Friday 29 March 2019

Gm John Spong : (Bài 12) Đồng tính luyến ái là thành phần sự sống chứ không phải tai ương


Chương 5
Đồng tính luyến ái là thành-phần sự sống
chứ không phải tai-ương.
(Bài 12)


Tác-giả Dõner từng thực-hiện một số xét nghiệm để xem các giả thuyết do ông đưa ra, nó như thế nào. Chuột đực bị tước bỏ mất hoạt-chất kích-thích trong giai-đoạn có gì khác-biệt về giới-tính vốn sản-sinh trong óc/não? Như đã đoán trước, tiến-trình này tạo một số hành-xử đồng-tính luyến-ái nơi chuột đực, nay trưởng-thành.

Vốn phấn-kích với kết-quả thâu-lượm được lúc ban đầu, tác-giả Dõner tiến thêm bước nữa với lý-luận bảo rằng: giả như chuột đực sở-hữu não-bộ thần-kinh của chuột cái bằng cách chích vào người chúng các hoóc-môn “khơi dậy lòng dục”, hẳn từ não-bộ thần-kinh của chúng cũng thấy sản-sinh một loạt các hoóc-môn có khả-năng gây rụng trứng gọi là “hóc-môn hoàng-thể-hóa”.

Nhằm đáp-ứng dấu-hiệu có mặt ở buồng trứng chưa hiện-hữu vào lúc chưa bắt đầu  thực-hiện xét-nghiệm, kết quả tiên-đoán lại xảy ra một cách khá cụ thể. Sau đó, tác-giả Dõner lại thực-hiện cùng một xét-nghiệm như thế, trên bản-thể đồng tính luyến ái ở nam-nhân.

Não-bộ thần-kinh của nam-nhân đồng-tính-luyến-ái, khi xét nghiệm, đã đáp-ứng việc chích vào cơ thể của người này lượng hoạt-chất estrogen thấy xuất-hiện hóc-môn được hoàng-thể-hóa. Trong khi đó, các não-bộ của nam-nhân có giới-tính khác-biệt có kiểm soát, lại không phản-ứng gì hết. Người thực-hiện xét-nghiệm tin rằng: việc này chứng-tỏ là não-bộ thần-kinh của nam-nhân đồng-tính luyến-ái quả đã bị nữ-hóa trước khi chào đời và hoạt-chất đồng tính ấy được định-vị theo thể-lý do hoạt-chất sinh-hóa tạo nên (*9).

Nếu quả đúng như thế, thì khám phá này đã tạo bước vững-chãi tiến về phía trước chứng-minh được nguồn-gốc và ý-nghĩa đích-thực của hiện-tượng đồng-tính luyến-ái. Nhưng rủi thay, tác-giả Dõner cố tránh tình-trạng rõ ràng là thiên-vị, đã kéo theo nhiều kết-luận mà nghiên-cứu của ông không thể giải-thích được, nên vì thế đã mau chóng đưa ông đến tình trạng xung-đột với y-khoa Đức.

Tác giả Dõner coi đồng-tính luyến-ái như thứ gì đó được thanh-lọc khỏi cuộc sống con người bằng cách chặn đứng nó trước khi thành-hình. Thành thử, ông diễn-tả các kết-luận do chính ông đưa ra theo nghĩa đen và tìm cách tạo cách ngăn chặn ngay ở tử-cung các sự việc có chiều-hướng đồng-tính luyến-ái ở con người.

Nghĩ thế rồi, ông còn đi xa hơn những gì do chính ông đề xuất để hỗ-trợ. Nhưng, các nhà phê-bình đã phản-ứng chống lại tiến-trình này, nên mới tìm cách gạt bỏ các khám-phá do ông đạt.

Tuy nhiên, các khám-phá nói ở đây, nếu không mang tính kết-tụ thành-tựu, thì cũng đáng kể là ở chỗ nó đã khích-lệ rất nhiều người. Bởi thế nên, khi áp-đặt thành-tựu do mình đạt được, tác-giả Dõner đã trượt ngã trên lớp băng mỏng dòn, dễ bể.

Ông tìm cách đưa ra nhiều kết-luận tiến xa hơn tầm nhìn phát-xuất từ dữ-liệu do ông đề ra. Chính ông cũng không nhận ra rằng đồng-tính luyến-ái có thể vừa là khuynh-hướng bình thường vừa có giá-trị với việc phát-triển nhân-tính con người.

Muốn hiểu duyên do/cớ sự của nó, đâu phải chỉ đề ra cung-cách này khác hầu ngăn chặn không cho nó xuất-hiện là xong đâu. Nhưng, có cái gì đó còn tốt hơn đã rớt lại ở tiến-trình biến-hóa vốn cưu-mang ta khỏi các tế-bào đơn-độc, hầu nhận ra được chính mình trong quá-trình trải dài cả trăm triệu năm.

Sử-dụng dữ-liệu không đúng cách, thật không là điều phải lẽ. Thành thử, khám phá của tác-giả Dõner phải được cứu xét một cách nghiêm-túc mới xứng-hợp.

Câu chuyện về đám trẻ ở Cộng Hòa Đôminíc do Jo Durden-Smith và Diane de Simone thu thập, cũng tạo thêm khẳng-định vững-vàng về giả thuyết cho rằng não-bộ thần-kinh con người đã định sẵn “giới tính” một cách không thể dứt bỏ vào lúc ta sinh ra cũng như sau thời-gian đó.

Và, kinh-nghiệm con người tạo được sau khi sinh, không thể thảo-chương  óc/não thêm lần nữa theo chiều-hướng có giới-tính đã đổi. Chuyện này xem ra hơi khác thường, nên tôi sẽ để các tác-giả được quyền phát-biểu nó ra bên ngoài.

Thập niên 1970, vốn thoát khỏi tầm nhìn của quần chúng, đám con cháu của Amaranta Ternera đã bị phát-hiện. Và từ đó, nhiều tranh cãi trong giới khoa-học cũng đã khởi đầu.

Amaranta Ternera –(chúng tôi buộc phải đổi tên chị cũng như các chi-tiết về thân-thuộc của chị là vì chị yêu cầu như thế)- sinh ra cách nay 130 năm tại vùng Tây Nam Cộng Hòa Đôminíc. Với Amaranta, như chúng tôi được biết, thì chẳng có gì sai trái hết. Xem ra chị vẫn có cuộc sống bình thường, và đơn-giản.

Thế nhưng, khi trước đã có một vài trái khuấy về mầm “genes” còn sót lại nơi chị lúc còn trẻ. Và, cũng có đôi điều không tốt đẹp xảy ra với một số con cháu của chị. Bảy thế-hệ tiếp theo sau, mầm gene của Amanta được định-vị trong 23 gia-đình sống ở 3 thôn làng khác nhau.

Và, có đến 38 nhân-mạng khác nhau thuộc các gia đình này đều thừa-hưởng những sự lạ do Amranta truyền xuống cho họ thật rất rõ. 38 người này, khi sinh ra đã có ngoại-hình là bé gái. Chúng lớn lên như trẻ gái, và đến tuổi dậy thì, chúng lại trở-thành con trai.

Lấy thí dụ 10 người con của Gerineldo và Pilar Babilona. 4 đứa trong số này đã trải qua tiến trình thay đổi giống. Đứa lớn nhất là Prudencio sinh ra rõ ràng đã có âm-hộ và có hình thù cơ-thể của bé gái, hệt như đứa em vừa trai vừa gái kế tiếp theo có tên là Mathilda.

Bé Prudencio nhập Đạo với tên tục là Prudencia. Và, Pilar nói tiếp: bé em đây lớn lên gần gũi bên gút áo tạp-dề của mẹ, cứ sống xa vời mọi bé trai khác trong làng và còn giúp mẹ đủ mọi công việc.

Thế rồi, có cái gì đó hơi là lạ xảy đến nơi cơ thể của bé. Giọng nói của bé trở nên  trầm dần và sâu lắng. Vào độ lên 12, “mòng đóc” của bé cứ lớn dần rồi trở thành “dương-vật” với hai hòn dái thòng kín bên trong bìu thành mép “âm hộ”. Bỗng, hắn ta trở thành nam-nhân giống đực. Bố Gerineldo từng bảo: “Hắn tự thay quần áo mặc lấy một mình khiến hàng xóm thấy cũng quen dần với lối ăn mặc lạ kỳ ấy”.

Bỗng chốc, hắn phải lòng một đứa con gái ngay lập tức. Hiện giờ, Prudencio đã ở vào độ tuổi hơn ba mươi. Giống hệt người em Mathilda, nay gọi là Matêô, bé trở thành nam-nhân có cơ bắp rắn chắc không chê vào đâu được. Về tình dục, y ta có khả-năng không hề bị liệt-dương, hằng ngày vẫn ăn ở với vợ tại Hoa Kỳ.  

Với tác giả Julianne Imperato-McGinley ở đại-học Cornell, thì giống như 17 đứa bé trong số tổng cộng 18 đứa, thì tất cả các em đều được dưỡng-dục rõ ràng hệt như với con gái; và xem ra Prudencio không thấy khó khăn nào để chỉnh sửa cho phù hợp với giống đực, tức: có khuynh hướng tình dục nghiêng về nam-giới và sống đúng vai trò của nam-nhân.

Chính điều này đã khiến cho Prudencio và các trẻ người Đôminích trở nên quan-trọng. Chúng không thấy khó khăn gì để điều-chỉnh thành giống đực, và có khuynh hướng dục tình như mọi nam-nhi nào khác và đóng vai trò của nam-giới.

Prudencio và các đứa khác nói chung đều có mầm giống nam-nhân, nhưng những điều chúng thừa-hưởng từ Amaranta, nói chung, lại không dửng dưng với chất testosterone mà chỉ bất-lực có mỗi một chuyện là không tài nào làm chúng biến-hóa qua hóc-môn của đứa khác, tức là chất “dihydrotestosterone, một hoạt-chất có trọng trách về việc này nơi bào thai phái nam, để rồi sẽ tạo thành bộ-phận sinh-dục giống đực.         

Chính điều này đã khiến Prudencio và các trẻ em người Đominích trở thành quan-trọng. Các em này không có vấn đề nào để điều-chỉnh qua thành giống đực, có chiều hướng dục-tình với phái nam và có đủ vai trò của nam-giới.Prudencio và mọi người đều là nam-giới hiểu theo di-truyền.

Tuy nhiên, điều mà các em này thừa hưởng được từ Amaranta, đó không là tính vô-cảm nói chung đối với chất “testosterone”, mà là sự bất-lực biến-hóa nó trên hóc-môn của trẻ khác, tức danh-từ khoa-học gọi đó là “dihydrotestoterone”, tức: hoạt-chất chịu trách-nhiệm trong bụng dạ giống đực, hầu tạo hình hài thành bộ-phận sinh-dục nam phái.

Vốn thiếu hẳn điều này, nên các trẻ em người Đôminíc khi sinh ra trông giống như con gái vì thế nên mới được dưỡng-dục theo kiểu con gái. Đến tuổi dậy thì, mặc dù thế, cơ thể của các em đều tràn đầy hương-sắc mới mẻ toàn hóc-môn nam-giới khiến chúng rất nhạy-cảm.

Các cơ-phận nam-phái của chúng, có thể nói là lâu nay đợi chờ ở phía cánh cuối cùng rồi cũng tự mình triển nở, thôi. Và thiên-nhiên lãnh việc hoàn-tất mọi chuyện mà trước đó chúng đã làm hư hao, vá víu.

Dù sao đi nữa, đám con trẻ này đã không bị suy sụp tâm-lý theo điều mà khôn ngoan theo qui ước từng tiên-đoán là chúng sẽ phải như thế. Đây là điều cốt yếu, bởi nó phải có nghĩa như một trong ba điều; đó là: hoặc đám trẻ đã thực sự được nuôi dưỡng như con trai ngay từ ban đầu. Hoặc, chúng được dưỡng-dục ít ra với một mớ lẫn lộn về giới tính của chúng; và trong trường-hợp như thế mọi người sẽ kỳ vọng là chúng bị rắc rối về phái-tính như người lớn vẫn bị.

Hoặc, chúng sinh ra đã có sẵn não-bộ thần kinh phái nam ở đó trước ngày sinh ngay trong cơ thể “phái nữ” của chúng, một não bộ đã trượt lướt cách thoải mái vào lối diễn tả của nam giới khi cơ-thể chúng thay đổi vào lúc dậy thì.

Theo lối lý-luận này, thì thiên-nhiên bằng vào cách hành-xử có giới tính là thứ quan trọng giống như chất dinh dưỡng.  Quả thật, học hỏi có lẽ cũng có đôi chút tác-dụng trong việc này.

Về phần cha mẹ, như chúng tôi từng nói  -và Julianne Imperato-McGinley có mặt trong đó-  từng nhấn mạnh là đám con trẻ người Đôminíc được nuôi dưỡng đồng loạt cách mơ hồ theo kiểu của con gái. Điều này có nghĩa là: giả-thuyết thứ ba  -từng bảo: não bộ của chúng có nam-tính trước khi sinh là do hóc môn chính nam-tính “testosterone bị lấy đi một cách rất nghiêm-túc (* 10)


Những điều nêu trên, qua tính cá-thể hoặc tập thể, đã hỗ trợ nhận-định mang tính khoa-học vốn bảo rằng: khuynh-hướng dục-tình, có thể là chuyện não-bộ thần-kinh đã có hướng dục-tình này cả vào lúc trước khi sinh và như thế, chuyện đồng-tính luyến-ái là dữ-kiện được ban phát cách nào đó khá đáng kể đưa vào khí-tính của con người; và điều này không thay đổi từ khi con người được tạo dựng. Với thiên nhiên, điều đó không thuộc về di-truyền, nên không thể “phát-sinh” từ giòng-tộc được.  

Duy nhất chỉ một lý do khiến nó tồn-tại, là hỏi rằng: điều đó có chứng-minh được hoạt-động sai sót của thiên-nhiên trong tiến-trình tiến-hoá không, hoặc thay vào đó, nó chỉ là biến chuyển thông thường nhằm phục vụ mục-đích nào đó trong tiến-trình tiến-hóa mà ta chưa nhận ra, thôi.

Tuy nhiên, bất cứ tiến-trình nào của thiên-nhiên vốn xảy ra một lần trên mười khiến ta khó có thể gọi đó là trục-trặc được. Thiên-nhiên quả là chính-xác, tôi tin như thế, để ta có thể thừa-nhận nó như lỗi lầm. Ta bị lôi kéo đi vào nhận định mà bảo rằng: những gì lâu nay mình thấy như chuyện đức-hạnh, trên thực tế, chỉ là vấn-đề bản-thể-học mà thôi. Đồng-tính luyến-ái, là sự việc mình trở nên chính mình, chính con người mình.

Đi vào địa hạt di-truyền-học, ta còn khám phá ra một số đề tài nghiên-cứu được thêm vào hầu giúp ta hiểu thế nào là dục-tính. Quả, có đến 23 cặp nhiễm-sắc-thể trong hạt-nhân của tế-bào con người, trong đó có duy-nhất là cặp nhiễm-sắc-thể về tính dục. Phụ nữ có hai nhiễm-sắc-thể tính-dục X; nam-giới là bộ nhiễm-sắc thể XY đơn lẻ.

Thế nên, giới-tính được định-vị vào lúc cưu mang do nam-nhân tạo ra thoạt vào lúc tinh-trùng X hoặc Y kết hợp với nhiễm-sắc-thể X ở buồng trứng. Nhiễm-sắc-thể Y có trọng-trách phát-triển các tinh-hoàn trong tuần thứ bảy ở thời-kỳ thai-nghén.   

Khi thành hình, các tế bào ở tinh-hoàn Sertoli tiết ra một hoạt-chất khả dĩ ngăn chặn việc phát-triển hệ-thông sinh-sản của giống cái. Thành thử, cấu-trúc sinh-lý làm nền sự sống con người được hướng về việc sản-sinh ra nữ-giới. Nhiễm sắc thể Y là thứ sản sinh ra tinh-dịch tạo án-ngữ can thiệp vào tiến-trình này như thế cho phép nam-nhân nào có bộ-phận sinh-dục bên ngoài được tái sinh thay cho nữ-giới bằng bộ-phận sinh-dục bên trong. (*11)

Mọi biến-đổi theo hình-thái sản-sinh cách thường tình như thế nay  xảy đến. Và, cứ một trường-hợp sinh sản trong số năm ngàn trường-hợp sinh, chẳng hạn, thì mỗi cá-thể sinh ra chỉ có duy nhất một nhiễm-sắc-thể dục-tính có một nhiễm-sắc-thể X mà thôi. Người ấy chắc chắn là nữ, nhưng người nữ này lại không có buồng trứng gì hết. Có một trường hợp biến-đổi khác gặp ở triệu-chứng Klinfelter trong đó lập-luận rằng: con người có đến 3 nhiễm-sắc-thể là: XXY.

Thành ra, nam-nhân nào mất khả-năng sinh-sản có thể triển-khai vài đặc-trưng của nữ-giới; đôi khi, trong quá-khứ, những người như thế đã sống như gánh xiệc. Biến-đổi XXY không nhất-thiết mang đặc-trưng nam-tính mất khả năng sinh-sản, nhưng những người được định-hình theo kiểu này lại theo hướng có đặc-trưng hay gây hấn cách công-khai mà theo một số nhà nghiên cứu thì những người có hành-xử siêu hung-bạo đôi khi phản-chống xã-hội.


Sai lầm của thiên-nhiên có thể trở nên bi-thảm cho con người, nhưng không phải mọi người nói chung, bởi lẽ nhiều khiếm khuyết trong thể-loại dục-tình lạ thiếu mất khả năng sinh sản nữa.

Lâu nay, tôi kiểm điểm lại xem kết luận mình đưa ra cũng sở hữu nhiều xác suất may nhờ có sự giúp đỡ của Ts Robert Lahita, phó Giáo sư ngành y đóng trụ tại Đại học Cornell New York City.

Tiến sĩ Lahita lâu nay được nhiều người ưa thích trong vấn đề này qua chủ trương định-vị xem tại sao một số bệnh/tật, như chứng ban đỏ hình dĩa, ảnh hưởng trước tiên lên phụ nữa trong khi các triệu-chứng khó đọc hoặc viết và chứng tự-kỷ, trước nhất ảnh-hưởng lên nam-giới.

Tiến sĩ này cũng giống nhiều khoa-học-gia khác lâu nay vẫn yên-chí rằng các chức sắc trong Giáo-hội là những người cầm cân nảy mực về mọi sự, có những tuyên-bố dựa trên cơ ngơi lý luận không được cộng-đồng khoa-học-gia hỗ trợ. Riêng tôi, vẫn thông cảm và sẻ sản với lập trường của ông. Bởi, ngu dốt một cách lành thánh vẫn đích-thực là ngu và dốt.

Bởi, mọi bằng-chứng đều kéo theo kết-luận bảo rằng: người đồng-tính không chọn khuynh-hướng dục-tình cho mình, lại không thể thay-đổi nó và như thế đã tạo phản-ứng thông-thường nhưng ít ỏi về cung-cách dục-tình của con người.

Rõ ràng là, thành-kiến từ những người có tâm trạng theo hướng dục-tình với người khác phái vẫn kình-chống người đồng-tính nên mới phải chọn đồng-hành  với những gì là mà-thuật, làm thân nô-lệ và có niềm tin ngu-muội cũng như thể-chế áp-bức bị ta bỏ rơi.     

Một số người lại sợ rằng: chấp-chận lập-trường này, có nghĩa là việc xét-đoán tiêu-biểu phải ngưng đọng ra khỏi mọi hình-thức xử-sự theo cách đồng-tính. Lại nữa, đây cũng là hình-thức biểu lộ thành-kiến rất phi lý. Tất cả mọi xử-sự theo hướng dục-tình với người khác phái đều không được chuẩn-thuận, bởi lẽ tất cả chúng ta đều khẳng-định sự tốt đẹp của dục-tình khác phái. Bất cứ hành-xử dục-tình đều mang tính hủy-hoại, bóc lột, có tà-tâm hoặc bừa-bãi; vì thế nên, đó chính là sự dữ/ác-thần không cần phân-định xem người can-dự là đàn ông hay đàn bà.

Bất cứ khi nào thấy một trong các điều kiện này hiện-hữu, cũng cần nói lên lời kết án đạo đức. Khó khăn xảy đến khi xã-hội con người đánh gia1du5c-tình khác phái tự nó đã tốt đẹp và đồng tính luyến-ái tự nó là chuyện xấu xa.

Tính chuyên-chế về đạo-đức dẫn đến kết quả là lối chữa trị thiên về đạo-đức/chức năng cho dục-tình khác phái: các khác-biệt giữa việc ban tặng sự sống và hành-xử hủy-hoại sự sống sẽ hiện diện với người theo hướng dục-tính khác phái, trong khi đó thì bất cứ và tất cả mọi kiểu hành-xử mang tính dục tình xuất hiện từ một định hướng dục-tình đều bị lên án như một tội phạm.

Lập-trường luân-lý/đạo đức như thế sẽ khiến các người đông tính nam/nữ không còn chọn lựa nào khác ngoài việc tìm cách chối bỏ hoặc đè nén nó. Quả thật, đa số các vị trong hội-đồng nhà thờ lại đưa ra đề-nghị bảo rằng: trên thực tế, đó chỉ là chọn lựa đạo-đức mở ra cho người có hướng chiều dục-tình thôi.    

Có lẽ ta cũng nên nhớ rằng: phần đông con số những người có dục-tình khác phái đều can dự vào những chuyện như: lang chạ, điếm đàng, hiếp dâm, xách nhiễu trẻ em, loạn luân và mọi hình-thức coi như ác-dâm và thông-dâm thôi. Càng về sau, do chối-từ không chấp-nhận bất cứ hành-xử đồng-tính nào như chuyện bình thường, xã-hội đơn-âm ngày nay sẽ lèo lái rất nhiều người đồng-tính nam/nữ vào lề-lối rất hành-xử mà thế giới ngay thẳng lo sợ cũng như lên án.

                                                                                   (còn tiếp)



Gm John Shelby Spong biên-soạn
Mai Tá lược dịch.   

  





              


  




No comments: