Chương 7
Bên dưới Tin Mừng,
là Đức Giêsu thực
(Bài 62)
Huệ lộc trời cho
là mô-hình hoạt-động
thời Đức Giêsu
Cho đến nay, ta đã rảo
xét vai-trò của các bậc thánh-hiền như ngôn-sứ từng thủ-diễn cách đặc-biệt như
các ông Êlya và Êlisha đã từng làm. Bằng cung-cách đặc-biệt như thế, Đavít cũng được
gộp chung vào với các vị nêu trên, nhờ tài-năng âm-nhạc sẵn có, ông đã làm cho vua
Saul nguôi cơn giận-dữ, như sách Samuel quyển 1 đoạn 16 câu 23, đã có nói:
“Như vậy,
khi Thần-khí
Chúa xuống trên vua Saul,
thì
Đavít cầm đàn gảy.
Bấy giờ
vua Saul nguôi bệnh,
cảm thấy
dễ chịu,
và thần-khí
xấu rời khỏi vua.”
Cùng với văn-chương tư-tế
xuất-hiện vào buổi giao-thời giữa Cựu và Tân-Ước, nay lại thấy đấng chữa lành/trừ
tà và anh-hùng hảo-hán có mặt ở Kinh Sách cũng rất nhiều. Danh-tánh các vị gặp ở
đây, thấy có: tổ-phụ Abraham nhân-hiền được ghi chép ở Nguỵ-thư Sáng Thế
Qumran, cốt chỉnh-sửa một hành-xử với vua quan Ai-Cập, thiếu trung-thực. Vua
Pharaô của Ai-Cập khi xưa nghĩ rằng: sở dĩ bà Sarah được trả tự-do, là để bà được làm vợ của vua, nhưng tổ-phụ Abraham
lại phỉnh/lừa vua mà bảo: “Bà là em gái ông!” Chính vì thế, ông mới thoát cơn dịch-tễ
do thần ô-uế tác-hại. Và, từ đặc-trưng/đặc-thù này, bà Sarah lại đã tạo chỗ đứng
cho riêng bà, thôi.
Thật ra thì, hầu hết các
vua/quan trong triều cùng thành-viên nam-giới có mặt vào thời của ông, đều đã lâm
bệnh và ra như người bất-lực suốt hai năm trường không có đấng chữa lành nào ra
tay cứu vớt, như Nguỵ Thư Sáng Thế đã viết:
“Là
Pharaô,
ông gửi
tất cả các nhà hiền-triết Ai-cập,
tất cả pháp-sư
và đấng chữa lành của Ai-cập
có khả-năng
chữa cho ông
và người
của ông thoát khỏi cơn dịch hoành-hành.
Nhưng,
không một đấng chữa lành, hoặc pháp-sư
cùng bậc
thánh-hiền nào được ở lại chữa-trị cho ông,
vì thần
ô-uế đã tác hại mọi người, rồi bỏ đi.”
(X. 1QapGen. 20:
18-21)
Cuối cùng thì, vua Pharaô
Ai-Cập lại đã ngây-thơ khám-phá ra lý-do khiến ông rối-bời, nên ông gọi tổ-phụ Abraham
đến và yêu-cầu tổ-phụ hãy tỏ ra lương-thiện với ông. Và, Abraham đã làm thế để ông
vui. Việc này, Nguỵ-thư Sáng Thế Qumran lại cũng thêm đôi chi-tiết đã xác-chứng
rằng:
“Thế
nên,
tôi đã
nguyện-cầu …
đặt tay
lên đầu ông
và mọi
tai-hoạ xuất khỏi
và thần
ô-uế bị tống-khứ ra ngoài,
nên ông
được sống.”
(X. 1QapGen. 20:
28-29)
Chữa lành tật/bệnh bằng
phương-pháp đặt tay lên người bệnh, là một phần của việc chữa-trị, đồng thời là
động-tác được Đức Giêsu và môn-đệ Ngài thực hiện hầu trừ-khử đám tà-ma/quỉ-quái,
như sách Công Vụ đoạn 28 câu 8, cũng đã ghi như sau:
“Có đấng
thân-sinh ra Púpliô
đang liệt
giường vì bị sốt và kiết lỵ.
Ông
Phaolô vào thăm cầu nguyện,
đặt tay
lên ông rồi chữa khỏi.”
Sau Abraham, lại đến
Môsê. Sử-gia Do-thái-giáo người Hy-Lạp là Artapanus
sống vào thế-kỷ thứ hai trước Công-nguyên, đã mô-tả: ông chính là người phục-hồi
sinh-lực cho Pharaô sau khi vua này ngã bệnh, không tồn-tại được bao lâu. (X.
Eusêbiô trong Preparatio evangelica 9:
29, 24-25).
Tựa hồ trường-hợp của
Đavít, có danh-sách gồm các bài thơ do ông đặt, tìm gặp ở Qumran, qui về 4 bài
tụng-ca do ông soạn-tác có âm-nhạc phụ-hoạ cốt để chữa-trị những người bị thần
ô-uế hãm-hại. (X. 11Q5, 27).
Cuối cùng, lại có đấng
chữa lành/trừ-tà như ngôn-sứ Đaniel được kể nhiều vào thời sau, đã được bảo, là:
lời cầu của Nabôniđô (4Q242) ghi ở Cảo Bản Biển Chết là vua/quan cuối cùng
của Babylon, do bởi ông ta được tha hết mọi lỗi/tội mình phạm phải. Bởi thế nên,
ông đã được gột sạch mọi mụn ghẻ từng khiến ông đau đớn suốt 7 năm dài mãi không
hết. Tóm lại, “chữa lành/trừ tà” là đặc-trưng/đặc-thù xuất-hiện ở môi-trường Do-thái-giáo
từ buổi giao-thời giữa Cựu và Tân-Ước.
Tất cả các sự việc ghi
ở Kinh Sách hoặc thời hậu thánh-kinh, đều được minh-họa theo cách thuận-lợi để
mọi người biết rằng: Đức Giêsu là người thực. Tuy thế, các yếu-tố nói đây, vẫn
tồn-tại về mặt thuyết-lý lại không tạo một hỗ-trợ nào dù nhiều/dù ít, từ các
nhân-vật đương thời, để nhờ đó ta có thể sử-dụng hầu so-sánh với trường-hợp Đức
Giêsu.
Hai nhân-vật hàng đầu,
một thuộc thế-kỷ thứ nhất trước Công-nguyên; còn vị kia thuộc thế-kỷ thứ nhất
sau Công nguyên, được biết nhiều qua văn-chương tư-tế. Nhưng, truyện kể về các
vị xuất-hiện vào thời sớm sủa hơn thế, đã được sử-sách ghi chép rõ-ràng hơn mọi
thứ. Nghiên-cứu kỹ, ta thấy điểm tương-đồng có ở tài thu-hút quần-chúng và cả các
khác-biệt tạo cho Đức Giêsu đặc-tính tư riêng, của chính Ngài.
Trước hết, ta cũng nên
xét qua truyện kể liên-quan đến ông Hôni
(còn gọi là Hônias) tức: một người chuyên vẽ những đường vòng
tròn-trịa cùng với hai người cháu nội của ông liên-quan kết-hợp với Hanina ben Dosa. Và sau đó, ta sẽ thẩm-định
thêm để biết rõ: làm sao mà hai vị nói đây lại được sử-gia Josephus cũng như văn-chương tư-tế ghi rõ trong cổ sử.
Một trong hai vị, là Hôni được định-danh là người đầu tiên có
mặt ở hiện-trường. Dù ông có biệt-hiệu là “Người vẽ đường vòng tròn-trịa” gợi kỹ-năng
kỳ-ảo mà ông giữ được mãi biệt-danh này ở sách Mishnah và Talmud của
Do-thái-giáo. Ông được sủng-ái/phụng-thờ như bậc thánh-hiền gọi là Hasid, tức: đấng gần-cận Thiên-Chúa đến
độ lời cầu của ông chứng-tỏ kỹ-năng siêu-phàm đầy “phép lạ”.
Bởi thế nên, những ai
cần được giúp đều chạy tới yêu-cầu ông, đặc-biệt là vào thời hạn-hán lúc có lo
sợ mọi vụ mùa đều thất-thu và nạn đói đe-dọa khắp nơi, rất thảm-khốc.
Trước khi đi vào
chi-tiết, tưởng cũng nên làm sáng-tỏ một số điểm, bằng việc sử-dụng các đoạn
văn mô-tả hình-ảnh hai vị có ghi ở sách Mishnah
và Talmud của Do-thái-giáo. Nói cách
khác, ta cần nhấn mạnh nhận-thức rõ yếu-tố thời-gian, tức: các nguồn văn đây đều
ghi chú tháng ngày muộn màng hơn ngày tháng thực-tế, đến vài thế-kỷ.
Cũng vì thế, nên ta sẽ
không biện-bạch gì nhiều, mà chỉ nên theo-dõi loại-hình nào giúp ta kiểm-chứng
mọi thời-đại kể từ giai-đoạn ngôn-sứ, đến thời của tư-tế. Một số học-giả Tân Ước
lại tỏ ra lúng-túng khi so-sánh Đức Giêsu với Hasidim là Đấng có tài cuốn hút chúng-dân, đã không tranh-luận chuyện
các vị được coi như đấng tạo “phép lạ”. Các vị, lâu nay, chỉ đưa ra lời thỉnh-nguyện
dâng lên Chúa và lời nguyện-cầu của ngài được khấng nhậm lời, ngay lúc đó.
Việc phản-đối ở đây cho
thấy: tư-tưởng thần-học kiểu Tây phương lâu nay tiêu-biểu đã tiến-triển cũng
khá nhiều. Các bản-văn viết về Do-thái-giáo, một lần nữa, lại gán ghép từ-vựng
“phép lạ” cả vào với Hasid nữa. Khi Hanan, cháu nội của Hônias được phép kêu gào: “Lạy
Cha! Cha ơi, Cha hãy ban ơn lành đổ xuống trên chúng con nhiều cơn mưa rào đầy
nước...”, thì rõ-ràng là con cháu ông lại không tiết lộ những lời như :
“Hãy xin
Chúa lắng nghe lời ngài,
mà ban
cho chúng con cơn mưa rào cần thiết.”
Với những người như
thế, “cơn mưa rào” nói ở đây, không
do Hasid đem đến, mà chỉ như trường-hợp
ngôn-sứ Êlya nói ở sách Các Vua quyển 1 đoạn 17 câu 1, những câu sau:
“Ông
Êlya, người Títbe,
trong số
sắc-dân ngụ-cư tại Galát,
có nói
với vua Akháp rằng:
"Có
Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của Israel,
Đấng
tôi phục vụ:
trong
những tháng ngày sắp tới, sẽ chẳng có mưa rào,
hoặc có
sương gì hết, nếu tôi không ra lệnh."
Trở về với Hônias, có giai-thoại kể về ông trong
sách Mishnah đã mô-tả ông như một đứa trẻ hư-đốn, nhưng ông lại có chỗ đứng trong đầu
những người nhiều kiến-thức vốn hiểu rằng: ông có thể đạt bất cứ thứ gì ông xin
Cha trên trời phú ban cho riêng ông.
Khi “người vẽ đường vòng
tròn-trịa” được mọi người yêu-cầu là:
“Ngài
hãy xin cho trời mưa tuôn đổ”,
thì ông trả lời:
“Các
ngươi hãy ra đi, và đem về đây
lò nướng
bằng đất nung dành cho Lễ Vượt Qua
một lò bằng
đất đỏ không mềm rục”.
Ông đã cầu và cũng xin,
nhưng không thấy trận mưa nào đổ xuống trên đầu chúng dân, hết. Làm sao lại như
thế được? Ông bèn vẽ “đường vòng cung tròn trịa” rồi nhảy tọt vào trong đó và
thưa cùng Chúa:
“Lạy Chúa là Đức Chúa của muôn thọ-tạo.
Con cái
Ngài, chạy đến với con đây, hôm nay,
vì
trông con giống người con cùng một nhà,
trước mặt
Ngài.
Con thề
trước Danh Thánh Ngài rằng:
Con sẽ
không rời khỏi nơi đây
đến khi
nào Ngài đổ ơn lành tình thương
xuống với
đàn con đông-đảo của Ngài.”
Và khi ấy, có giọt
mưa rơi xuống. Ông lại thưa tiếp:
“Con đây, đâu xin chỉ mỗi thế,
nhưng là
mưa rào đầy nước,
sẽ đổ tràn
muôn ơn xuống bể chứa
cùng hầm
hố, hốc đá.”
Nói vừa xong, trời
cao bèn phát ra những tiếng nổ rền từ đám mây đen vần vũ. Nhưng, ông lại thưa
cùng Đức Chúa những câu như:
“Con
đây không xin điều này,
mà là
mưa nguồn thiện-chí, phúc lành, cùng ân-huệ.”
Thế rồi, từ chốn trời
cao tít ấy, lại cứ thấy mưa tuôn xối-xả mãi đến khi người Do-thái-giáo nhanh
chân chạy khỏi thành Giêrusalem mãi cho đến Núi thánh, có Đền thờ mới thôi. Và
cuối cùng, họ chạy đến chỗ ông đứng rồi bảo:
“Nhờ lời
cầu mưa tuôn nước đổ tràn lênh-láng,
nay xin
ngài cầu Trời cho mưa mùa chấm dứt!”
(X. mTaaanit 3: 8)
Để qua một bên, các
ý-tưởng đầy mai-mỉa, điều thấy rõ ở đây, là câu truyện làm người nghe nhớ lại động-thái
tương-tự do ngôn-sứ Êlya từng can-thiệp khiến mưa tuôn/nước đổ tràn xuống mọi
miền đất khô-cằn, rồi chấm-dứt ở núi Carmel.
Sách Mishnah không kể cho ta biết câu
chuyện Hônias người từng sống thời nào
hoặc từ nơi nào đến, dù ta có suy nghĩ rất kỹ các sự-kiện ở trên có xảy đến quanh
Lễ Vượt Qua, hay không. Và địa điểm xảy ra hôm ấy, lại là thành-đô Giêrusalem có
Đền thờ thánh-thiêng, đúng vào thời mà tất cả mọi người Do-thái-giáo đều chứng-kiến.
Cũng may, sử-gia Josephus đã kịp ra tay giúp đỡ, khi ông kể
sơ về thời-kỳ qua đó các anh-hùng hảo-hán từng làm mưa/làm gió cho dân thành đây,
để rồi ông lại đưa ra khẳng-định về các anh-hùng lịch-sử trong bối-cảnh
Do-thái-giáo.
Thật ra thì, sử-gia Josephus không có ý chê-bai cũng chẳng
ngưỡng-mộ tài-cáng của các vị nói ở đây. Ông chỉ kể truyện với lòng kính-cẩn, mà
thôi. Sự-kiện này, xảy đến vào lúc có bất-ổn chính-trị ở Giêrusalem, qua đó thượng-tế
Aristôbulô II bị quân-binh La Mã do
em ông là Hyrcanô II và đồng-minh của
ông là vua người Nabatêan có tên là Arêtas III vây hãm tại Đền Thờ vào dịp lễ
Vượt Qua, chừng như vào độ tháng Tư năm 65 trước Công nguyên. Đó là tường-trình
từ sử-gia Josephus.
“Nay,
có vị nọ cùng tên Onias (Onias là
phiên-âm từ tiếng Hy-Lạp để chỉ Hônias),
là người công-chính được Đức Chúa đoái thương, đã từng một lần vào thời khô
cháy đến tuyệt-vọng, nguyện cầu Chúa chấm-dứt cảnh khô-cằn cháy bỏng. Và, Đức
Chúa đã thương nghe tiếng ông kêu cầu khẩn-khoản và Ngài đã ban cơn mưa rào nặng
hột cho dân-gian trong vùng. Ông bèn nấp mình chạy trốn khi thấy xảy ra cuộc nội-chiến
tàn-phá đất nước, nhưng ông được đưa đến doanh-trại của người Do-thái-giáo và
được yêu-cầu đem tai-ương đến cho Aristobulus
cùng đám dân quân cách-mạng của ông này, tựa hồ như ông từng cầu Chúa chấm-dứt
nạn hạn-hán, khô cháy.
Tuy thế, bất chấp mọi
khước-từ cùng bác bỏ, ông vẫn bị chúng dân bắt phải lên tiếng, thế nên ông bèn
đứng giữa đám đông và nói:
“Thân lạy
Chúa, là Vua Cha của vũ-trụ,
do những
người đứng cạnh con là thần-dân Ngài,
và những
vị đang bị vây hãm là tư-tế của Ngài,
Con khẩn-khoản
xin Ngài đừng nghe lời họ
mà nổi giận
chống lại những người này,
cũng xin
Ngài đừng nhậm lời ban ơn lành cho kẻ nào khác hết.”
Và khi ông ta đã nguyện-cầu
theo cung-cách của kẻ hung-ác, nên những người Do-thái-giáo đứng quanh đã ném
đá cho ông chết”. (X. Antique 14:
22-24)
Giả như ta gom gộp các
mảng thông-tin rút từ sách Mishnah và/hoặc
Josephus chung thành một mối, ta lại thấy
xuất-hiện một người nổi tiếng từng làm “phép lạ” khiến cho mưa tuôn/nước đổ hoặc
đã xác-chứng lời nguyện-cầu có hiệu-quả không ngừng, ông đã bị phe của Hyrcanus tìm cách lợi-dụng nỗ-lực do ông
tạo, để đánh bại Aristobulus.
Tuy là thế, Hônias lại muốn dùng trò chơi khăm do
ông tạo, và vào lúc ông bị buộc phải nói điều gì với Thiên-Chúa, ông lại khước-từ
không theo phe nào hết. Và cũng chính ông đành phế-bỏ mạng sống của mình vì đã hành-động
một cách quả-cảm.
Về sau, Josephus không thêm về Hônias, nhưng văn-chương tư-tế thời sau
này, lại cũng nói đến ông như người sáng-lập triều-đại gồm những người làm chuyện
tuyệt-vời, không kể xiết.
Như tôi có lần bàn đến,
chẳng người nào trực-tiếp nói về địa-dư nơi chốn gia-đình này xuất-xứ, nhưng có
giai-thoại kết-hợp người cháu nội là Abba
Hilkiah đính-kèm ở đâu đó với “Hasid là
người từ Kefar Imi”, một thôn làng gồm
các nhân-vật được tả là có bối-cảnh của đất miền Galilê ở sách Talmud của Palestin (X. yTaanit 64b). Hai người cháu nội của Hônias lại cũng nổi-danh là người có tài
khiến làm cho mưa tuôn/nước đổ; nhưng có chút khác-biệt ở chỗ: các vị được kể ở
đây, cũng nhu-mì, lành-thánh và khiêm-hạ chứ không như “ông nội” của hai người cháu
nói đây, vì ông nội vốn tính bẳn-gắt/cáu kỉnh hơn ai hết.
Như có nhắc đến tên ông
một đôi lần, Abba Hilkiah được tả là người
lao-động khá túng-thiếu, nhưng tự thâm-tâm đầy khiêm-hạ, ông định chối rằng ông
chẳng làm gì nên hồn để có thể tạo cơn mưa nguồn nào hết. Nguồn nước ấy, đến từ
Thiên-Chúa hoặc có thể do lời yêu-cầu của vợ ông, mà thôi. Tuy nhiên, đoàn người
do các tư-tế gửi đến, lại không thể mang đặc-tính xấu xa được, nên họ mới bảo rằng:
“Chúng
tôi biết rất rõ cơn mưa này đổ xuống
là do lời
ngài thỉnh-cầu.” (bTaanit
23ab)
Người cháu nội thứ
hai mang tên Hanan “Kẻ Giấu Mặt”, gọi
thế là vì ông có tính biết tự ẩn mình, không trường mặt ra bên ngoài. Vào lúc trời
khô hạn, các tư-tế đã khích-lệ con cháu biết giựt gấu áo ông giữa “thanh thiên
bạch nhật” mà năn-nỉ bằng lời cầu như sau:
“Cha
ơi! Lạy Cha!
Xin ban
cho chúng con
cơn mưa
rào nhiều nước, đi cha!”
Nghe xin thế, ông bèn
quay người về phía Đức Chúa mà dâng lời cầu, rằng:
“Lạy Đức
Chúa của muôn loài,
xin
Ngài hãy làm điều này
nhân
danh những người không phân-biệt được
Vị Cha
là đấng ban ơn mưa-móc
với người
cha thường là Hanan đây
không có
khả-năng làm cho mưa rơi nước đổ…” (bTaanit 23b).
Cả Hanan lẫn em họ ông là Hilkiah, đã sống theo cung-cách khác với
ông nội Hônias như để tạo cung-cách tiêu-biểu
của nhóm Hasiđim, đặc-biệt là những vị
sống sốt-sắng, đầy sủng-mộ.
Trước khi về với Hanina ben Dosa, để nêu ví-dụ cụ-thể về những
người Do-thái-giáo của Thiên-Chúa, thiết-tưởng ta cũng nên sử-dụng nguồn văn
tư-tế mà phác-hoạ chân-dung các vị mộ-đạo thời xưa. Cộng thêm vào tính
khiêm-nhu như các câu tục-ngữ và tự-vựng nào không mang tính phàm-trần, thì:
nghèo là đặc-tính cố-hữu của những người như thế. Các vị này sống đạm-bạc, ít
khi nào đủ của ăn thức uống, hết.
Riêng Hilkiah lại không có khả-năng mời các khách
đến thăm ông ở lại dùng bữa với ông, thực-chất là vì ông chỉ còn mỗi mẩu bánh nhỏ
trong nhà làm lương-thực một ngày (x. bTaanit 23b). Và, khẩu-phần hàng tuần của
Hanina cũng chỉ gồm mỗi miếng thịt nướng
kebab nhỏ tương-đương với 1,2 lít đậu
ván ở Địa Trung Hải, là bữa “ghém” của những người sống cảnh nghèo-khó như ông
(X. bTaanit 24b).
Và khi ấy, lại có lời
đồn rằng: ông không đủ bánh ăn cả vào ngày Sabát nữa (x. bTaanit 24b-25a).
Gia-đình Hasiđim sống xa-cách, không sở
hữu thứ gì ở dưới thế này nhưng gia-đình ông vẫn sẵn-sàng sẻ san những gì mình có
cho người khác.
Triết-thuyết mà các vị
này áp-dụng để sống, đơn-giản chỉ thế này: “Những
gì của tôi là của anh/chị, và những gì của anh/chị là của anh/chị.” (mAbot
5:10) Các vị đây, còn đánh giá lòng sủng-mộ cao hơn nghi-lễ bề ngoài (bBerakhot
33a). Và, một người trong nhóm là Hasid Người
Galilê hồi thế-kỷ thứ hai sau Công-nguyên, là tư-tế Pinhas ben Yair từng ca-tụng việc kiêng ăn nằm xác-thịt là đặc-tính
của người Hasid (X. mSotah 9: 15).
Nhưng, trên hết mọi sự,
người Hasid lại nổi-danh về kinh-nguyện
và lời cầu của họ được coi như sức mạnh tuyệt vời có khả-năng thực-hiện phép lạ;
và từ đó bộc-lộ tính gần cận Thiên-Chúa là Cha trên trời, vẫn từng bảo:
“Nhóm
Hasidim xua vẫn có thói quen ngừng nghỉ độ một tiếng
trước
khi đọc kinh/cầu nguyện đến 18 buổi chầu Phép lành, nâng lòng mình lên Cha trên
trời. Giả như có vua quan nào chợt đến chào hỏi, ông cũng không dám đáp trả bằng
lời chúc phúc nào hết, bằng không sẽ có con rắn ở gần đó cắn vào bắp chân ông.
Và như thế, sẽ làm gián-đoạn lời ông cầu xin.” (mBerakhot 5:1).
Phần lớn các điểm son
của nhóm người này, được dùng để vẽ lên chân-dung Đức Giêsu ở Tin Mừng Nhất Lãm.
Đặc-biệt hơn cả, là sự vắng bóng ưu-tư về nhu-cầu hằng ngày, về các bận-tâm rút
rỉa người giàu, và cả đến mối lo có chốn tựa đầu cùng xác-tín rằng: niềm tin-tưởng
làm được phép lạ, như Tin Mừng Mátthêu đoạn 21 câu 21 và Tin Mừng Máccô đoạn 11
câu 23 vẫn còn chép:
“Thầy bảo
thật anh em,
nếu anh
em tin và không chút nghi nan,
thì chẳng
những anh em làm được điều Thầy vừa làm cho cây vả,
mà hơn
nữa, anh em có bảo núi này:
"Dời
chỗ đi, nhào xuống biển!",
thì sự
việc sẽ xảy ra như thế.”
Hoặc Tin Mừng Máccô lại
cũng nói:
“Thầy bảo
thật anh em: nếu có ai nói với núi này:
Hãy dời
chỗ đi, và nhào xuống biển!,
mà
trong lòng chẳng nghi nan,
nhưng
tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra,
thì sẽ
được như ý.”
Hanina
ben Dosa, là người Galilê sống vào thế-kỷ đầu đời,
và cũng có thể là người đồng thời trẻ tuổi hơn Đức Giêsu, đến từ thôn làng Araba hoặc Gabara, cách xa mạn Bắc
Nadarét chừng 12 dặm. Theo văn-chương tư-tế, ông là người sống vào độ trước thập-niên
70 kết-hợp với Yôhanan ben zakkai, là
người được định-vị ở cùng làng trước lúc có cuộc chiến của người Do-thái chống La Mã từ năm
66-70 sau Công nguyên.
Theo nguồn văn tư-tế
có rất sớm, ông được mô-tả là người sốt-sắng/mộ-đạo mà thôi, nhưng là người
lành-thánh giống như Hônias và các
cháu nội của ông này, tức: những người có khả-năng tạo mưa tuôn/nước đổ; và sau
đó, lại có thể làm mưa ngưng. Nhưng, ông là người hạnh-đạo đến độ đã trở-thành
đấng chữa-lành nổi tiếng và là bậc thày có quyền trên cả tà ma/quỷ quái nữa.
Nói tóm lại, ông là đấng
bậc làm nên chuyện diệu-kỳ đáng kể nhất trong giới tư-tế Do-thái-giáo. Và khi
ông quá vãng, cái chết của ông lại đánh dấu một kết-đoạn thời-đại của “những
người lành thánh” (X. mSotah 9:15), nhưng ông được mọi người nhớ đến như tác-giả
một số các giáo-huấn luân-lý tuy không nhiều. Muốn hiểu được cụm-từ “con người
chuyên hành-xử”, ta cũng nên nhớ rằng các phép lạ Đức Giêsu làm, lại cũng được
coi là “hành-xử” như Tin Mừng Luca đoạn
24 câu 19 và Mátthêu đoạn 11 câu 20, viết như sau:
“Đức
Giêsu hỏi:
"Chuyện
gì vậy?"
Họ
thưa: "Chuyện ông Giêsu Nadarét.
Ngài là
ngôn-sứ đầy uy-thế trong việc làm
cũng
như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân.”
Hoặc, Tin Mừng Mátthêu
có những câu sau đây:
“Bấy giờ
Ngài bắt đầu quở trách các thành
đã chứng
kiến phần lớn phép lạ Ngài làm mà không sám hối.”
Hoặc, sách Công vụ đoạn
2 câu 22 cũng từng viết:
“Thưa đồng
bào Israel,
xin
nghe những lời sau đây.
Đức
Giêsu Nadarét,
là người
đã được Thiên Chúa phái đến với anh em.
Và để
chứng thực sứ mệnh của Ngài,
Thiên
Chúa đã cho Ngài làm những phép mầu,
điềm
thiêng và dấu lạ giữa anh em.
Chính
anh em biết điều đó.”
Tiếng-tăm của Hanina, trước nhất đặt căn-bản trên việc chữa lành thu hút mọi người do
ông thực-hiện. Điều này, ban đầu do gia-quyến người bệnh yêu-cầu và ông cũng có
thể chữa lành tật/bệnh từ xa nữa. Lời ông xin, không đơn-giản chỉ là lời kêu cầu
cùng Chúa, nhưng có hiệu-lực tức thời, như sách Nguỵ Thư Sáng Thế đã có ghi:
“Giả
như lời cầu vẫn trôi chảy nơi miệng tôi,
Tôi biết
rằng người bệnh đây
đã được
nhậm lời.”
(mBerakhot 5: 1)
(còn
tiếp)
Gs Geza
Vermes biên-soạn
Mai Tá lược-dịch.
No comments:
Post a Comment