Bài Tin Mừng hôm nay ( Ga 20, 19 – 23 ) là một câu chuyện đặc biệt về cộng
đoàn Hội Thánh trong quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Cho đến chiều ngày thứ nhất trong
tuần, tình cảnh của
các môn đệ vẫn thật bi đát: “nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái” ( c. 19a ). Các ông đang ở trong một hoàn cảnh thù nghịch và đang phải mang nặng một
nỗi sợ hãi vì không được an ninh. Trong Gioan, kiểu nói “vì sợ người Do Thái” đã từng xuất hiện hai lần: trong 7, 13 khi không ai dám nói công khai về
Đức Giêsu “vì sợ người Do Thái”, và trong 19, 38
khi nói về việc ông Giuse Arimathê là một môn đệ Đức Giêsu nhưng là môn đệ cách
kín đáo “vì sợ người Do Thái”.
Vậy khi nói các môn đệ đóng kín cửa “vì sợ người Do Thái”, tác giả Gioan cho chúng ta thấy tình
cảnh của các ông lúc bấy giờ: sợ hãi, trốn tránh, không đủ can đảm công khai chứng tỏ mình có liên hệ
với Đức Giêsu, không
dám công khai nói về vị Thầy đã bị kết án bất công. Các ông sợ, vì chưa gặp Đấng Phục Sinh. Cho dù bà Maria Magđala đã nói với
các ông rằng “Tôi đã thấy Chúa” và kể cho các ông điều mà Chúa đã
nói với bà ( 20, 18 ), nhưng sứ điệp đó của bà Maria
Magđala vẫn không thể làm cho các ông khỏi sợ hãi. Nói cách khác: biết rằng Chúa Giêsu
đã phục sinh thì chưa đủ; chính sự hiện diện thật sự của Đức Chúa Phục Sinh mới
có thể đem lại cho các môn đệ niềm vui và bình an, giải thoát họ hoàn toàn khỏi nỗi sợ
hãi đối với người Do Thái.
“Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: Bình an
cho anh em !” (c, 19b). Đức
Giêsu đã từng hứa với các môn đệ: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy sẽ đến với anh em” (14, 18). Hôm ấy, trước cuộc khổ nạn, Người đã nói với các ông rằng “Một ít nữa thôi, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ sống” (14, 19). Bây giờ, lời hứa và lời tuyên bố ấy được thực
hiện, khi Đức Kitô
Phục Sinh đến đứng giữa cộng đoàn các môn đệ đang đóng chặt cửa vì sợ người Do
Thái. Đấng Phục Sinh
“đứng giữa các ông”, tức là Người hiện diện giữa công đoàn, làm trung tâm của cộng đoàn. Chính Người là nguồn sống, là trung tâm hiệp nhất toàn thể cộng
đoàn đang tan tác vì sợ hãi, là cây nho mà các đồ đệ là cành, là Đấng hiện diện giữa những người Chúa Cha đã ban
cho Người để cho họ được thấy vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho Người vì Chúa
Cha đã yêu mến Người từ trước khi thế gian được tạo thành (x. 17, 24; 1, 14 ).
Người chào các môn đệ: “Bình an cho anh em !” Lời chào này có giá trị bắt đầu cuộc gặp gỡ, nhưng không phải là một lời chào
theo công thức sáo rỗng. Thực sự đây là một lời hữu hiệu, vì là lời của Đấng Phục Sinh. Trước khi đi vào Giờ vượt qua của
Người, Đức Giêsu đã
nói với các môn đệ: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy cho anh em bình an của Thầy…
Anh em đã nghe Thầy nói: ‘Thầy ra đi và Thầy trở lại với anh em…” ( 14, 27 – 28 ). Sự bình an đó được đặt cơ sở trên
chiến thắng của Đức Giêsu đối với thế gian: “Trong Thầy, anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ gặp gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” ( 16, 33 ). Như thế, lời chào bình an của Đấng Phục Sinh
cũng đồng thời là lời khẳng định chiến thắng của Người trên thế gian và vì thế, là lời ban bình an thật sự.
“Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh
sườn Người” ( c. 20a ). Trước
đây, trong một đêm
biển động mạnh, khi
các môn đệ đang hoảng sợ giữa Biển Hồ, Đức Giêsu đến với các ông và nói: “Chính Thầy đây, đừng sợ !” ( 6, 20 ). Việc Người cho các ông xem tay và
cạnh sườn hôm nay tương ứng với lời “Chính Thầy đây !” trong biến cố đó. Vậy cho xem tay và cạnh sườn ở đây
trước hết chính là cách Đức Giêsu làm cho các môn đệ nhận biết Người đang hiện
diện giữa họ.
Tay và cạnh sườn mang những dấu tích
của cuộc hành hình thập giá cho biết Đấng Phục Sinh đang hiện diện giữa họ đây
cũng chính là Đấng đã chết trên thập giá. Và điều này là bảo đảm chắc chắn cho tính xác thực và
hữu hiệu của ơn bình an mà Người ban cho họ khi nói “Bình an cho anh em”. Họ sợ người Do Thái vì người Do Thái có thể đẩy họ
đến cái chết như đã xảy ra với Đức Giêsu. Nhưng bây giờ chính Đức Giêsu đã bị treo trên thập
giá ấy đang hiện diện giữa họ, nghĩa là không quyền lực trần gian nào có thể tước mất sự sống của Đức
Giêsu. Quả đúng như
lời Người đã nói với họ: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy
lại mạng sống ấy” ( 10, 18 ).
Cho các môn đệ xem những dấu tích
của cuộc khổ nạn nơi mình, Đức Giêsu Phục Sinh tỏ mình là Con Chiên lễ Vượt Qua mới đã bị tế sát. Sự tồn tại mãi những dấu tích của
cuộc khổ nạn trên thân thể phục sinh của Chúa chứng tỏ sự vĩnh cửu của tình yêu
mà Người thi thố cho thế gian trong cuộc Vượt Qua của Người. Chúa Phục sinh, Đức Giêsu Kitô, sẽ vĩnh viễn là Đấng Mêsia chịu đóng
đinh, từ nơi Người, trào vọt máu và nước ( 19, 34: “một người lính lấy giáo đâm vào cạnh
sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra” ).
Điểm đặc biệt là trước đây, trong trình thuật về cuộc đóng đinh
Đức Giêsu, tác
giả Ga không hề đề cập gì đến tay của Người. Trái lại, ông nhiều lần khẳng định rằng Chúa Cha đã trao mọi sự
trong tay Đức Giêsu ( 3, 35:
“Chúa Cha yêu thương
người Con và đã giao mọi sự trong tay Người”; 13, 3: “Đức Giêsu biết rằng: Chúa Cha đã
giao phó mọi sự trong tay Người” ) và rằng không ai có thể cướp khỏi
tay Người những con chiên mà Chúa Cha đã trao cho Người ( x. 10, 20 ). Vậy
đôi tay được đưa ra cho các môn đệ xem hôm nay là đôi tay ban cho các ông sự
bình an đích thực. Đó
là đôi tay tự do và nắm trọn quyền bính và sức mạnh. Cho các ông xem tay tức là Đức Giêsu
cho các ông đụng chạm đến chính quyền năng vĩ đại mà Người có để bảo vệ các ông.
Cạnh sườn lại diễn tả một thực tại
khác. Cạnh sườn đã
bị lưỡi đòng đâm thâu đó chính là bằng chứng hùng hồn của tình yêu vô biên mà
Người đã thi thố trong cuộc tử nạn của Người. Cho các đồ đệ xem cạnh sườn ấy tức là Đức Giêsu cho
các ông trải nghiệm tình yêu vô biên của Người. tình yêu vô biên đó sẽ được thực
hiện nhờ cánh tay quyền năng của Người.
Nói tóm lại, bằng việc cho các môn đệ xem tay và
cạnh sườn, Đức
Kitô Phục Sinh chứng tỏ cho các ông thấy tình yêu, quyền bính và chiến thắng của Người.
Vì vậy, “các môn đệ vui mừng vì được thấy
Chúa” ( c. 20b ). Niềm
vui này là sự thực hiện lời Đức Giêsu đã từng nói với các môn đệ: “Anh em sẽ ưu phiền, nhưng nỗi ưu phiền của anh em sẽ
biến thành niềm vui” ( 16, 20 ). “Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy mất được” ( 16, 22 ). Đó là niềm vui vì một thực tại mới, một sức sống mới đã bắt đầu ùa vào
trần gian: “Khi sinh con, người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình; nhưng sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan
nữa, bởi được chan chứa niềm vui vì một con người đã sinh ra trong thế gian. Anh em cũng vậy” ( 16, 21 – 22a ).
“Đức Giêsu lại nói với các môn đệ: “Bình an cho anh em!” ( 20, 21 ). Đức Giêsu lặp lại lời chúc bình an
cho các môn đệ, nhưng
chức năng của lời chúc bình an này có thay đổi so với lời chúc thứ nhất. Nếu lần thứ nhất là ơn bình an cho
hiện tại, giải
thoát các môn đệ khỏi nỗi sợ hãi lớn lao đang đè nặng tâm hồn và cuộc sống của
họ, thì ơn bình an
mà Người ban cho họ bây giờ là ơn dành cho tương lai, vì Người sắp trao cho họ sứ mạng
quan trọng.
Sau lời chúc bình an, Đức Giêsu trao sứ mạng cho các môn
đệ: “Như Chúa Cha đã sai
Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” ( 20, 21 ). Đức
Giêsu đã chọn các môn đệ vì sứ mạng này, như Người đã từng nói: “Chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại” ( 15, 16 ). Đó là sứ mạng Chúa Cha đã trao phó
cho Đức Giêsu, tức
là sứ mạng cứu độ thế gian. Như Đức Giêsu, các môn đệ được sai vào giữa thế gian, nhưng không thuộc về thế gian. Đức Giêsu đã từng thưa với Chúa Cha
về sứ mạng này của các môn đệ: “Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian” ( 17, 18 ); “Họ không thuộc về thế gian cũng như
con đây không thuộc về thế gian” ( 17, 16 ). Mục
đích của sứ mạng đó cũng đã từng được Đức Giêsu xác định một cách tường minh
trước mặt ông Philatô: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự
thật” ( 18, 37 ). Và
cũng như Đức Giêsu, các
môn đệ phải hoàn thành sứ mạng được trao phó: “Tôi có một lời chứng lớn hơn lời
chứng của ông Gioan: đó là những việc Chúa Cha đã giao cho tôi để tôi hoàn
thành; chính những việc tôi làm đó làm chứng cho tôi rằng Chúa Cha đã sai tôi” ( 5, 36 ).
Sau khi ban bình an cho các môn đồ và
trao sứ mạng cho họ, Đức Kitô Phục Sinh “thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm
giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” ( 20, 22 – 23 ).
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa ban sinh khí và sự sống cho con người khi thổi hơi vào con
người mà Người đã tạo nên ( x. St 2, 7 ). Đức Kitô Phục Sinh thổi hơi của Người
vào các môn đệ để ban Thánh Thần và sự sống mới cho các ông. Thánh Thần mà Chúa Kitô ban sẽ tạo nên nơi các ông một thực tại mới mẻ, làm cho các ông trở thành những con người được sinh ra bởi Thần Khí và
do đó, là “thần khí”: “bởi xác thịt sinh ra là xác thịt; cái bởi Thần Khí
sinh ra là thần khí” ( 3, 6 ). Nhờ đó, họ sẽ sống theo ân sủng và sự thật ( x. 1, 17 ). Họ “được sinh ra, không phải do
khí huyết, cũng chẳng do
ước muốn của nhục thể, hoặc do ước
muốn của người đàn ông, nhưng do bởi
Thiên Chúa” ( 1, 13 ) và được quyền trở nên con Thiên Chúa ( 1, 12 ). Như thế, con người sẽ
vượt quá được thân phận “xác thịt” ( 3, 6 ), vượt quá thân phận yếu đuối, mong manh và
hay thay đổi, và có thể thông truyền cho những ai đón
nhận sứ mạng của họ chính quyền năng tác sinh của Thánh Thần mà họ đã lãnh nhận
từ Chúa Kitô Phục Sinh.
Đồng thời với
việc ban Thánh Thần, Đức Kitô Phục Sinh ban cho các
môn đệ quyền tha tội: “Anh em tha tội
cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” ( 20, 23 ). Đức Giêsu là
Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian ( 1, 29 ). Các môn đệ tiếp
nối sứ mạng cứu độ của Đức Giêsu, nên cũng tiếp
nối sứ mạng ban ơn tha tội của Người: “Anh em tha tội
cho ai, thì người ấy được tha”.
Và cũng giống
Chúa Giêsu, cộng đoàn các môn đệ, tức là Hội Thánh, không có nhiệm vụ lên án thế
gian. “Quả vậy, Thiên Chúa sai
Con của Người đến thế gian, không phải để
lên án thế gian, nhưng là để thế
gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” ( 3, 17 ). Chính Đức Giêsu
đã tuyên bố: “Ai nghe những
lời tôi nói mà không tuân giữ, thì không phải
chính tôi xét xử người ấy, vì tôi đến
không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế
gian” ( 12, 47 ). “Thật, tôi bảo thật các ông: ai nghe lời tôi và tin vào
Đấng đã sai tôi, thì có sự sống
đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi
chết bước vào cõi sống” ( 5, 24 ). Phán quyết của Hội Thánh, như thế, không là gì khác hơn sự thừa nhận điều mà thế gian tự gây ra cho mình. Đó chính là ý nghĩa của sự “cầm giữ” trong lời “anh
em cầm giữ ai, thì người ấy bị
cầm giữ”.
Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho
chúng ta một thực tại quan trọng. Đức Kitô Phục Sinh hiện ra với Hội Thánh, cho Hội Thánh trải nghiệm một cách
cụ thể và đích thực sự hiện diện tràn đầy tình yêu, quyền năng và chiến thắng của Người. Rồi chính trong trải nghiệm tích cực
đó mà Hội Thánh được Đức Kitô trao phó sứ mạng thừa sai, được đón nhận Thánh Thần và quyền
tha tội, và
được bình an vui mừng.
Nhìn trong khung cảnh của thực tại
nhiệm mầu đó, Lễ
Chúa Thánh Thần hiện xuống không phải là dấu chấm hết cho một giai đoạn, mà thực chất là cánh cửa mở toang ra
một viễn tượng mới, viễn
tượng của Hội Thánh vui mừng và mạnh mẽ thực thi sứ mạng thừa sai. Chúa Thánh Thần là sức mạnh tuyệt
đối mà Hội Thánh đã đón nhận từ Chúa Phục Sinh, sẽ hoạt động trong Hội Thánh và giữa
nhân loại này, giúp
Hội Thánh thực hiện sứ mạng cứu độ của mình.
Lm. NGUYỄN
THỂ HIỆN, DCCT
(Trích từ
báo điện Ephata Viet Nam số 511, ngày 27/5/2012)
No comments:
Post a Comment