Tuesday, 2 October 2012

Lm Vĩnh Sang DCCT: HƯƠNG ĐỒNG GIÓ NỘI




Mấy ngày qua, chúng tôi tổ chức cuộc gặp mặt những cộng tác viên của anh em chúng tôi từ các vùng miền đất nước, mục đích cuộc gặp mặt nhằm thắt chặt tình liên đới và gây ý thức Truyền Giáo cho mọi người, vì Truyền Giáo là sứ mạng, là bản chất, là lẽ sống của Hội Thánh, cần phải liên tục gây ý thức và khuyến khích mọi Kitô hữu sống Truyền Giáo.

Trong những chứng nhân có mặt trong cuộc gặp gỡ, những anh em người dân tộc J’rai trên Tây Nguyên gây cảm xúc ấn tượng nhất, ấn tượng vì sự xác tín của anh em, anh em xác tín được Chúa cứu thoát mình khỏi những điều xấu, những bất hạnh và những sự kiềm tỏa của Sự Dữ, anh em cũng kinh nghiệm trong Chúa mình được tồn tại, được yêu thương và được sống xứng đáng với phẩm giá của mình. 

Chứng từ của anh em rất cụ thể, đơn giản và mạnh mẽ. Anh Siu Broh có đoạn nói: “Chúng tôi vui mừng vì chúng tôi được cầu nguyện, được nghe Kinh Thánh bằng chính ngôn ngữ của chúng tôi, không nơi nào cho chúng tôi làm chuyện đó ngoài Nhà Thờ. Chúng tôi hãnh diện vì chúng tôi được mặc y phục của chúng tôi trong ngày của Chúa khi đến Nhà Thờ, không nơi nào cho chúng tôi làm điều ấy, nếu có chỉ là biểu diễn trên sân khấu. Chúng tôi vui mừng vì chúng tôi được ca hát và nhảy múa thờ phượng Chúa trong Nhà Thờ, chúng tôi được đánh cồng đánh chiêng để thờ phượng Chúa. Chúa giải thoát chúng tôi, Chúa nuôi dưỡng chúng tôi, Chúa gìn giữ chúng tôi”. 

Một khi kinh nghiệm về tình thương, anh em sẽ ra đi làm chúng về tình thương. Được ca hát, cầu nguyện, trang phục bằng chính những giá trị dân tộc mình, anh em cảm nhận mình được tôn trọng phẩm giá làm người, được yêu thương và giải thoát khỏi sự nô lệ. Anh em đã từng phải mang thân phận nhục nhằn tủi hổ, bị khinh bỉ, bị coi thường: “Thời Pháp thuộc gọi chúng tôi là Mọi, thời ông Diệm gọi chúng tôi là Thượng, thời ông Thiệu gọi chúng tôi là Sắc Tộc, và bây giờ người ta gọi chúng tôi là Dân Tộc”, anh Siu Broh buồn bã nói như vậy. Chỉ có Chúa, chỉ có Hội Thánh trân trọng anh em.

Tôi được dịp quen biết Giáo Sư Tiến Sĩ Trần Văn Khê, trong một lần trò chuyện, cụ bộc bạch, cụ được mời dạy về âm nhạc tại nhiều nơi, có dịp nghiên cứu nhiều thể loại âm nhạc trên thế giới, đặc biệt là âm nhạc Việt Nam, cụ cũng được mời dạy ở các Đại Học Công Giáo nhưng cụ còn mắc nợ một việc ( chính cụ ghi trong hồi ký như vậy ), đó là nhạc Thánh Ca Việt Nam, nhạc Nhà Thờ Việt Nam, một lãnh vực cụ chưa có cơ hội bước vào. 

Tôi trao cho cụ một số sách Thánh Ca Việt Nam, và một số đĩa Thánh Ca Việt Nam, xin cụ xem và cho chúng tôi nhận xét của cụ. Sau một ít ngày gặp lại cụ, cụ vui mừng cám ơn, nói là nhờ những món quà Đạo này mà cụ đã có dịp “bước vào Nhà Thờ” Việt Nam. Cụ khen một số tác giả Thánh Ca Việt Nam, cụ ngạc nhiên và cho rằng các tác giả đó đã chắt lọc rất tinh tế để phả hồn âm nhạc Việt Nam vào Thánh Ca. Ngay sau đó tôi mời ông đến nói chuyện với giới hát Thánh Ca, cụ đã ngâm nga những bài hát cụ ưa thích và hết lời khen ngợi các tác giả đó, cụ cũng không dấu sự ngạc nhiên về viêc khám phá ra tiến trình hội nhập văn hóa của Thánh Ca Việt Nam. 

Quả thực, với những tên tuổi sáng chói trên nền trời nhạc Thánh Ca, chúng ta có những ngôi sao sáng, thiết tha với dân tộc, lao công khổ tứ vì niềm tin của dân tộc. Chúng ta đang có những tác phẩm Thánh Ca mang âm điệu Việt rất đậm đà. Chắc chắn qua các bài Thánh Ca, những người dân Việt sẽ cảm thấy gần hơn với Đạo Thánh, và người Công Giáo Việt Nam được hạnh phúc hơn khi được ca ngợi Chúa bằng chính những âm giai nhịp điệu của chính dân tộc mình.

Khi bước chân vào Việt Nam, đạo Công Giáo đã chịu bao nhiêu thử thách, bao nhiêu gian khổ, kể cả những cuộc bách hại khốc liệt. Các vị Tử Đạo đã anh dũng hy sinh rất nhiều để Đạo Chúa được lan rộng trên quê hương đất nước thân yêu này, máu đào đã đổ, tưới gội lên những cánh đồng cho chúng ta nhiều hứa hẹn về mùa lúa chin vàng. Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đã có những đóng góp cho kho tàng văn hóa Việt Nam không nhỏ, công trình đáng hãnh diện và tự hào nhất đó là chữ quốc ngữ. Cho dù công nhận hay không công nhận, sự thật lịch sử ngày một chứng tỏ về sự sáng tạo này. 

Nhưng bên cạnh đó chúng ta cũng vấp phải những trở ngại lẽ ra không đáng có, những trở ngại làm cho việc Loan Báo Tin Mừng gặp thêm không biết bao nhiêu là khó khăn, cho đến hôm nay những khó khăn đó vẫn còn đeo bám.

Người Công Giáo trong bất kỳ một buổi thờ phượng nào cũng cầu nguyện cho ông bà tổ tiên. Trong mỗi Thánh Lễ, Giáo Hội dành hẳn một lời nguyện long trong sau phần truyền phép để cầu nguyện cho bà tổ tiên, một năm có hẳn một tháng ( tháng 11 ) để cầu nguyện đặc biệt cho cha mẹ, ông bà, tổ tiên và thân bằng quyến thuộc, ba ngày Tết có hẳn ngày Mồng Hai để kính nhớ ông bà tổ tiên. Trong mười giới răn, ba giới răn đầu dạy người ta sống tương quan với Chúa, bẩy giới răn sau dạy người ta sống tương quan với người khác, giới răn thứ bốn đứng đầu trong bảy giới răn sau dạy chúng ta “thảo kính cha mẹ”. 

Có tôn giáo nào đang hiện hữu ở Việt Nam hành đạo như vậy không ? Thế mà cho đến nay vẫn còn nhiều người bị ngăn trở không theo đạo vì “theo đạo thì bỏ ông bỏ bà”, tại sao vậy ? Có phải vì ngôn ngữ bất đồng khi mọi người hiểu sai về chữ “thờ” ? Có phải vì một thời chúng ta phê bình và không chấp nhận lối tôn kính thắp nhang bái lạy, một cách tôn kính đã ăn sâu và trở thành văn hóa Việt ? Một cách tôn kính của người Việt mà chúng ta lầm tưởng của một tôn giáo khác. Hay còn một nguyên nhân nào nữa để chúng ta phải trả giá quá đắt như vậy ?

Người Việt Công Giáo đã có bộ Sách Lễ tiếng Việt, dù chưa hoàn chỉnh nhưng cũng đã có, bộ sách Kinh Phụng Vụ rất tiện lợi cho mọi người để được cầu nguyện bằng chính ngôn ngữ của mình. Trong một vài lãnh vưc khác của nhà đạo, chúng ta đang có những bước tiến khá dè dặt, ngoài Thánh Ca như đã nói ở trên, đặc biệt kiến trúc, điêu khắc là những bộ môn thiết tưởng cần có những con người, những quyết đoán mạnh dạn để có những sáng tạo phù hợp với Tin Mừng nhưng được diễn tả bằng “ngôn ngữ” Việt, đậm đà hồn Việt. 

Một khi chúng ta hội nhập cuộc sống Đạo vào chính cuộc sống rất đời thường của xã hội, chúng ta thật sự thể hiện Đạo là Đường, làm cho những giá trị tuyệt vời của Tin Mừng thấm nhập vào từng ngóc ngách của cuộc sống. Một khi chúng ta sống gần gũi thân quen hòa nhập với văn hóa, truyền thống dân tộc, diễn tả đời sống Đức Tin bằng chính ngôn ngữ của dân tộc mình, chúng ta làm cho anh chị em chúng ta hiểu chúng ta nhiều hơn, dễ đón nhận chúng ta hơn, khi ấy hiệu quả Loan Báo Tin Mừng của chúng ta sẽ kiến hiệu hơn. 

Chính Chúa Giêsu đã mở đường cho chúng ta bằng Mầu Nhiệm Nhập Thể, và ngay trên quê hương đất nước này, Đức Maria đã xuất hiện để cứu chữa những con người khốn khổ trong dáng vẻ rất Việt, Mẹ đã hiện ra ở ba cây đa, một loại cây rất Việt và bên giếng nước, một biểu tượng rất thân quen với mọi người dân Việt. Cây đa đầu làng, mái đình và giềng nước, không ngôi làng nào của người Việt mà không có, không người Việt nào mà không mang trong tim hình ảnh thân thương đó.

Chúng ta đang chuẩn bị kỷ niệm mừng 50 năm khai mạc Công Đồng Vatican II ( 1962 – 2012 ), một Công Đồng mang lại đổi mới thực sự cho Hội Thánh như là một Lễ Hiện Xuống mới. Các hiến chế “Giáo Hội trong thế giới ngày nay” cũng như hiến chế “Ánh sáng muôn dân” của Công Đồng đã muốn Giáo Hội xuất hiện giữa xã hội loài người trong dáng vẻ khiêm tốn, mộc mạc, hiền hòa, giản dị và mang tính bản địa. Công Đồng đã khép lại lâu rồi và đang chuẩn bị mừng 50 năm ngày khai mạc, chúng ta xin Chúa Thánh Thần xưa đã thổi luồng gió mới vào Công Đồng, nay ban ơn soi sáng để chúng ta hiểu và thực thi điều Công Đồng truyền dạy.
Lm.VĨNH SANG, DCCT, 29.9.2012

No comments: