Tuesday 24 April 2012

Lm Nguyễn Thế Thuấn CSsR: Sách Thánh và Mặc Khải Cứu Rỗi:


Ví dụ “Người Con Hoang Đàng” (tiếp theo)

Lc 15: 11-32: về “tình Phụ tử”
Câu 12/ Chiếu theo Tl 21: 17 thì con trưởng được lĩnh gấp đôi phần của mỗi người (đây 2 đứa con, thì gia tài chia 3 phần, con cả 2 phần, con út 1 phần). Chuyển gia tài hoặc bằng chúc thư, hoặc khi cha còn sống thì bằng “tặng vật”. Nếu là tặng vật thì: con được ngay quyền sở hữu, của là của nó, nhưng nó chỉ được hoàn toàn khi cha nó chết. Bởi là của nó, nên cha không còn được quyền bán đổi nữa, nhưng con cũng không có quyền xử dụng như ý (nếu nó bán, người mua chỉ hoàn toàn chiếm hữu khi cha nó chếất), còn cha còn được quyền hưởng hoa lợi. Bởi đó, mới hiểu câu 31 được: con cả là người có quyền sở hữu độc nhất sau này, nhưng câu 22t và 29: cha vẫn xử dụng như ý: nó tuyên bố đoạn tuyệt với gia đình để sống một mình.

Câu 13/ Nó bán đi cả để lấy tiền xuất ngoại. Kinh tế Phalệtin thời đó không đủ nuôi sống dân trong vùng. Việc đi xa làm ăn là thường. Vào thời Chúa Yêsu, sau khi đền thờ cất xong, có đến 18 ngàn người thất nghiệp.

Đối với thính giả thì họ cho con thứ có tội ở chỗ nào? Có thể ngay việc bỏ cha ra đi – mà cũng có thể nơi việc dùng của mồ hôi nước mắt của cha mà ăn tiêu trác táng.

Câu 14/ Những bước đi truỵ lạc và sa đoạ.

Câu 15/ Nuôi heo là nghề “tội lỗi”, chỉ có dân ngoại mới làm, nên ông chủ đây là một người ngoại. Chăn heo một nhờm tởm đối với Do thái (Talmud Babylon: người chăn heo là một đồ chúc dữ). Tình cảnh nói cho thính giả bước đường cùng sa đoạ và uế tạp, nó đã bị cắt đứt khỏi cộng đoàn Dân Thiên Chúa chọn.

Câu 16/ Thế cũng chưa hết. Về tâm hồn và ước nguyện, nó đã thấu chỗ bên dưới loài người: nó ước ao sao có thể hết cảm thấy nhờm tởm để mà ăn đồ heo ăn được. Đây là thứ cây người ta dùng quả làm đồ nuôi heo (giống như muồng muồng, có khi đến 12 thước cao). Câu này phải hiểu là ước nguyện: thấy heo ăn ngon lành thứ đó, mà nó bắt thèm: phải chi mình cũng nuốt trôi được các thứ đó cho đỡ đói.
            Câu 16b: phải coi như câu tự lập, gần như lý do cho việc ước muốn của nó. Nếu không ai cho ăn, thì thường nó phải ăn trộm mới có gì ăn. Như vậy tình trạng của nó là: ở ngoài trật tự Dân Chúa, sa đoạ mất cả tôn giáo; sa vào một thế giới ác nghiệt không chút tình thương bố thí cho kẻ nghèo đói.

Ngạn ngữ Do thái: Do thái mà ăn muồng muồng, nó mới buồn trở lại, Chúa cũng chuyển từ tư tưởng để nói:

Câu 17/ “Khi đó nó mới tự tỉnh” (từng chữ có nghĩa là: nó về lại với chính mình). Ý nghĩ truớc tiên phát tự cái đói: nhớ nhà cha và so thân phận mình với những đứa ăn đứa ở nhà cha mình: té ra nó ở bên cạnh cha nó từ bé đến lớn mà nó không có ý thức chút nào về hạnh phúc lan từ cha nó xuống đến cả những đứa đầy tớ trong nhà. Có làm thuê và chết đói, nó mới biết cha nó là người thế nào: những người làm thuê cho cha nó được có đủ và dư nữa; nó cũng làm thuê nhưng ô nhục biết mấy, mà lại phải chết đói nữa. Nó chỉ muốn nên một người làm thuê cho cha nó thôi, nó cũng toại nguyện.

Câu 18-19/ Nó không trông lại được nhận làm con nữa. Nhưng nó trông rằng thú tội rồi thì được nhận làm người ở mướn cũng là quá lắm. Đàng sau câu này ló hiện quan niệm về hối cải trở lại: quay lưng cho mọi kiểu tự cao tự đại, và ký thác vô điều kiện cho lòng tín thị và vâng phục đối với Thiên Chúa. Hối cải đây chưa trọn lành (động lực thúc đẩy là cái đói, bởi đói nên nó nhớ đến của cải nhà cha, nhưng dù sao, nó nhận biết mình không có quyền gì nữa.    
 (còn tiếp)
Lm Nguyễn Thế Thuấn CSsR
(trích tài liệu giảng huấn phổ biến nội bộ)

No comments: