Tuesday, 30 October 2012

Lm Vĩnh Sang CSsR: “SỎI ĐÁ CŨNG CẦN CÓ NHAU”



Trong khuôn viên Tu Viện của chúng tôi, có một dãy nhà nho nhỏ xem ra khiêm tốn so với những dãy nhà khác, nhưng những người cư trú trong dãy nhà đó lại không nhỏ, không nhỏ nghĩa là lớn, lớn về đủ các chiều kích và hiểu theo đủ mọi nghĩa. Họ đã… “từ những đau khổ lớn lao mà đến”.
Thật vậy, tuổi đời họ rất lớn. Vị niên trưởng đang loay hoay trên giường bệnh năm nay đã 92 tuồi đời ( cụ không bao giờ chịu là 92, phải là 93 tuổi mụ, nhưng cụ lại tỏ ra rất thích khi ai nói cụ 29 tuổi ! ), lúc nào cụ cũng cười vui với bất kỳ ai đến thăm, rất ngoan ngoãn để cho những người có trách nhiệm săn sóc, đau đớn nhưng không bao giờ kêu ca, khi tỉnh dậy dù mệt lắm vẫn có thể đùa một chút với mọi người.
Sự nghiệp họ rất lẫy lừng, họ là những người đã ngang dọc một thời cho sứ mạng loan báo Tin Mừng, tung hoành trên cao nguyên rừng thẳm, len lỏi vào tận những bản làng xa xôi, bây giờ đành thúc thủ với căn bệnh bất trị, nhưng… vẫn cười. Hơn 40 năm Linh Mục rồi bây giờ vẫn còn phải đang tập dâng lễ, đọc được bản văn Phụng Vụ là một cố gắng rất lớn, khi mệt quá thì tìm cách ăn gian không đọc to lên.
Công lao của họ rất lớn, họ đã từng vào sinh ra tử cho con thuyền của Hội Dòng, đương đầu với phong ba bão táp, can đảm quyết đoán cho hướng đi táo bạo, giải vây thế bí do hoàn cảnh đất nước, mở ra con đường hy vọng nhưng hiệu quả thiết thực, phóng tầm nhìn xa cho tương lai của Hội Dòng, của Hội Thánh. Bây giờ cụ lừ đừ chậm chạp, khác với dáng bước hiên ngang ngày xưa, giờ chỉ còn là những bước khoan thai chận rãi, ăn từng chèn cơm được cân đo đong đếm nghiêm nhặt, từng giấc ngủ được tính toán kỹ lưỡng.
Sức khỏe họ rất tốt, trong quá khứ họ đã từng khai phá cả trăm ha rừng, quản trị một đồn điền trên 100ha càphê, ngồi trên máy cày xới tung từng vuông đất, bắn hạ những con cọp rừng nặng gần trăm ký, lo đời sống cho hàng trăm công nhân của Nhà Dòng. Bây giờ thầy ngồi xe lăn, mắt mơ màng nghĩ về quá khứ, một thời trai trẻ gió sương, bây giờ ngồi bất động, cho gì ăn nấy, không đòi hỏi, không quan tâm đến bất cứ việc gì. Thương người giúp việc lo cho mình, thầy lại trào nước mắt, lắp bắp nói lời xin lỗi không ra hơi.
Khả năng quán xuyến của họ rất tốt, họ đã từng lo cho hàng trăm Đệ Tử sinh sống, họ đã từng cấm lái những chiếc xe bus to lớn ngược xuôi, họ đã từng xông xáo mọi ngõ ngách để vun quén cửa nhà, họ đã từng lặn lội để canh giữ tài sản chung. Bây giờ thầy ngồi đó, ho rũ từng cơn, thể xác héo hon nhưng trên môi không dứt nụ cười, đau ốm nhưng không giảm khả năng làm người khác vui, ngồi một chỗ nhưng đầu đầy ắp những chuyện tếu, sẵn sàng kể cho bất kỳ ai đến thăm đến khi ra về thế nào cũng phải cười vui thú vị…
Vâng, chấm dứt một hành trình, chấm dứt thuở dọc ngang, họ vượt qua nỗi khổ đau “lực bất tòng tâm”, họ phải chật vật làm quen với gia tốc ở cuối triền dốc, họ phải tập nhìn ánh mặt trời hoàng hôn trong một thời gian rất ngắn, “vùn vụt tựa bóng câu”.
Cũng trong dãy nhà nho nhỏ ấy lại có những người rất nhỏ, những người rất nhỏ bên cạnh những người rất lớn, thân xác họ nhỏ, tuổi đời họ nhỏ nhưng tâm hồn và trí tuệ, đặc biệt trái tim họ rất lớn. Xin tri ân người, những người tôi gọi là ân nhân của tôi, những người ngày đêm âm thầm canh thức, săn sóc, an ủi vỗ về, nâng đỡ các cha anh tôi, những người đã thức thâu đên suốt sáng khi cha anh tôi trở bệnh, những người đã lặn lội ra vào nhà thương lo lắng cho cha anh tôi như chính người thân ruột thịt của họ, những người đã trào những dòng nước mắt nghẹn ngào khi cha anh tôi ra đi, họ đã tiếc thương như tiếc thương chính người thân yêu ruột thịt của họ. Tôi mắc nợ họ, món nợ tình thương mến như một lời nào đó trong Thánh Kinh, và tôi không biết bao giờ và làm sao trả cho hết món nợ này…
Ngày lễ các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa gần đến, rồi ngay sau đó là ngày lễ các Đẳng Linh Hồn. Hai mặt của một con người thuộc về Thiên Chúa, cha anh tôi đã đi qua những “đau khổ lớn lao mà đến”, cha anh tôi còn phải vượt qua chính thân phận con người để đến vinh quang, trên hành trình vượt qua đó, có những “cô tiên” được gởi đến để đồng hành, những “cô tiên” được gởi xuống trần để thông chia nỗi khổ đau và đỡ nâng nhịp bước. Các chị em đã giúp chúng tôi sống tình huynh đệ, thay chúng tôi thực hiện tình huynh đệ, dạy chúng tôi hiểu tình huynh đệ và quan trọng là giúp chúng tôi sống ngày lễ 2 tháng 11 và sống trọn tháng 11 thật thấm thía, trước khi cử hành ngày 2 tháng 11 theo nghi lễ.
Một lời cám ơn cho cả đời tri ân, cám ơn những “cô tiên” đơn sơ giản dị, mộc mạc chân thành, khiêm tốn hiền hòa, âm thầm nhưng thương yêu mãnh liệt, chúng tôi chỉ biết cám ơn bằng những lời kinh tiếng nguyện mỗi ngày đời chúng tôi. Với tất cả tình thương mến…
Lm. VĨNH SANG, DCCT, Chúa Nhật 28.10.2012


Monday, 29 October 2012

PHAOLÔ và BỐI CẢNH HÀNH ĐỘNG Do thái, La Mã và tín đồ của Chúa



        “Là cư dân xứ miền Địa Trung Hải
ông hoạt động rất hăng say, xuyên suốt
            lại bán buôn đổi tiền với người Do thái
            và cộng đồng sắc tộc ở La-Hy.”
            (Richard Rohrbaugh)

Đôi giòng tóm lược

Trước thời thánh Phaolô, Đạo Chúa lúc đầu đặt cơ sở ở Giêrusalem và Antiôkia. Khi đó, có Giacôbê, người anh em đồ đệ của Đức Chúa. Kế đó, còn có Phêrô, cả hai đấng đều là chủ quản hội thánh, thời tiên khởi. Ở thời này, thánh Phaolô lại đã khám phá ra rằng một số bạn đạo từng hồi hướng trở lại, đã quay về với lối sống rất “trỗi dậy”. Thánh nhân không buộc những người này phải trở thành Do-thái, tức: phải kinh qua thủ tục “cắt bì” trước khi làm tín đồ của Chúa. Sở dĩ thánh Phaolô đề nghị lối sống có “trỗi dậy” là cách miễn chuẩn cho họ mọi ràng buộc nào đại loại như thế, bởi: trước đó ông đã được sự đồng thuận của hai thánh Giacôbê và Phêrô rồi, nhưng sau đó, các đấng lại chống đối quan điểm của Phaolô thánh-nhân, về chuyện này. Cả đến cộng đoàn Antiôkia cũng chịu ảnh hưởng từ một động thái giống như thánh nhân. Kết cục là, thánh Phaolô đành phải ngưng thi hành sứ vụ tông đồ đặt dưới trướng của đấng bậc trưởng thượng này và không còn tuỳ thuộc cộng đoàn do các vị làm chủ quản, nữa. Thánh nhân đã đi theo con đường riêng do mình định đoạt bằng vào kinh nghiệm từng trải với Đức-Chúa-Sống-Lại, là Đấng Chủ Quản Duy Nhất của thánh-nhân. Thánh Phaolô sinh hoạt mục vụ tại các thành phố chính ở Thổ-Nhĩ-Kỳ và Hy-Lạp. Sau đó, thánh Phaolô đã có thư gửi nhóm hội/cộng đoàn do ông thiết lập.

                                                                       ------

“Như vậy, thoạt nghe danh thánh Đức Giêsu,
cả trên trời dưới đất và nơi âm phủ,
muôn vật phải bái quỳ;
và để tôn vinh Thiên Chúa Cha,
mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng:
"Đức Giêsu Kitô là Đức Chúa”.
(Phil 2: 10-11)

                                                                        ­     ---------


Mãi đến cuối thế kỷ thứ 20, các nhà chú giải của ta mới nhận ra là: lập trường/tư tưởng của thánh Phaolô đặt nặng chủ trương tạo nền thần-học hoặc khoa tu đức có chọn lựa. Các vị, chẳng bao giờ nghĩ rằng Đế quốc La Mã lại đã dính dự gì với thánh Phaolô. Nhưng, từ những tháng ngày hồi thập niên ‘70, nhờ các khám phá rút được từ các vụ khai quật và nhờ phát hiện ra tấm thủ-cảo ở Biển Chết, các học giả mới nhận ra được tầm quan trọng của lập trường thánh Phaolô luôn xem xét mọi việc dưới góc-cạnh chính-trị và tôn giáo hầu thấy được rằng: các thư cũng như bài viết do thánh-nhân đọc cho thư ký viết đều phản ánh cuộc đấu tranh chống lại ảnh hưởng có từ Đế quốc La Mã lên đầu óc dân thường ở huyện. Chú-giải tư-tưởng của thánh-nhân theo lối “mới”, là đường lối đã hình thành vào hơn 40 năm nay, nhờ có đường lối này mà hội thánh ta mới thấy được mối liên kết giữa tư tưởng của thánh nhân với bối cảnh chính trị cũng như tôn giáo, vào thời đó. Tư tưởng đây, nối kết đường lối chính trị, đặc biệt là chính trị và tôn giáo vốn dĩ loại bỏ mọi sự thể để đưa vào luồng sáng rất khác biệt. Nhiều người trong chúng ta có lẽ sẽ nhớ lại câu chuyện xảy ra cách đây không lâu, chừng 15 hoặc 20 năm đổ lại, về trường hợp tương tự đã diễn ra trong chương trình giảng dạy về Đức Kitô lịch sử. Thánh Phaolô không giống Đức Giêsu, Đấng sinh trưởng ở vùng sâu vùng xa thuộc xứ miền Galilê, nhưng thánh-nhân vẫn lang thang khắp thôn miền đến tận hang cùng ngõ hẻm toàn cõi Đế Quốc La Mã, về phía Đông. Đây là một tổng thể phức tạp về chính trị cũng như tôn giáo. Gần đây nhất, các nhà nghiên cứu đã thấy thánh Phaolô từng bất đồng với thể chế có bối cảnh chính trị rất chung đụng và thánh nhân cũng đã tìm ra thứ gì đó để thay cho bối cảnh ấy. Quả thật, đôi lúc ta cứ tưởng là thánh-nhân từng bất đồng ý kiến với các thể chế như thế, mãi đến khi ông tìm ra được cung cách hành xử rất chống báng, bằng vào kinh nghiệm từng-trải với Chúa-Sống-Laị.

Israel là ví dụ cụ thể về sự đáp ứng với bối cảnh chính trị ở đây. Ta lại cũng nhận ra rằng đối với thánh Phaolô, Israel có thể dùng để thay cho bối cảnh chính trị vốn không tài nào đạt được thành quả, hết. Và thánh-nhân vẫn nghĩ: ông đã thực hiện điều mà Israel vốn muốn làm nhưng lại chẳng bao giờ đạt điều mình mong muốn. Thực tế quả đã cho thấy ít xảy ra xung đột giữa thánh Phaolô và Israel hơn những gì mà lâu nay hội thánh vẫn nhận thức. Nhờ có ánh sáng soi dọi như thế, ta nhận ra 4 sự thể nổi bật lên bề mặt, như sau:

            *nhận thức về sự chọn lựa mới của thánh Phaolô đối với cuộc sống;
*cảm kích mới về sự thể khiến thánh nhân hiểu được sự sống lại;          
*cảm kích mới về sự thể khiến thánh nhân nhận ra sức mạnh của Thần Khí Chúa;
*Và cuối cùng, nhận thức rất sáng còn hiện rõ là: ta đề cập quá nhiều đến cảnh tình ta đang sống hôm nay, có phản ứng với Đế Quốc Hoa Kỳ (nếu gọi được như thế) trong khung cảnh của cuộc sống giống hệt thời Đế Quốc La Mã mà thánh Phaolô đã trải nghiệm. Khung cảnh song đôi, nhiều lúc cũng tương tự rất dễ để ta ra tay thực hành và biến nó thành hiện thực.

Nhờ trực giác sâu sắc, ta vẫn đặt nặng lên đó, nay đã xuất hiện, tuy hơi chậm, nhưng vẫn nói lên được lập trường hành động của thánh Phaolô, rất rõ. Tiến trình triển khai lập trường xảy đến với thánh nhân khi ông đi dần vào tuổi xế bóng. Nói cách khác, ta cũng nhận rằng ông thực sự là người Do thái lang thang từng lữ hành đi khắp đó đây – và đấy cũng là một biểu hiện khiến ta nhấn mạnh vào cụm từ “lang thang” cũng như danh xưng “Do thái” của ông. Bởi, chính ông từng đi đây đó, khắp Châu Âu, bắt đầu từ thủ phủ Philípphê rồi đến Thessalônikê, và sau đó lại đã đi vào trọng tâm của đất miền đầy ắp những văn hoá/văn minh của người Hy Lạp và La Mã. Ông đi, là đi đến Akaia và Côrinthô, nơi ông dừng chân lưu lại tại thành phố lớn đang phát triển mạnh ở Trung Đông, thời đó là Êphêsô. Các thủ phủ, cũng như hải cảng là điểm nối kết bước chân ông trên quãng đường dài ở phương Đông lẫn trời Tây, có cái gì đó làm xúc tác khiến ông trở thành nhân vật lừng danh, rất nổi tiếng.

Phaolô thánh-nhân đã tạo nên tình huống đó. Có điều lạ, là: ở thư Rôma đoạn 15 câu 23, trong đó chính thánh-nhân có lần nói: ông vẫn cứ âm thầm dấn bước trong hành trình rong ruổi quyết hoàn tất những điều mình chủ trương. Và, chính những thứ ông gọi là “tất cả mọi sự” đều nằm trong các nhóm/hội nhỏ bé, có lẽ cũng không nhiều, khoảng trên/dưới năm chục người đổ lại, ở mỗi nơi. Nhưng con số đó, đã lan rộng trên khắp mọi miền của Đế quốc La Mã, nếu ta chỉ tính mỗi số lượng người hồi hướng trở về thôi, cũng là con số rất đáng kể. Có lần thánh Phaolô nói: “Chỉ mỗi thế. Nhưng, rồi tôi sẽ đi về nửa phần còn lại ở bên kia đế quốc. Tôi cũng sẽ đi về hướng Tây để đến với Rôma và rồi sẽ đi Tây Ban Nha một ngày nào đó, cũng không muộn.” Tuy nhiên, có thể nói được là: trên thực tế, thánh-nhân chưa thực hiện cuộc lữ hành mục-vụ đến với Tây Ban Nha, nhưng ông đã thực hiện hành trình đi Rôma và lưu lại nơi này mãi đến ngày ông tạ thế, mới thôi.

Các giải thích về lập trường của thánh Phaolô ngày hôm nay cũng đã thay đổi khá nhiều, nhất là những năm gần đây. Từ lâu, ta thấy chừng như anh em Thệ phản chủ trương canh cải ý kiến khiến mọi người hiểu được thánh Phaolô theo cung cách rất đúng lịch sử và người anh em giáo hội bên ấy lại đã trình bày thánh Phaolô như nhà “vô địch” của chế độ tự do, so với hệ thống chỉ biết vụ vào “luật” Do thái mà thôi. Điều, mà người anh em giáo hội bên đó muốn nói, qua cụm từ “vô địch”. Anh em Thệ Phản lại đã tập trung nhấn mạnh vào ân huệ so với anh em Công giáo của ta chỉ đánh mạnh vào khía cạnh luật và luật, thôi. Làm thế, tức: người anh em giáo hội bên ấy đã biết đặt ưu tiên vào lịch trình thần học mang tính lịch sử theo như truyền thống của giáo phái Luther ở Đức, vẫn kỳ vọng. Đây, quả là nhận thức mạnh mẽ nhất trong trường phái chủ trương một học thuyết về Phaolô kéo dài nhiều thế kỷ mãi cho đến ngày gần đây. Lập luận này, nay không còn đứng vững nữa, chí ít từ năm 1999 khi Augsburg tuyên bố về vị thế của người anh em bên giáo hội Thệ Phản cũng như của người Công giáo chúng ta. Tuyên ngôn Augsburg ban hành ngày 31/10/1999 được Đức Gioan Phaolô II đại diện cho Giáo hội Công giáo La Mã ký kết và phía bên kia là Hiệp hội Luther, trên toàn thế giới. Dưới đây, là hai đoạn văn chính thấy được ở tuyên ngôn:

*“Cùng nhau, ta tuyên xưng: nhờ ơn thánh và niềm tin vào Công trình Cứu chuộc của Đức Kitô, tuyệt nhiên không do biệt tài của bất cứ ai, ta được Chúa chấp nhận đi vào với Ngài mà nhận đón Thần Khí Chúa, Đấng cải hoán tâm can ta trong lúc Ngài bổ sức mời gọi ta thực hiện công việc lành thánh, rất thiện toàn.   

*“Nhờ ơn thánh, là bạn đồng hành rất chính trực có Chúa dẫn dắt ta đi vào với niềm tin, lòng trông cậy và tính sốt mến ta vốn có do công trình cứu độ đầy sáng tạo của Chúa. Dù sao đi nữa, trách nhiệm của đấng công chính không chỉ phung phí ơn lành thánh này, mà thôi; nhưng còn được sống trong ơn lành thánh, vẫn rất thực. Động lực khuyến khích ta sống lành thánh, là một khích lệ thực tiễn ngõ hầu giúp ta thực hiện niềm tin có Chúa và trong Chúa.”

Ngày nay, cả hai phía tức giáo hội Thệ Phản và anh em Công giáo chúng ta lại đã cùng nhau nhìn về bối cảnh chính trị và tôn giáo, qua đó thánh Phaolô vẫn sống cuộc sống lành thánh, chính trực.

Nói bối cảnh chính trị và tôn giáo, là nói đến đế quốc La Mã. Và, đó cũng là lý do để ta ngược giòng lịch sử trở về với thời xa xưa, hầu có được cảm giác đích thực và ta ngửi thấy được những gì đã thực sự xảy đến. Thêm vào đó, ta cũng nên nhìn về kiều dân Do-thái-giáo đã ở vào vị thế chính trị mà họ tạo được trong đế quốc thời đó. Chỉ khi ấy, ta mới thấy được bối cảnh sống động mà cộng đoàn tín hữu tiên khởi của Đạo Chúa đã sống và biết thêm được vị thế của thánh Phaolô về tổng thể, là như vậy.

Thánh Phaolô, thật ra đã tự đặt mình chọn lối sống trong một thế giới khá phức tạp. Ở đó, có đế quốc La Mã, có cả kiều bào Do-thái-giáo và tín đồ Đạo Chúa nữa. Bởi thế nên, dưới đây là dẫn nhập vào quá trình sự nghiệp của mỗi nhóm.

                                                                        ------------

Đế quốc La Mã

            “Có hiểu thế giới La Mã,
mới hiểu được Phaolô thánh-nhân.”
(R. Orlando)
Ghi chú: 
Các hoàng đế La Mã          gần và trong thời của Phaolô:
Augustus (Octavian):            năm 27 trước Công nguyên – 14 sau Công nguyên
Tibêrius                    :             năm 14 sau Công nguyên – 37 Công nguyên
Caligula (Germanicus):        năm 37 Công nguyên – 41 Công nguyên
Claudius                  : năm 41 Công nguyên – 54 Công nguyên
Nêrô                        :               năm 54 Công nguyên – 68 Công nguyên

Đôi giòng tóm lược về Hy Lạp

Cũng nên bắt đầu ở đây bằng một chú thích về mối tương quan giữa văn hoá Hy Lạp và đế quốc La Mã. Hy Lạp, ban đầu là “quốc gia” hoặc “đất nước”, vẫn nhỏ bé hơn “đế quốc”. Về nguồn gốc, đất nước này có một số khu định cư trong đó có sinh hoạt thương mại, trại binh, có nền giáo dục và văn hoá đã phát triển. Ý niệm về “thủ phủ” (tiếng Hy Lạp gọi là polis) khi ấy chỉ mới nổi vụt lên trước khi tạo sự điều hoà giữa các “thủ phủ” đưa vào quần thể lớn hơn. Điều này, có nghĩa là: mỗi “thủ phủ” như thế lại có các phần đất rất hiển thánh được vinh hạnh trao cho địa phương trông nom. Và trong đó, có nhiều vị thần không mang tính địa phương, vẫn rất nhiều. Athêna có các vùng đất như Akrôpolis, Parthênon và các đền đài dành cho thần linh, mà trong đó một số địa danh được du nhập từ ngoại bang, như: Ai Cập. Việc sát nhập các thủ phủ gộp thành một thứ tổng hợp các thần linh quá đông đảo. Và ý niệm về “Vị Thần” từ đó trở thành sự thể được mọi người cùng tôn thờ, sùng kính. Và sau đó, sự thể về “thần linh” cứ thế thẩm thấu nhờ vào uy lực của các đội binh, như trường hợp Alexander được coi như thần linh thánh ái, rất đáng kính. Chuyện như thế, lại cũng thấy xảy ra ở Ai Cập có vua/quan Pharaô rền khắp chốn. Và, lập trường tương tự cũng xảy đến với các triết gia, khá hiền từ. Các thần linh, đã được dân chúng tôn vinh đúc tượng và đặt nơi đền đài gọi là Panthêon. Các nối kết đại loại như thế, cũng tạo ra một thứ gọi là “sự đã rồi” giữa chính trị và sức mạnh quân sự, có hỗ trợ để phát triển lan sang các vị thần đồng thời là lãnh tụ chính trị.


Trọng tâm là La Mã

Điểm khác biệt giữa La Mã và Hy Lạp là chuyện khá thú vị. Chẳng hạn như, La Mã luôn mê say chuyện nối kết hoà hợp. Thế nên, “Hoàng đế” của họ là lãnh tụ kết hợp hài hoà giữa chính trị và quân sự. Việc thần-thánh-hoá các hoàng đế đương nhiên phải xảy đến. Các hoàng đế La Mã thời đó vẫn đòi người Hy Lạp phải coi họ ngang hàng và tương tự như các vị thần Hy Lạp… Điều cần hỏi là: giả như việc tạo dựng thần linh nào đó đồng thời là hoàng đế, có cần thiết cho hệ thống quan quyền La Mã trổi bật thành “đế quốc” không. Ngược lại, giả như hoàng đế nào đó trổi vượt như Octavian còn gọi là thần-hoàng-đế Augustus có đem lại ý niệm phóng đại nào về “thần linh”, không?

Augustus, người thế đó

Octavian là chính trị gia rất tài ba, lỗi lạc. Ông từng chơi trò chơi chính trị lạ kỳ để theo dõi xem người chơi trò này phản ứng ra sao? Hoạt động ở khu vực nào? Ông tự tạo cho mình quyền to lớn này là do từ binh đội dũng mãnh ông dựng ra. Ông còn muốn tạo cho mình thứ quyền bính hợp pháp lấy được từ nghị viện, nữa. Rồi từ đó, ông đã khuynh loát chòng chéo cốt để các chính trị gia ở nghị trường hiểu rằng chính họ đã trao cho ông quyền đó. Ông kiến tạo cho mình một cuộc sống oai phong lẫm liệt do thần-linh đem đến. Các thần này, không là thần gia đình, nhưng là thần của quần chúng từng đề ra nghi thức tế tự và lễ hội mừng vui phấn khởi để rồi qua đó các thần ban phép mầu và chúc phúc cho người cầm đầu, quản cai toàn đế quốc. Giả như những người này làm không được việc, thì lúc đó các thần sẽ khiến cho sông Tiber ngập đầy những nước với bão táp, mưa sa, lụt lội. Và, sông Nil sẽ cạn nước, khô cằn hết làm ăn. Các đất miền/thành phố lâu nay trở thành thể chế trong đó có vị thần ở chốn trời cao đã định danh chỉ thị thành lập đế quốc. Hoàng đế là đấng thần-thiêng thánh-hoá hiện diện bằng xương bằng thịt và dù thế nào đi nữa vẫn chỉ là phân nửa đoạn đường để tiến tới mà trở thành “thần thánh”.

Thủ phủ nổi bật là Athêna lại đã hứa hẹn dành cho Brutus và Cassius nhiều uy lực để lướt thắng tính chuyên quyền bạo ngược của Julius Xêda. Và sau đó, các thần lại hứa với Antony, một trong ba vị thuộc Tam đầu chế ở trời Đông, cũng sẽ được thế. Nhưng khi Octavian Augustus đánh thắng Antony trong trận Actium hồi năm 31 trước Công nguyên, Athêna lại đã làm hoà với hoàng đế đồng thời trở thành vị thần mới. Trên thực tế, thần-hoàng-đế Augustus xử rất tốt với Athêna cũng giống như Tibêrius thời sau đó. Các thần-hoàng-đế khác lại không tích cực được như thế. Như Caligula đại náo thành phố là để khiến cho Rôma thêm phần đẹp đẽ. Hadrian là vị thần-hoàng-đế rất có công trong hầu hết các cuộc chỉnh trang thành Athêna.

Tôn giáo phát triển rất nhanh vào thời của Đức Giêsu và cả vào thời thánh Phaolô còn tại vị là đạo thờ kính thần-hoàng-đế, đặc biệt là Hoàng đế La Mã. Muốn chứng tỏ lòng trung thành với Hoàng-đế, chỉ một cách duy nhất là thờ-kính tôn-vinh ông ta thật hết lòng. Việc thờ kính Xêda còn phát triển nhanh hơn thế nữa. Chuyện này thấy rất rõ và cũng chính xác qua sự việc tôn giáo và chính trị gắn bó với nhau, thật chặt chẽ. Trên thực tế, cũng chẳng cần có sự hiện diện của binh hùng tướng mạnh để giám sát đế-quốc nếu như toàn dân trong đế quốc đó vẫn thờ kính thần-Hoàng-đế, cũng rất mực.           

Rôma, hoặc nói rõ hơn là thần-hoàng-đế Augustus vẫn làm được mọi chuyện mà chỉ có thần linh mới được làm, đó là chinh phục cả thế giới. Nữ thần Justitia, từng là nữ thần được Augustus tấn phong/can-thiệp, chỉ là vị thần chiến thắng. Augustus đạt quyền cao chức trọng như thần-Hoàng-đế và ngày sinh của ông được ca tụng như điều mà mọi người trong đế quốc của ông gọi bằng tên “euanggelion”, tức: tin vui dành cho kẻ chiến thắng. Hoàng đế, tiếng Hy Lạp gọi là “kyrios”, và sự hiện diện rất vua-quan-thần-thánh được gọi là “parousia”.

Ở Rôma và Hy Lạp, nói chung là với thế giới thời cổ xưa, người dân có khuynh hướng tôn thờ sùng bái các hoàng đế. Chuyện này đã đi vào với quá khứ có bí ẩn về thờ kính các vị thần sống lại và thờ các vị thần phân nửa là người tức các thần linh sinh ra từ sự phối hợp giữa thần linh bất tử và người phàm dễ chết. Theo hiểu biết của nhiều người thì tầm mức uyên bác ở đây là họ trực tiếp tập trung nhiều vào việc thờ kính hoàng-đế mà không chú ý quá nhiều về chuyện này. Xem ra có nhiều điều xảy đến với ý niệm về “hoàng-đế” ngay từ lúc Augustus xuất hiện, đã đổi thay qui chế cho vị cầm quyền. Ông còn thay đổi cả bản chất ngôn ngữ khi mọi người gọi ông là đấng thần-linh thánh-ái. Điều này mang tính trực tiếp nói về ông hơn. Thật sự, thì Ausgustus còn hơn cả vị anh hùng đề cập ở đường lối tôn thờ theo cách bí hiểm của nhóm ngộ đạo.

Từ nhiều thế kỷ, nền Cộng hoà La Mã đều đã do hai quan chấp chính tối cao cai quản. Cả hai đều tại chức trong cùng năm. Khi La Mã chinh phục toàn thế giới vào thế ký thứ nhất trước Công nguyên, hai vị chấp chính này càng có nhiều quyền hơn và càng ít muốn san sẻ quyền của mình cho ai khác. Đó là hiện trạng của Brutus và Cassius sau khi Julius Xêda bị ám sát. Guồng máy quân sự khổng lồ của La Mã lúc đó chia làm hai. Hai bên tranh chấp chém giết nhau không thương tiếc. Khối hiệp nhất giữa Ý, Hy Lạp và thế giới Địa Trung Hải tự khắc đã rã tan. Khi ấy, nổi lên một nhân vật mang tên Antony là kẻ chiến thắng, dù tạm thời. Cuối cùng thì, người chót hết mới đứng vững, đó là Augustus, con trai của Julius Xêda đã nổi lên triệt hạ Antony. Và, chiến tranh liền kết thúc. Hoà bình lại đã vãn hồi. Tình thế xảy đến sau trận Actium ngày 2/9 năm 31 trước Công nguyên, là ngày tháng chính cho toàn cảnh chính trị.

Kinh tế đã bộc phát. Giao thương đường biển cũng bớt đi nạn cướp biển. Các giao lộ, không còn chuyện bán buôn, bất qui cách. Vốn là người đem lại nhiều cải cách, Augustus được gọi là thần linh nhập long thể. Tiếng Hy Lạp không có ngôn từ phận định rõ rệt, nhưng tiếng La tinh gọi ông là “divus”, tức thần-linh thánh-hoá, chứ không phải là “deus”, tức Đức Chúa hoặc Chúa Thượng. Tuy thế, người dân ở La Mã lại cứ gọi ông là vị thần, con của thần linh. Ông ra lệnh cho khắc tên và hình ảnh linh thánh trên tiền đồng, tiền kẽm để mọi người biết.

Nhiều người, đôi lúc cũng thấy khó mà diễn tả cho mọi người hiểu rằng các tượng cổ là của thần linh xưa hoặc của hoàng đế vừa mới đăng quang. Danh xưng nói lên chức năng và công việc của một người và người làm được những chuyện dành cho thần-linh-thánh-ái, cai quản cả thế giới theo cung cách giống vị thần cai trị người phàm. Augustus tin rằng ông là thần-linh thuộc loại như thế! Ông xây dựng lại đường xá, cầu cống và tái lập mọi kỹ nghệ. Ông còn gầy dựng toàn bộ hạ-tầng kiến-trúc. Tất cả, để chứng minh rằng ông đã toàn thắng, hết mọi sự. Nguồn thần học của hội thánh ta vào thời kỳ đế quốc này là do Suetinius và Tacitus lập ra.

Suetonius kể lại tiểu sử của chính mình và cuối cùng cho thấy Augustus được cưu mang như thế nào. Mẹ của Augustus là bà Atia có mang với thần Apollo, nên ông là con trực tiếp của thần linh, chứ tuyệt nhiên không chỉ là con đẻ của Julius Xêda, thôi. Ngay đến cha ruột của ông là Julius Xêda, ông cũng phong cho làm thần-linh, nữa. Nếu ta được phép gọi truyện kể ở đây là thứ “giao ước mới” thì phải nói rằng thần-học này là truyện về thần Aeneid của Virgil:                             

Truyện thần thoại kể rằng: vào năm 17 trước Công nguyên Augustus bảo trợ cho hai cháu ngoại là con của con gái mình lấy chồng là tướng Marcus Agrippa. Hai cháu này, một là Gaius (sinh năm 20 trước Công nguyên và chết vào năm 4 sau Công nguyên. Còn cháu kia, là: Lucius (sinh năm 17 trước Công nguyên và chết vào năm thứ 2 sau Công nguyên). Cha của hai cháu chết vào năm 12 trước Công nguyên, nên Augustus chính là người nuôi dưỡng hai cháu và chuẩn bị cho chúng làm lãnh tụ. Nhưng cả hai đều chết yểu, nên Augustus phải tìm đếncon trai riêng của vợ ông là  Lyđia làm lãnh tụ nối dõi tông đường.

Đỉnh cao danh vọng của Augustus trải rộng thấy rõ ở Rôma. Chốn công đường của Augustus và đền thờ Mars Ultor, là nơi Augustus tuyên thệ vào năm 42 trước Công nguyên lại ở Philípphê và triều đại của ông kết thúc vào năm thứ 2 sau Công nguyên. Mars được đặt cho cái tên “Ultor” là để báo thù cho Julius Xêda. Còn, chốn công đường của Augustus là nơi hội họp về dân sự cũng như tôn giáo. Chính ở nơi này, còn diễn ra các phiên toà xử và các buổi tế thần nữa. Nghi lễ tế tự và công việc của các thượng tế, từ đó được thành lập. Tại chốn công đường này, duy nhất chỉ thấy có một pho tượng của Augustus là đứng trụ trên chiếc tứ mã, rất hùng hổ. Theo huyền thoại, thì Aeneas, vốn xuất thân từ thần Vệ Nữ và Anchises là người thành Troa, đã kịp chạy thoát khỏi thành này và khởi sự cuộc đua ngựa tại Ý. Còn, Romulus xuất thân từ thần Mars và Rhea Silvia, là hậu duệ của Aeneas được chó sói cho bú sữa, giống Julius Xêda, tất cả đều được đúc tượng đặt ở công đường Augustus. Tượng Augustus chễm chệ che lấp hết mọi tượng, bởi chính ông lại cứ muốn mọi người coi mình là hậu duệ lịch sử của La Mã, và là người tái thiết thành Rô Ma. Chính ông đã xây dựng 82 ngôi đền mới trong thành phố. Năm 12 trước Công nguyên, ông được đặt cho cái tên gọi là Pontifex Maximus.  Các tượng đặt ở Carrara đều bằng đá cẩm thạch chễm chệ trên các cột ở Côrinthô. Năm 13 trước Công nguyên, bàn thờ Augustus được quốc hội thuận cho xây coi đây là biểu tượng hoà bình được ủy thác từ năm thứ 9 trước Công nguyên.

Augustus là người tái lập nền cộng hoà, phục hồi các thần hoà hoãn và tái tạo sự hiền hoà/êm ấm giữa các thần. Chính ông là người truyền bá chốn công đường, các thành phố và cả đế quốc nữa. Chính ông là người củng cố đế quốc và mọi phần đất thuộc về nó. Trong số các tượng đặt ở Rôma, có tượng của Alexander Đại Đế, được coi là thần-linh thánh-ái. Augustus khôi phục tiêu chuẩn của binh đội từng bị thất thoát hồi thời chiến, đem họ trở về chốn công đường. Thần Hoà-Hoãn tạo chiến thắng cho mọi người. Thần này được gọi là Đệ nhất Công-dân chuyên dẫn dắt mọi dân con đang sống ở đế quốc. Augustus có một con gái tên là Julia và chẳng có được mụn con trai nào được sống sót. Là hoàng đế, những muốn cho đế quốc mình tồn tại mãi, ông đành tìm đến Tibêrius, con riêng của vợ là Lyđia với người chồng trước là Claudius, để uỷ thác. Cháu của Tibêrius là Germanicus và con trai của Germanicus là Caligula (tức “Đôi Giày Nhỏ”) lại đã trở thành Hoàng đế kế nghiệp các ông từ năm 37 trở về sau. Hoàng đế Caligula bị đám quân nhân ám sát chết. Vì thế, Claudius được cất nhắc lên ngôi hoàng-đế, để kế nghiệp. Claudius là người tổ chức Vận hội Saeculum ở Campo Marzo năm 47 sau Công nguyên cốt để kỷ niệm 800 năm ngày thành lập thành Rô Ma. Nêrô là hoàng-đế cuối thuộc giòng dõi Julius-Claudius.

Ở đây, cũng nên thêm một chú thích về việc Hadrian bảo rằng: Rôma được thần linh ủy thác đã trở thành trung tâm của vũ trụ. Ông vẫn muốn người Do thái thôi không còn bị thúc bách bởi luật “cắt bì” nữa. Ông còn muốn mọi người có thể xây đền đài theo ý của mình nữa. Ông đi chu du khắp đế quốc, nhằm đoàn kết hết mọi người trong đó. Và, ông quyết tống xuất các sắc tộc ra khỏi đế quốc của mình. Ông xây tường thành dọc suốt khu vực nhỏ ở Anh quốc nhằm xua đám rợ phía Bắc ra khỏi thế giới văn minh ông tạo dựng. (x. Journal of Philosophy and Scripture, an Interview with E.P. Sanders, tập 2, cuốn 2, năm 2005)

Trên các đồng tiền bằng kẽm, tiền nào cũng có hình và tên của Xêda ghi trên đó vốn được như thần linh, con của vị thần- chủ, là đấng cứu vớt hết mọi người trong đế quốc.

Đế quốc La Mã khi xưa vẫn tượng trưng “tiêu chuẩn đặt cho nền văn minh tiến bộ”. Tác giả Crossan dùng cụm từ đặc biệt làm biểu tượng cho điều mà ông gọi là “Cái bừa dùng làm chuẩn”. Còn, thánh Phaolô thì lại khác. Thánh-nhân cho rằng: Đế quốc La Mã dưới thời Augustus và Nêrô, đã tượng trưng cho điều được diễn tả tuy đáng tiếc nhưng cũng bình thường và vẫn được coi như nền văn minh tiến bộ vẫn phải đến, nếu không có ai hoặc không có gì làm nó dừng lại để biến mất. Đế quốc Hoa Kỳ hôm nay đang “trụ” vững trong thế giới của họ hệt như các đế quốc khi xưa mà người Hy Lạp và La Mã đã thực hiện.

Ở đây nữa, ta cũng có thể áp dụng điều đó với Đế quốc La Mã và đế quốc Anh được gọi là đế quốc thánh kéo dài từ thế kỷ thứ 18 qua hết thế kỷ 19 mãi đến đầu thế kỷ thứ 20, mới bớt dần. Hệ-thống đế-quốc chủ trương cổ võ cho hoà bình –thứ hoà bình của La Mã mà khi xưa hội thánh ta gọi bằng tiếng La tinh là “Pax Romana” ngang qua chiến thắng bằng quân sự, tức đi từ sự âu sầu hoà hoãn rồi tham gia chiến đấu đến hồi thắng cuộc. Và ở đây, nên hiểu vị thế “bề trên” của những người chiến thắng trong hệ cấp rất qui củ- để rồi đi đến thứ hoà bình/hoà hoãn có sự trợ giúp của Aeneas (tức thần Hoà Hoãn), Mars Ultor (thần Chiến Tranh), thần-nữ Roma (tức thần Chiến Thắng) và cả nữ thần Mắn đẻ (tức hoà bình) nữa. Qui luật của hệ thống ấy, được viết trên đá cẩm thạch.

Văn hoá này, bao gồm cả chế độ cha cố lẫn nô lệ. Cung cách sống được diễn tả rõ ra bên ngoài bằng tôn giáo, có chốn công đường và bàn thờ/bàn thánh để thờ kính con người vừa là Hoàng đế vừa là thần-chủ. Kết cục thì, điều mà nhiều người có thói quen gọi bằng cụm từ Thần-Dân-La-Mã, hoặc ngày nay ta lại cũng có thể gọi đó là Thần-Dân-Hoa-Kỳ, cũng được thôi. (xem S. Patterson (Beyond the Passion: rethinking the death and life of Jesus,  Fortress 2004, trong sách này tác giả nói: “Hoà Bình kiểu của đế quốc Hoa Kỳ cũng không kém phần xảo quyệt và bóc lột mọi người dân trên thế giới như thư Hoà Bình của La Mã, khi xưa vậy”. (Xem thêm: Richard J, Neuhaus, America as a religion, First Things, 3/2005)          

Chủ nghĩa đế-quốc, là cụm từ diễn tả đường lối mà thế giới lâu nay cứ bị thống trị mãi cho đến thế kỷ thứ 20. Ngày nay, ta lại có chủ nghĩa độc-tài toàn-trị và chủ nghĩa khủng bố. Những gì lâu này đã đổi thay là khả năng ta đáp ứng trước bạo lực và kỹ thuật của chúng ta. Tất cả chúng ta hiện có nhiều khí cụ giết người hàng loạt còn ghê sợ hơn trước rất nhiều.

Hoà bình êm thắm, đã trở nên lờ mờ đối với ta và theo cách thế nào đó, có thể nói là trống rỗng, rất hư-vô. Tác giả Crossan có nói: “Hoà bình đã trở thành đồ trang trí tuyệt kỹ mà mỗi năm ta vẫn treo lên cây thế giới và chỉ cất nó đi bỏ vào tầng hầm của lịch sử, thôi.”

Trật tự ở đế quốc La Mã được duy trì là ngang qua hệ thống “quan thày”, thứ “mạng lưới” tương quan rất xã hội và kinh tế mà ảnh hưởng của nó cứ chất chồng, lại là chuyện củng cố cho hiện trạng gọi là “cứ như thế” để nó yên.

Ở nghệ thuật phim ảnh, người  La Mã ăn vận lại khác với mọi người, tức thường hay ăn vận theo sắc thái của người Anh trong khi đó các nô lệ tốt lành vẫn mong mỏi được tự do, lại cứ thích nói tiếng Anh bằng giọng Mỹ. Đó là mật khẩu dành cho các dân tộc khác nhau. Vào triều đại Claudius thứ Nhất, Hêrôđê Agrippa xuất hiện trên sân khấu chính trường với lời cầu kinh lưỡi uốn theo kiểu Ba Lan gốc Do thái ở thế kỷ thứ 18. Nhưng, ông lại thích trở về với Palestine, rất nhiều năm. Thánh Phaolô giống nhiều người, vẫn muốn mình thành người “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”, thôi.

                                                                                                                        (xem tiếp phần 2)
______________________   
Lm Kevin O’Shea CSsR
Mai Tá lược dịch.

Saturday, 27 October 2012

Lm Frank Doyle sj: “Những kỷ niệm, vàng hoe trong ký ức”



Suy niệm Chúa nhật thứ 30 thường niên năm B

“Những kỷ niệm, vàng hoe trong ký ức”
Anh trở lại, dửng dưng nhìn quá khứ
Của một thời, sỉ nhục gánh trên vai.
(dẫn từ thơ Trần Trung Đạo)
Mc 10: 46-52
            Kỷ niệm có vàng hoe trong ký ức, không làm anh lại về với hiện tại. Đầy nhớ nhung. Dân Do Thái xưa cũng trở lại. Trở lại, sau bao tháng ngày lưu lạc. Nơi quê người. Lại trở về, với tâm tạng mừng vui. Đó là tâm trạng dân con Chúa, được trình thuật ghi, hôm nay.
            Trình thuật thánh Máccô ghi, về sự lạ Chúa làm cho người mù thành Giêrikhô, là để ta suy nghĩ. Suy và nghĩ, về điều được ghi ở bài đọc 1: ”Trong chúng, có kẻ đui mù, què quặt, kẻ mang thai, ở cữ. Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng; dẫn đưa tới dòng nước, qua con đường thẳng băng.” (Gr 31: 8). Nhờ đoạn này, ta định ra được cảnh trí Tin Mừng thánh Máccô ghi.  
            Tin Mừng thánh Máccô ghi hôm nay, là đoạn kết cho thấy Chúa tập họp đồ đệ Ngài thành một nhóm. Tập họp, khởi từ việc Chúa chữa người câm điếc, vào hôm trước. Được chữa lành, người bệnh đã biết nghe và biết nói. Nhờ kỹ năng này, tín hữu và đồ đệ Chúa cũng sẽ nghe biết và thông hiểu Lời Chúa. Rất rõ. Và từ đó, biết sẻ san thông điệp mình nghe, với mọi người.
            Các đoạn Tin Mừng sau đó, như ở chương 8, thánh sử cũng có ghi lại hai giai đoạn Chúa chữa lành người đui mù. Trình thuật này, rõ ràng biểu tỏ rằng đồ đệ Chúa tự mở mắt để thấy được thiên chức và sứ vụ thừa sai của Đức Chúa. Và kế đến, trọn vẹn giai đoạn kết thúc sự kiện chữa lành cho một người mù khác, là đoạn ta nghe đọc, hôm nay. Đây, không là chuyện ngẫu nhiên trùng hợp cách tình cờ. Nhưng, là chuyện thánh sử ghi lại, có dụng đích.    
            Như được biết, Đức Giêsu đã cùng đồ đệ và đông đảo quần chúng rời thành Giêrikhô, đi nơi khác. Nay Chúa đã về với thành thánh Giêrusalem. Tạo bối cảnh cho trình thuật được kể, ở đoạn sau. Ở đây người người nhìn thấy anh thanh niên mù tên BaTiMê đang ngồi bên vệ đường, chừng nghe ngóng. Anh nghe có tiếng ồn ào. Và được biết: Đức Giêsu đang ngang qua. Nên anh gọi: “Lạy Ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!´(Mc 10: 47)
Xin dủ lòng thương, là lời anh Ba-ti-mê cầu xin cho anh lành bệnh? Vì anh biết, Đức Giêsu là Đấng chữa lành tuyệt vời. Và, anh biết chắc là Giờ Ngài đã đến. Đến, với mọi người.
Biết điều này, quần chúng đứng chung quanh bèn khuyên nhủ: hãy im đi mà giữ miệng. Vì, anh chỉ là người hành khất rất thấp hèn, không xứng đáng. Không được phép quấy rầy Đấng Rất Thánh, là Đức Chúa. Ở đời thường, nhiều người cũng gặp tình huống rất tương tự. Tức, vẫn ưu tư /quan ngại vẫn tạo rào cản ngăn chặn con đường ta đến với Chúa. Đó là lúc, mình quá bận rộn, không đủ thì giờ để đến với cộng đoàn. Đến, để đi lễ. Đến, để tham gia sinh hoạt phụng vụ với Hội thánh. Và, đôi lúc ta cũng cản ngăn rất nhiều người muốn làm thế.
Nghe kêu cầu, Chúa dừng lại. Và giả như người mù hôm ấy không tiếp tục kêu cầu, chắc hẳn các ngài vẫn tiếp tục hành trình, đã dự định. Ngày nay cũng thấy rất nhiều trường hợp tuy có thấy Chúa ngang qua, nhưng hẳn đã mấy ai nhận biết Ngài? Nhận biết để mà kêu van, cầu cứu! Hay là ta vẫn cứ yên trí, vẫn mang nặng thành kiến. Nên cứ nhất định chỉ tìm kiếm Ngài ở nơi nào mình tính trước. Để rồi, chỉ chấp nhận Ngài bằng ảnh hình, mà ta có sẵn trong đầu. Rất thường tình, nhiều người cứ nghĩ mình chỉ tìm thấy Ngài ở Nhà Tạm trên Cung Thánh. Nào mấy ai biết kiếm tìm Ngài nơi những người mình chẳng ưa thích?  
Sự thật, Chúa đã và đang đến với ta, qua nhiều dạng. Qua người lạ. Trong tình cảnh không quen. Khó nhận. Hoặc, những trường hợp, thật không ngờ. Ngài đến, qua cung cách của người bần hàn. Nghèo túng. Đói khổ. Ngài đến, nhiều lúc ngang qua những người khó tính, hay bẳn gắt với nhiều người. Ngài đến, có khi chỉ qua người đem thử thách, kKhó chịu đến cho ta.
“Gọi anh ta lại đây ngay”. Lệnh truyền, cho thấy Chúa không đi thẳng đến với người mù. Ngài cũng chẳng gọi đích danh anh. Nhưng bảo anh, hãy tự mình mà đến với Ngài. Qua quần chúng. Qua, đám người dửng dưng vừa quát bảo anh, hãy câm miệng, hãy ngồi im, để Thầy đi. Chúa đến, ngang qua những người khuyến khích anh chạy tới. Đây, là đề nghị để ta biết cách mà  đến với Chúa. Cung cách của người dưng khác họ, là cung cách của những người khuyến khích ta “hãy đến với Thầy”. Của, những người giới thiệu Thầy, cho ta.
Ở đời thường, người giúp ta đến với Chúa, vẫn thường là: cha mẹ, gia đình, bạn bè, thày cô, lời chia sẻ, buổi tĩnh tâm, các sách vở, báo chí, phim ảnh, truyền hình… Ta cũng nên tưởng nhớ đến những người như thế, để cảm tạ. Cảm tạ và biết ơn, vì nhờ có họ mà ta mới đến được với Chúa.
Cũng thế, nhiều người cũng đang chờ đợi để được biết Chúa qua ta. Qua người trong nhà. Ngoài sở. Phố chợ. Nhà thờ. Đoàn thể. Ngày nay, còn có chăng, những san sẻ niềm tin? Có còn chăng, những người nay nhận biết ta là hiện thân của Đức Chúa ở đời? Là “Công” Giáo, ta không thể không chứng tỏ niềm tin ta có với Chúa, và xem đó là niềm “riêng” trong Đạo, thôi. Đây là mâu thuẫn. Là, ngược ngạo. Cũng nghịch nhĩ.  
“Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu”. Với người hành khất, áo choàng còn là chăn chiếu để ngủ. Là, cả gia tài họ có được. Mặc dù thế, anh mù nay cũng bỏ hết. Bỏ tất cả, để đến với Chúa, mỗi người không. Người không hay mình trần, là trạng thái của tiên tổ khi phạm lỗi. Ngay Đức Chúa, Ngài cũng đã chấp nhận cái chết rất mình trần, là để hoán cải sự hổ ngươi do lỗi phạm đem đến. Anh mù Ba-ti-mê đến với Chúa, cũng mình trần, nhưng không xấu hổ.
Mình trần, còn là tình huống khi ta nhận lãnh ơn tẩy rửa. Là, dấu chỉ ta quyết tâm đến với Chúa. Người tân tòng, cũng cởi bỏ áo choàng tội lỗi xưa, để bước xuống giếng rửa. Nhận lãnh ơn thanh tẩy. Khi bước lên, lại đã khoác cho mình bộ áo trinh trong, dấu chỉ của một sẻ san cuộc sống rày đổi mới. Có Chúa. Có cộng đoàn. Ở Nước trời.
Và như thế, anh mù Ba-ti-mê đến với Đức Giêsu với tất cả tự tin, lẫn tự do. Chẳng cần vật chất. So với thái độ của người thanh niên giàu, đã có áo choàng sang trọng nói ở Tin Mừng hôm trước, ta sẽ biết tại sao người thanh niên ấy không thể theo chân Chúa. Lý do, là vì anh vẫn còn vương vấn chốn tiền bạc. Giàu sang. Phú quý.
“Anh muốn Tôi làm gì cho anh?” là câu hỏi Chúa vẫn đưa ra mỗi khi ta đối diện với Chúa. Ở đây, ta có Đức Giêsu là Vị Thượng Tế, được diễn tả, ở bài đọc 2. Ngài là Đấng, vốn chấp nhận một sẻ san với loài người, nên đã rõ mọi nhu cầu, ta vẫn có: “Thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong tương quan với Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội.”(Dt 5: 1)     
“Anh muốn Thầy làm gì?” Câu hỏi Chúa đặt ra cho ta hôm nay, cũng tựa như câu hỏi Ngài đưa ra với đồ đệ thân thương chỉ muốn chia nhau chỗ ngồi gần bên Chúa, vào hôm trước. Và, lời đáp trả của đồ đệ hôm ấy, là: “Xin cho anh em chúng con tả hữu hai chỗ bên Thầy, khi Thầy được vinh quang.” (Mc 10: 37) Và, mặc khải của Chúa rõ ràng là: đồ đệ Chúa chỉ nhận lãnh những gì mình đáng được. Và hôm ấy, các thánh được dạy về việc phục vụ mọi người. Chứ không chỉ cầu vinh.
Lời đáp trả của anh mù hôm nay, thì khác: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.” Trong bối cảnh của trình thuật, điều anh muốn còn giá trị hơn mỗi chuyện về thể xác. Yêu cầu của anh mù Ba-ti-mê là điều chúng ta cần đến. Rất liên tục. Trong đời Kitô-hữu.
Bí kíp của cuộc đời, thật ra là: thấy được. Thấy được, ý nghĩa và đường hướng đích thực của đời sống. Thấy được, như người có thị kiến về Chúa. Biết tìm Chúa ở đâu. Nơi nào, ta nhận ra được Chân, Thiện, Mỹ? Chuyện mà anh mù Ba-ti-mê thực hiện được, là biết đường mà đi theo Chúa.    
Lúc đầu, chưa gặp Chúa, anh Ba-ti-mê ngồi ở vệ đường. Ăn xin. Mù loà. Vào lúc cuối, anh đã thấy. Đã có thị kiến. Đã biết mình đang ở đâu. Sẽ đi đâu. Anh không còn ngồi ở vệ đường nữa. Nhưng anh đã lên đường theo Chúa. Bởi Chúa là Con Đường. Là Sự Thật. Và Sự Sống. Con đường anh đi, dẫn đến thành thánh Giêrusalem. Ngang qua thống khổ, nỗi  chết. Và sự sống đã hồi sinh.
Chuyện anh mù, là kết đoạn và tóm tắt của lời dạy được ghi tóm của Tin Mừng thánh Máccô viết. Là, tóm lược cuộc sống và hành trình của mọi tín hữu Đức Kitô. Gồm tóm ấy, cho thấy trước kia ta cũng mù loà và nghèo đói, về nhiều thứ. Là Kitô hữu, khi lĩnh nhận ơn thanh tẩy, mắt ta đã mở rộng để thấy được ý nghĩa của cuộc sống. Biết, hồi hướng tận căn, mà trở về. Để rồi, lãnh nhận đường hướng mới cho đời mình. Mà thực hiện. Nay thì, ta sẵn sàng cùng Chúa đi Giêrusalem, với thị kiến rất rõ. Với, tự do rất thực.    

Friday, 26 October 2012

Lm Vũ Khởi Phụng CSsR: NGÀY NÀY, 50 NĂM TRƯỚC, CÔNG ĐỒNG VATICAN II KHAI MẠC


Roma, 11.10.1962: Quảng Trường Ðền Thánh Phêrô đông nghẹt người. Ống kính của các nhà báo, nhà đài quốc tế chấp chới. Ðúng 8g30 sáng, hai Cánh Cửa Ðồng của Ðiện Vatican mở rộng: Hàng ngàn vị Giám Mục áo mũ trắng toát trào ra như một bờ sông bất tận. Mỗi hàng sáu vị nối tiếp nhau từ những Bậc Thang Vương Cung, Scala Regia, đổ xuống Trụ Lang Bernini, rồi đi ra giữa Quảng Trường Ðến Thánh, rồi tiến thẳng vào Ðền.
Chưa bao giờ và ở đâu thấy nhiều Giám Mục thế. Tất cả hơn 2.500 vị, thuộc 133 dân tộc. Giữa những áo trắng và mũ nhọn của các Giám Mục thuộc nghi lễ La Tinh, thấy những màu áo vàng và mũ tròn, hoặc áo mũ đen trùm kín người, đó là các vị đến từ Trung Ðông cổ kính, những Giáo Hội thành lập từ những thế kỷ ban đầu, đôi khi từ thời các Tông Đồ, và cho đến nay vẫn còn giữ gìn nhiều truyền thống nguyên thủy. Nhưng đàng khác lại có những khuôn mặt mà 20 Công Đồng trước đó chưa bao giờ thấy: 70 vị da đen Phi Châu, 180 vị da vàng Á Ðông ( ấy là không kể các vị từ Trung Quốc và Miền Bắc Việt Nam không thể phó hội được ). Cảnh tượng đó cho thấy Hội Thánh Chúa đã dần dần đi vào lịch sử loài người như thế nào.
Nếu ta có thể tìm hiểu hành trạng của từng vị, cũng sẽ thấy thật đa dạng. Có vị xuất thân từ trong gia đình vua chúa, nhưng nhiều vị khác là con nhà nông dân, lao động hoặc tư sản thành thị. Ðức Hồng Y đầu tiên của Ấn Ðộ, ngài Gracias, dáng người uy nghi như một ông hoàng, nhưng thật ra đã sinh trưởng trong những khu phố nghèo lụp xụp. Ngay trong đoàn Việt Nam, Ðức Cha Ngô Ðình Thục là dòng dõi gia đình đại quan phong kiến thấm nhuần văn hóa nho giáo, nhưng Ðức Cha Nguyễn Kim Ðiền, trước khi làm Giám Mục Cần Thơ, lại làm nghề đạp xích lô, vì ngài thuộc Dòng Tiểu Ðệ Chúa Giêsu của Chân Phước De Foucauld ( vài năm sau, bác xích lô Kim Ðiền sẽ kế vị bậc đại quan Ngô Ðình Thục trên Tòa Tổng Giám Mục Huế, vì Đức Tin và Hội Thánh chẳng phải là của riêng một tầng lớp hay môi trường xã hội nào ).
Trong lãnh vực phụng tự, bề ngoài Giáo Hội La Tinh giống như một đại khối thống nhất, nghiên cứu kỹ sẽ thấy Phụng Vụ cũng có nhiều phương diện. Ðức Cha Dante, Trưởng Ban Nghi Lễ của Vatican, là người hết sức dị ứng với việc canh tân, suốt đời chưa bao giờ ngài chủ lễ mà cộng đoàn được đồng thanh thưa Kinh Phụng Vụ; nhưng từ Á Ðông, Châu Phi, Châu Mỹ La Tinh khá nhiều Giám Mục lại đi tiên phong trong cố gắng thích nghi Phụng Vụ. Ðức Cha Thừa Sai Van Bekkum ở Indonesia chẳng hạn, vừa là lý thuyết gia nổi tiếng quốc tế về canh tân Phụng Vụ, vừa có những sáng kiến thích ứng các nghi lễ với văn hóa địa phương, được cả bên giáo lẫn bên lương hết sức hâm mộ. Ðức Cha Zoungrana thì nghiên cứu đặc biệt các nghi thức mừng tuổi thành nhân của các bộ lạc vùng Thượng Volta ( Châu Phi ), có ý du nhập vào mục vụ địa phương. Giám Mục Thừa Sai Van Cauwelaert ở Congo cũng là một nhà lãnh đạo Giáo Hội đi đầu trong trào lưu “Hội Nhập Văn Hóa” với những nghi lễ thánh hiến trẻ sơ sinh cho Ðấng Tạo Hóa, và các kinh nguyện cho bệnh nhân, cho người sắp chết và cho tang lễ…
Trong lãnh vực tư tưởng thần học và trí thức, một số Hồng Y và Giám Mục ở Roma được coi là những đầu óc rất thủ cựu, như Ðức Hồng Y Ottaviani đứng đầu Bộ Thánh Vụ, ngài rất khắt khe với những thần học gia nào có tư tưởng không giống với những công thức lưu hành trong Giáo Hội từ thời Trung Cổ; Ðức Hồng Y Siri có tư tưởng cực hữu cả về thần học lẫn chính trị; Ðức Hồng Y Ruffini thì người ta nói rằng 40 năm trước ngài học rất thông minh, nhưng từ khi ngài ngồi vào ghế giáo sư thì ngài dứt khoát không tiếp thu, không chấp nhận thêm một điều gì mới nữa.
Ðàng khác lại có một đội ngũ Giám Mục có trí thức xuất sắc trong Giáo Hội. Ðứng đầu trong số này phải kể đến Ðức Hồng Y Montini, suốt 15 năm từ 1939 đến 1954, ngài kể như cánh tay mặt của Ðức Giáo Hoàng Piô XII; trong nhiệm vụ này, ngài đã tiếp xúc và trao đổi với mọi giới trong Giáo Hội, với mọi người ngài tạo ấn tượng về một trí tuệ sắc sảo, mẫn tiệp, quảng kiến, khiến cho hang giáo phẩm khắp nơi và giới trí thức quốc tế khâm phục. Nhân dân trầm trồ rằng ngài “thiên kinh vạn quyển”, ngày ngài chuyển từ Vatican về làm Tổng Giám Mục Milano, đồ đạc riêng của ngài chủ yếu gồm 90 thùng lớn, đầy những sách là sách, ( không đầy một năm sau ngày Công Ðồng khai mạc, ngài sẽ kế vị Ðức Gioan XXIII, với danh hiệu Phaolô VI, và đưa Công Dồng đến kết thúc tốt đẹp ). Cùng với ngài còn nhiều Giám Mục đến từ Pháp, Bỉ, Ðức, Áo, Hà Lan, Mỹ được kể là những nhà thần học và tư tưởng gia lớn như các Ðức Hồng Y Bea, Koenig, Suenens, v.v…
2.500 vị Giám Mục để coi sóc Hội Thánh Chúa trên toàn thế giới còn nhiều nghèo đói, bất công, còn bị chiến tranh đe dọa. Có những vị đã hòa mình hẳn với người nghèo. Ta đã thấy Ðức Cha Ðiền ở Việt Nam từng làm nghề đạp xích lô, thì ở Pháp cũng có Ðức Cha Ancel vẫn đang dành một nửa thời gian mỗi ngày đi làm công nhân nhà máy. Ở Chilê, Ðức Cha Larrain lấy 148 hecta đất của Tòa Giám Mục để chia cho dân nghèo. Ở Úc, Ðức Cha Jobst bỏ tiền mua 4.000 hecta đất để phục hồi kinh tế cho thổ dân bản địa.
Không chỉ sống với dân nghèo hoặc giúp đỡ dân nghèo, có những vị Giám Mục lớn tiếng đòi Giáo Hội phải sống nghèo thật sự. Ðức Cha Bellido ở Pêru tuyên bố: Một lãnh vực mà nhiều khi với những chủ ý rất tốt, chúng ta gây ra tai tiếng nơi người này, ngao ngán nơi người khác, đó là chúng ta thiếu sự đơn sơ khi bài trí Nhà Thờ, còn nghi lễ thì huy hoàng sang trọng. Chúng ta cứ hồn nhiên vô tội mà cực kỳ phí phạm tài lực để kiếm tìm những trang phục, trang hoàng tốn kém nhất, về mặt giá trị  thẩm mỹ thì đáng ngờ vực mà trong khi đó các con của Thiên Chúa thì khốn khổ vì đói, vì bệnh, vì lầm than. Ðó đúng là một nguyên cớ gây tai tiếng cho Giáo Hội ngày nay. Sự sang trọng không thích hợp với cảnh nghèo khó của thời đại này”.
Thời đại này không chỉ nghèo, đôi khi nó còn bắt bớ Giáo Hội thẳng thừng. Ða số các nước Xã Hội Chủ Nghĩa không có Giám Mục đến dự Công Ðồng; Ba Lan là một trong số ít nước cộng sản có được một số đại diện, trong đó nổi bật lên khuôn mặt anh dũng của Ðức Hồng Y Wyszynski. Theo sau Ðức Hồng Y có một vị Giám Mục trẻ khi ấy chưa được dư luận để ý nhiều: Ðức Cha Karol Wojtyla. Nhưng người ta sẽ biết đến ngài qua các khóa họp Công Ðồng, và 16 năm sau, ngài sẽ kế vị Thánh Phêrô với danh hiệu Gioan Phaolô II. Có hai vị Giám Mục Cuba được dự Công Ðồng, Ðức Cha Perez Serantes và Ðức Cha Boza Masvidal là vì hai ngài đã bị chính quyền trục xuất khỏi đất nước.
Nhưng không phải chỉ có các nước “sau bức màn sắt” mới làm khó dễ Giáo Hội. Ở những nước tự xưng là Công Giáo, với một chính thể, một chính quyền “Công Giáo” ta thấy Ðức Cha Ferreira Gomes bị trục xuất khỏi Bồ Ðào Nha vì ngài bênh vực quyền của công nhân được lên tiếng về các vấn đề chính trị, còn Ðức Cha Pildain cũng bị trục xuất khỏi Tây Ban Nha, vì ngài bênh vực những người kháng cự sự độc quyền của các công đoàn ( nghiệp đoàn ) quốc doanh. Dù ở đâu, xã hội nào, chính thể nào thì con đường của Giáo Hội nhiều khi vẫn là “con đường hẹp”.
Các Giám Mục không làm chính trị, nhưng nhiều khi đường lối chính trị có những hệ lụy khiên các ngài không thể không xác định thái độ và lập trường. Ðức Tổng Giám Mục Rummel ở New Orleans ( Mỹ ), cũng như hai Ðức Tổng Giám Mục Hurley và Mc Cann ở Nam Phi nổi tiếng vì các ngài chống phân biệt chủng tộc. Có những vị Giám Mục khác ở vào những vị trí đặc biệt nhạy cảm, như Ðức Cha Duval, người Pháp, làm Giám Mục ở Algérie mà thời điểm đó người Algérie đang có chiến tranh với người Pháp để giành độc lập cho đất nước; còn Ðức Hồng Y Doefner phải cai quản Giáo Phận Berlin ( Ðức ) vào thời điểm mà Berlin đang là nơi hai khối tư bản và cộng sản nắn gân nhau, nhiều lúc hồi hộp cứ nghĩ như một cuộc chiến tranh hủy diệt có thể xảy ra. Có những vị như Ðức Thương Phụ Meouchi ở Liban hay Ðức Cha Gutierrez Granier ở Bolivia đã góp công tạo ra giải pháp cho những cuộc khủng hoảng nội bộ nguy hiểm, đem lại hòa bình cho đất nước.
Một số các Đức Giám Mục chúng tôi nêu danh trên đây cho ta mường tượng được bao nhiêu vấn đề mà Giáo Hội ở các địa phương phải đối phó. Bao nhiêu hoàn cảnh là bấy nhiêu con người, với những mặt ưu, mặt khuyết. Các vị có những kinh nghiệm, những quá trình khác nhau, đôi khi mâu thuẫn nhau vì cuộc đời phức tạp và đa diện; nhưng tất cả đều nương vào niềm tin nơi Ðức Kitô. Hội Thánh đúng là cây lớn cho đủ loại chim trời đậu lại.
Cuối đoàn 2.500 Giám Mục, Ðức Thánh Cha Gioan XXIII xuất hiện, ngồi trên kiệu. Thực ra ngài chỉ muốn được đi bộ với các anh em Giám Mục. Thậm chí ngài than phiền rằng người ta muốn làm nhục ngài khi bắt ngài phải ngồi trên kiệu cho người khác khiêng. Nhưng cuối cùng ngài phải nhượng bộ vì Ban Lễ Nghi biện giải rằng ngài cần ngồi trên kiệu cao để quần chúng nhân dân rất đông đúc và đầy lòng mộ mến được nhìn thấy ngài. Ít ra ngồi trên cỗ kiệu truyền thống, Sedia Gestatoria, cao hơn đầu người, ngài có thể nhìn thấy giữa biển người Dân Chúa, dòng sông trắng của các Giám Mục từ Vatican tiến vào Quảng Trường, rồi vào Ðền Thánh Phêrô.
Ðó là công trình của ngài. Ngài đã đưa tất cả Hội Thánh về đây. 2.500 đấng kế vị các Tông Đồ, cùng với một đội ngũ đông đảo các chuyên viên và thần học gia sẽ cùng nhau hội họp, như khi xưa các Thánh Tông Ðồ đã hội họp để mong chờ, đón đợi ơn Thánh Thần, như Ðức Thánh Cha đã cầu nguyện khi ra Sắc Chỉ triệu tập Công Ðồng:
Xin Chúa tái hiện trong thời đại chúng con những điều kỳ diệu của Chúa như trong một lần Hiện Xuống mới. Xin ban cho Hội Thánh này được đồng tâm kiên trì cầu khẩn cùng với Ðức Maria, Thánh Mẫu Chúa Giêsu, và dưới sự lãnh đạo của Thánh Phêrô, được thấy nước Chúa Cứu Thế lan rộng, nước của chân lý, công lý và bình an. Amen”.
Lm. VŨ KHỞI PHỤNG, DCCT, 12.10.2012

Thursday, 25 October 2012

Lm Richard Leonard sj: Dù thương đau, vẫn hiên ngang mà bước tới




Sáng hôm ấy một ngày đẹp trời, 3 linh mục Dòng Phan Xi Cô, Đa Minh và Dòng Tên, kéo nhau xuống nơi chơi gôn, để giải khuây. Nhưng, thay vì được khuây khỏa, thì các vị lại chuốc lấy bực bõ, u sầu. Rất bực, vì nhóm bạn cùng chơi gôn hôm nay sao quá chậm lụt, chưa từng thấy. Banh gôn nhẹ, đánh tung tóe. Cờ cắm vội, chẳng buồn chạy lên. Kịp đến hố banh thứ 18 đủ điểm rồi, nhóm bạn thi đấu cũng chẳng buồn thúc giục các linh mục Dòng cứ thẳng tiến, đánh banh tiếp. Không dằn được cơn tiếc nuối, cả 3 linh mục định vượt lên phía trước, nói lời phải chăng với bọn người chơi chậm, để mất ăn. Hỏi ra mới biết, nhóm bạn hôm ấy toàn những người khiếm thị, làm sao chơi được hợp ý.
            Ân hận vì quá nóng lòng, vị linh mục dòng Phan Xi Cô định bụng hối lỗi bằng một động tác sẽ dâng các ý lễ cầu cho các bạn khiếm thị kia nhận phép mầu, để họ thấy được bầu trời trong xanh, quay trở lại. Riêng, có linh mục Dòng Đa Minh lại tuyên bố với đồng nghiệp, là: ông sẽ tìm cho ra vị bác sĩ nổi danh trên tỉnh, để chữa mắt cho nhóm bạn chơi gôn thiếu may mắn ấy. Còn, vị linh mục Dòng Tên lại chỉ biết phân bua: sao không để mấy ông ấy chơi gôn vào buổi tối, tiện hơn không?
            Với người Palestin đầu đời, mắc nhuốm đau thương tật nguyền không chỉ là vấn đề tài chánh, pháp lý khiến họ cam chịu một thời. Nhưng, còn bị xã hội ruồng rẫy hắt hủi, không được phép ở lại sống chung với cộng đoàn. Với dân thường thời Chúa sống. Kẻ nhuốm mắc đau thương tật nguyền còn bị coi như chịu hình phạt nặng nề Chúa gửi đến, do lỗi lầm mình sai phạm. Đi xa hơn, có người lại quan niệm rằng: tai ương, tật nguyền chắc chắn bắt nguồn từ bàn tay cứng rắn Cha truy tầm, không thể thốt.  
            Thời ấy, người phong cùi, khiếm thị, tật nguyền, hoặc xuất huyết rong kinh, đều bị xếp vào hạng thứ dân. Nghèo hèn. Mạt rệp. Chuyên bị người đời khinh rẻ. Không được chung sống với ai khác, vì sợ lây lan. Ngày nay cũng thế, dù ngành truyền thông đã phát triển, nhưng nhiều tín hữu Đạo Chúa vẫn quan niệm rất cổ, cho rằng: Chúa trừng phạt đám người “đồng tính luyến ái”, nên mới để tràn lan những bệnh hiểm nghèo, Sida, cúm heo cúm gà này khác. Qua tiếp cận với người mắc chứng thương đau/tật nguyền, Đức Giê-su đã chấp nhận bước vào đời trần thế, chuốc lấy thương đau, của mọi người.
            Trình thuật thánh Máccô hôm nay, rõ ràng là tay ăn xin tên BaTiMê thuộc giới thứ dân nghèo hèn, mạt rệp. Trình thuật kể rằng, y ta cứ mải lẽo đẽo theo sau môn đồ, và hành xử giống hệt giới cùng đinh, mạt rệp. Trong câu Chúa hỏi, Ngài đã nhấn mạnh:Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Hỏi như thế,Ngài muốn không những để BaTiMê tỏ bày niềm ao ước có được một lựa chọn dù đó có là bệnh nan y, cần thuốc chữa. Nhưng, Lời Chúa đã đem đến cho BaTiMê phẩm cách con người, anh phải có. Phẩm cách mà ai ai cũng cần phải có. Không riêng gì người tật nguyền. Bệnh tật.
            Michael Moynahan, kịch tác gia nổi tiếng người Mỹ, là tác giả của vở tuồng “Bartimaeus”, cũng từng có tư tưởng chủ động xoay quanh câu hỏi: anh muốn tôi làm gì cho anh? hệt như câu Chúa nói ở trình thuật hôm nay. Tác giả đã triển khai thêm câu hỏi Chúa gửi đến với người bệnh, tên BaTiMê. Nhưng ở đây, câu Chúa hỏi, đặt ra cho hết mọi người. Những người “nhuốm những đau thương”, nghèo hèn. Và, những người bình thường ở huyện, nữa. Khi được phép chọn lựa một cung cách cho chính mình, thì kẻ nghèo hèn mạt rệp tên là BaTiMê ra như nghe thấy tiếng gọi của Đấng, mà anh nghĩ rằng: khi sáng mắt, anh sẽ quay trở về những ngưỡng mộ, và cảm ơn. Người khiếm thị mạt rệp hôm nay, còn tự nhủ: may mà mình không thấy điều xấu xa vẫn có đó trước khi được sáng mắt. Bởi, nếu không sẽ cứ van nài, rồi thở than.
            Tương tự như thế, người nghèo đói/cùng khổ cũng tự hỏi lòng mình, xem mình có gan dạ đủ để xuyên phá rào cản, bước lên mà sẻ san cơn đói lâu nay đang hoành hành? Và, vị cao niên ốm yếu, sẽ tự nghĩ: không biết rồi ra có gặp được những người khi xưa bị tách rời cộng đoàn, để họ nhắc nhở mình về sự mỏng dòn/ngắn ngủi của cuộc đời? Cuối cùng, kẻ bị bách hại, cũng sẽ nài nỉ Chúa hãy để mắt đoái thương những người bị ức hiếp giam cầm, chẳng bao giờ đạt hạnh phúc. Và, cũng một câu hỏi tương tự được gửi đến với hết mọi người: Anh muốn tôi làm gì cho anh? Anh có muốn nhìn vào nội tâm xem mình xấu – đẹp ra sao không?  Nhìn vào nội tâm, còn để chiếu rọi phần sáng tối, trong người mình. Nhìn vào nội tâm, để tỉnh trí mà nhớ lại lời dặn xưa, của Đức Chúa.
            Màn kịch với các vấn nạn của Moynahan như trên, nhắc ta cần có nhận thức sâu sắc về nội tâm. Nhận thức nội tâm, sau khi thấy được cảnh sống của mọi người, ở chung quanh. Nhận thức nội tâm, để rồi đem đến cho ta sự tôn trọng phẩm cách con người. Phẩm cách có được sự chọn lựa và bổn phận, để ta có quyết tâm mà làm điều gì đó, hầu nhận ra được cảnh sống của người sống ở ngoài. Nơi thế giới có những điều và những người cùng khổ, ta vẫn thấy. Nói cách khác, ta đang ở trong vị thế có thể chọn lựa những gì mình muốn nhìn, muốn thấy trên đời. Bởi, không phải tất cả mọi thứ trên đời, đều là những thứ đáng cho ta để mắt, mà nhìn đến.
            Cuộc sống hằng ngày, vẫn thấy xảy đến nhiều bạo lực. Lạm dụng. Những lạm dụng, làm vấy bẩn phẩm cách con người. Những hành vi bạo động khiến ta nản lòng, không còn muốn chứng kiến cảnh tình của những người từng “nhuốm đau thương/tuyệt vọng”, nữa. Dù thế, ta vẫn có thể viện cớ này khác để né tránh, không muốn trực diện nỗi “đau thương/tuyệt vọng” đầy tra vấn. Của người. Của đời. Có can đảm chứng kiến cảnh tình đau thương/tuyệt vọng người khác đang sống, ta mới thấy nảy sinh tình thương yêu đùm bọc, cần có. Có chứng kiến hoặc bị thách thức vấn nạn, ta mới khuyến khích mọi người phải làm điều gì đó, hầu kiến tạo thế giới thích hợp hơn. Cho con người.   
            Tham dự Tiệc thánh hôm nay, mỗi người chúng ta được Chúa hỏi cũng một câu tương tự: Anh/chị muốn Tôi làm gì cho anh/chị, đây? Và, giả như câu đáp trả của ta, là: con muốn được nhìn thấy sự vật bên ngoài và cả phần tâm thức bên trong, để có một chọn lựa đích đáng, hầu phục vụ cho cuộc sống của người khác. Vậy nên, hãy cầu mong sao ta có lòng quả cảm dám đưa vai ra gánh vác những trọng trách Chúa luôn đính kèm theo quà tặng/ân sủng, Ngài thương ban.
            Cuộc đời, là phúc hay họa, dù “vương vấn nhiều lỗi phạm” hay cứ “chuốc lấy thương đau”, vẫn là quà tặng, từ Thiên Chúa. Quà, không chỉ là niềm vui sướng, rất hồ hởi. Mà còn là vấn nạn/cảnh tỉnh nhằm giúp ta nhìn xa, trông rộng. Trông và nhìn, không chỉ mầu sắc bên ngoài, mà cả vào nội tâm/bên trong. Để rồi, cùng với hết mọi người, bất chấp mọi “thương đau chuốc lấy nơi người”, ta vẫn cứ hiên ngang mà tiến bước. Theo Chúa.