạo nên những làn khói trắng trong cảnh âm u của nhà tù. Vui phải biết ! Rồi lại ai nấy về chỗ mình, chờ một lời kêu gọi mới: Lửa !

Tôi không hút thuốc, nhưng tìm cách bện những cái đóm để cho anh em hút thuốc, nhờ những bao giấy có ni- lông mà người nhà dùng gửi đồ tiếp tế cho tôi. Vui thế mà cũng có tiếng xì xào: “Ông cha mua chuộc đấy”.

Tôi nhớ bị báo cáo là “dạy Giáo Lý”, và cán bộ quản giáo quyết định phạt tôi 15 ngày biệt giam. Tôi được đối xử đặc biệt là được đem hết đồ đạc của tôi theo. Biết tôi bị biệt giam anh em nhét vào giỏ của tôi đủ thứ. Tôi quyết định tĩnh tâm 15 ngày. Lúc rảnh rang, ngoài những giờ cầu nguyện, chầu Chúa, lần chuỗi, suy niệm, tôi kiểm tra lại “gia tài” của tôi, và nhận thấy anh em đã cho tôi mấy bao thuốc lá và diêm quẹt. Tôi có sáng kiến đốt thuốc đề làm đèn chầu và để nó đừng tàn lụi, thỉnh thoảng hít một hơi. Trong cảnh cô tịch, ánh lửa, khói và mùi thơm của thuốc thật kỳ diệu. Ở phòng giam tập thể, tôi đâu có được những giờ phút như thế này. Chỉ tiếc là sau có 7 ngày, cán bộ đến mở cửa phòng: “Thôi, anh về phòng đi. Người ta báo cáo nên chúng tôi phải xử lý”. Họ không muốn tôi phải khổ hơn, nhưng tôi rất tiếc vì cuộc tĩnh tâm đã bị rút ngắn lại phần nửa.

Để lần chuỗi, tôi thắt gút những sợi cói. Không biết là bao nhiêu cái chuỗi cói tôi đã làm. Đơn giản thế mà vẫn sợ bị phát giác mỗi khi xét phòng. Mọi biểu tượng tôn giáo đều bị cấm đoán triệt để. Khi bị bắt, tôi có mang một cỗ áo Đức Bà Ca-mê-lô. Người ta tịch thu. Khi chuyển trại, người ta trả lại cho tôi. Để giữ được cỗ áo Đức bà đó, tôi khâu vào áo của tôi, một miếng đàng trước, một miếng đàng sau. Nhưng cái làm cho tôi “quản ngại” hơn hết là một cây Thánh Giá to cỡ các Tu Sĩ DCCT hay các bà soeurs Mến Thánh Giá thường mang. Thánh Giá đó không phải của tôi. Nó được “quẳng” cho tôi bởi một người tù nào đó không biết.

Đang ngồi trong phòng giam tập thể thì “bụp” một cái, một gói gì đó được quẳng vào phòng và có tiếng ở ngoài: “Cha Do”. Người ta trao cho tôi. Mở ra... thì đó là cây Thánh Giá bằng đồng to gần bàn tay. Tôi thầm cầu nguyện: “Lạy Chúa, Chúa đến với con lúc này thật là phiền lắm đấy”. Những anh em, nhất là Công Giáo khuyên tôi nên quẳng ra ngoài vườn: “Bị phát giác thì Chúa sẽ bị xúc phạm và cha phải đi biệt giam kỷ luật là cái chắc”. Tôi tự nhủ: “Linh Mục mà quẳng Chúa ra vườn à ?” Và tôi quyết định giữ lại. Không biết làm sao nhưng phải giữ lại. Tôi khâu tượng vào lưng áo. Mỗi lần có xét phòng, tôi phanh ngực ra và Chúa được an toàn. Mấy lần rồi. Nhưng nguy hiểm quá, ai cũng cảnh cáo tôi. Tôi nghĩ biến Thánh Giá thành cán quạt lá nhờ quấn vải và ni-lông. Chúa phải ẩn mình. Chúa phải chấp nhận như thế nếu Chúa không muốn con quăng Chúa ra vườn rau, hay Chúa bị xúc phạm và con đi biệt giam.

Tôi chầu Chúa suốt ngày, hôn cả lên cái quạt ấy, giống như Nhà Tạm Chúa ẩn náu dưới hình bánh. Ngài phải chung số phận với tôi, tiếp tục là người “tôi tớ” khiêm hạ, ẩn mình vì Tình Thương. Và tôi đã mang bức tượng Chúa chịu nạn đã từng... bị giam với tôi suốt mất năm trời, “Tù giữa những người tù”. Nhưng có lẽ Chúa cũng không cô đơn hơn nơi những nhà tạm trong các Nhà Thờ đóng kín trên khắp thế giới, cách riêng tại Việt Nam vào thời buổi này, vì sợ... kẻ trộm. Thế đấy, Thiên Chúa Tình Thương đến khùng điên vì loài người bạc bẽo.

Tượng Chúa thì sợ mất, áo Đức Bà thì sợ bị tịch thu, nhưng nếu Chúa, Mẹ ở trong tận trái tim tôi, tận đáy linh hồn tôi thì có ai moi móc ra được. Chỉ cần tôi sống sao cho các Ngài sáng tỏ. Tôi phải là bình pha-lê để ai cũng có thể thấy ánh sáng của Ngài xuyên qua. Tôi đã có cuộc sống bình thường trung thực. Có lẽ tôi đã thành công phần nào hay đúng hơn, Chúa đã thành công qua các bề trên và anh em đã tạo cho tôi một tâm hồn Linh Mục, mặc dầu với vô vàn tội lỗi, đã biết thương cảm với người khổ đau, chấp nhận là “tôi tớ”, noi gương Đức Ki-tô đã nhận lấy tất cả sự yếu hèn của con người, trở nên giống con người mọi đàng để con người được nên con của Thiên-Chúa. Rõ ràng làm chứng cho Chúa có những lúc thật khó khăn và đem lại nhiều mất mát. Nhưng tôi chưa bị đẩy vào chọn lựa giữa Chúa và thất tín phản bội.

Một tù nhân ngồi thinh lặng:

- Anh kia làm gì đó ?

- Tôi thiền.

- Không được thiền. Có lệnh cấm cầu nguyện.

Chúa vẫn hiện diện. Linh Mục quần xoọc áo may-ô cũng còn khá hơn Chúa Giê-su trên Thánh Giá.

- Các anh mất quyền công dân rồi, không được thi hành tín ngưỡng.

Tôi giảng kế hoạt của Thiên Chúa khi kể cho những ai muốn nghe những chuyện về tạo Thiên lập địa, về cuộc xuất hành khỏi nô lệ Ai Cập của dân Ít-ra-en, về Mô-sê, Đa-vít...

- Các anh không được mang biểu tượng tôn giáo. Thì tôi mang trong thân xác tôi hình ảnh của Thiên Chúa.

- Anh kia, tại sao anh cười ?

- Thưa cán bộ, tôi đâu có cười.

Niềm vui tận đáy lòng và bình an tỏa sáng trên môi.

Không phải là lúc cầu nguyện bằng lời mà là bằng chính cuộc sống, cầu nguyện bằng đói, bằng khát, bằng nóng bức, bằng tù đầy, bằng thiếu thốn, bằng cả sự mất tự do không được làm việc mình muốn làm, bằng thời giờ xem ra mất trắng để không làm gì cả, “far niente”, bằng chịu đựng mùi hôi tanh... Tôi giảng bằng cách sống bình an, bằng cách không dành dựt chọn lựa khi được phát đồ ăn, bằng việc giúp đỡ anh em khi suốt ngày ngồi vá quần áo cho những người không có đủ quần áo mặc mà rách rưới, bằng cách lặng lẽ đi lau chùi những dơ bẩn rơi vãi khắp nơi do người bị kiết lỵ thải ra... Thế là tôi được niềm vui và bình an.

Trong suốt mấy năm tù, không được viết thư hay gặp mặt, tôi thường phải mặc quần áo rách. Tôi thu hồi những miếng vải còn khá lành lặn người ta bỏ ra chùi nhà để vá vào quần áo của tôi và của những người không có thăm nuôi. Cuối cùng, tôi có một bộ quần áo đủ mầu sắc, miếng này nằm đè lên miếng khác. Không đến trăm mảnh đâu, nhưng cũng cho cảm tưởng như thế.

Tôi không hề trách móc Thiên Chúa hay thời cuộc. Tôi suy nghĩ đơn giản, tôi chỉ là một con chim sẻ. Lắm lúc tôi nhìn những cây cối đung đưa theo gió, những chiếc lá bay ngoài tầm tay và thấy mình thiệt thòi hơn cả những tạo vật vô tri đó. Nhưng nếu một sợi tóc mà Thiên Chúa còn ghi sổ huống chi là con người tôi “đáng gía hơn nhiều con chim sẻ”.

Trong một môi trường hết sức phức tạp, cũng vẫn tồn tại những quan niệm, những ý thức hệ, những chính kiến phe phái đẳng cấp và dân tộc. Trong những phòng tôi ở, có đủ Hàn, Hoa, Cao Mên... Trong nhóm Hoa, có những người là cán bộ Trung Quốc ở Chợ Lớn đã từng làm giao liên giữa Trung Quốc và Cộng Sản Việt Nam, có người thuộc Quốc Dân Đảng, Đài Loan...

Một người tù mới bước vào phòng, cả mấy chục cặp mắt đổ vào người đó. Đối với tôi thì là người Hoa. Nhưng tức khắc anh tù mới bị cô lập. Anh ta là người Quốc Dân Đảng hay Quốc Gia. Anh thiếu thốn mọi sự mà không được những người Hoa khác giúp đỡ gì cả. Cán bộ CS Trung Quốc rỉ tai nhau lệnh cô lập anh ta. Tôi là người thản nhiên chia với anh tù mới vài miếng ăn. Không phải vì anh ta “chống Cộng sản”, nhưng vì anh ta “bị cô lập” và rất túng quẩn. Vì anh ta ghẻ lở, người ta cho nằm cạnh tôi và dĩ nhiên là tôi chẳng có quyền và cũng chẳng có thể phản đối. Quà Chúa trao vậy thôi.

Trong thời gian này, tôi chẳng mấy quan tâm đến ăn uống. Một năm Nhà Nước cho ăn thịt vài lần dịp Tết và lễ 2 tháng 9. Các bạn tù quan tâm đến thùng canh mỗi khi lao động đem đến trước cửa phòng. Thường thì không có gì đáng quan tâm: nước lõng bỏng với vài cọng rau, thường là rau muống mà người tù gọi là “kẽm gai”, vì lá không có bao nhiêu. Nhưng có đôi lần canh có hơi khác, và người ta tươi cười báo cho nhau: “có chất láng”. Niềm vui dễ dãi ! Chấp nhận mọi sự, kể cả khi được thăm nuôi trong giấy có: một con gà quay, mà “gà bây giờ không có đùi”, hay giấy ghi “một ký đường tán”, mà cán bộ đòi phải sửa lại là: “một gói đường tán”, bởi nó đã hao hụt và không ai có giờ đâu mà cân.

Tôi sống mỗi ngày tù với tâm hồn thư thái, bởi đã chấp nhận kết thúc xấu nhất là chết trong tù, không người thân thích, không được yêu thương và sẽ được chôn vùi đâu đó không làm phiền lụy đến ai như những Linh Mục mà tôi đã được nghe nói, như cha Nguyễn Văn Vàng, cha Bản...

Tôi thấy cha Vàng xa xa tại trại giam Phan Đăng Lưu. Từ phòng biệt giam, ngài ra dấu xin tôi giải tội cho ngài, rồi từ đó không biết gì nữa cho đến khi về nhà tôi được biết ngài đã chết ở một trại tù tại miền Bắc. Cha Hoàng Quỳnh ở biệt giam số 1 sở CATP. Được nghe nói: khi diểm danh, không nghe ngài trả lời, cán bộ mở cửa thấy ngài bất động. Ngài được khiêng đi và sau đó thì chết tại trụ sở CA Võ Tánh.

Thế rồi ngày 23.3.1982, tôi được trở về đời sống bình thường – nhưng không bình thường, vì mỗi tuần phải làm báo cáo và trình diện CA. Không bình thường vì từ đó đến nay, tuy được hộ khẩu, được làm giấy chứng minh nhân dân, được đi bỏ phiếu..., tôi vẫn là “công dân bậc hai”, không được chính thức làm mục vụ, tại miền Bắc còn bị cấm không cho đồng tế. Tôi vẫn không thất nghiệp.

Tôi giảng Đại Phúc, giảng từ Bắc chí Nam và làm những gì tôi còn có thể làm được, không hẳn là “được phép làm”, kể cả việc điều khiển các buổi kiệu Đức Mẹ tại La Vang nhờ sự yêu cầu của cha quản nhiệm Dương Đức Toại...

Lm. NGUYỄN TỰ DO, DCCT ( còn tiếp nhiều kỳ )

No comments: