Tuesday, 5 June 2012

Lm Nguyễn Thể HIện DCCT: LỄ CHÚA BA NGÔI



Bài Tin Mừng Mt 28, 16 – 20 là đoạn kết sách Tin Mừng theo Thánh Mátthêu, kể lại cho chúng ta cuộc hiện ra chính thức và long trọng của Chúa Kitô Phục Sinh với các Tông Đồ. Điểm nhấn không phải là chứng tỏ Chúa đã phục sinh, mà là trao sứ mạng cho các Tông Đồ, và qua các ông, cho toàn thể Hội Thánh.
Mở đầu bài Tin Mừng là cuộc gặp gỡ của các Tông Đồ với Chúa Phục Sinh: “Mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi” ( cc.16 – 17 ). Trước hết, Nhóm Mười Một đi đến một nơi do Chúa Giêsu ấn định, “tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến”. Sự kiện này mang nhiều ý nghĩa đặc biệt, rất đáng suy nghĩ đối với chúng ta hôm nay.
Cho đến lúc này, các đồ đệ chưa được thấy Đức Giêsu Phục Sinh. Nhưng các ông vẫn làm theo một lệnh truyền của Người, vì lẽ, trong tư cách là những đồ đệ đích thật, các ông tin tưởng vào lời của Thầy. Theo sứ điệp do các phụ nữ truyền đạt, cuộc hành trình đến ngọn núi ở Galilê này được thực hiện trong ý thức rằng Đấng Phục Sinh đã gọi họ là anh em, và trong niềm hy vọng mãnh liệt rằng họ sẽ được gặp Đức Giêsu ở đó.
Cuộc hành trình tới Galilê làm cho các đồ đệ nhớ về Thầy Giêsu và suy niệm về những thực tại mà các ông đã từng trải nghiệm cùng với Người trong suốt cuộc hành trình dài trước đây, như đã được kể trong 16, 21 – 21, 34. Trong cuộc hành trình đó, Thầy Giêsu đã nhiều lần nói trước cho họ biết về những gì sẽ xảy ra tại Giêrusalem, tức là cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Người ( 16, 21; 17, 22 – 23; 20, 17 – 19 ). Khi ấy, các đồ đệ không hiểu ( 16, 22 – 23; 20, 20 – 23 ) và Thầy Giêsu đã dạy cho các ông biết đâu là điều cốt yếu đối với các ông trong cuộc đi theo Người ( 16, 24 – 28; 18, 1 – 35; 20, 24 – 28 ). Bây giờ, khi tất cả những điều được báo trước ấy đã xảy đến, các đồ đệ đi lại cuộc hành trình đó và sống lại các kinh nghiệm của cuộc hành trình trước đây trong ánh sáng mới của mầu nhiệm Phục Sinh.
Các đồ đệ là chứng nhân của những giáo huấn và những hành động quyền năng mà Thầy Giêsu đã thực hiện suốt cuộc hành trình cùng các ông từ Galilê. Các thực tại đó cũng cần được chiêm nghiệm lại dưới ánh sáng mới của cuộc Phục Sinh. Các ông sẽ hiểu ra rằng tất cả các hoạt động của Đức Giêsu đều được xác nhận giá trị do cuộc phục sinh của Người, và chỉ có thể hiểu đúng nếu xuất phát từ mầu nhiệm Phục Sinh mà thôi.
Điểm đến chính xác của cuộc hành trình của Nhóm Mười Một sẽ là ngọn núi. Ngọn núi đã được nói đến lần đầu tiên trong câu 5, 1 và làm thành khung cảnh của bài giảng đầu tiên của Đức Giêsu, thường được gọi là “Bài giảng trên núi”. Ở câu 5, 1, lần đầu tiên chúng ta gặp biểu thức “các đồ đệ của Người”; họ được trình bày như là những người gần gũi nhất của Đức Giêsu và là đối tượng đầu tiên của những lời giáo huấn của Người. Được truyền phải đi đến ngọn núi, tức là các đồ đệ được kêu gọi tìm về nơi chốn khởi đầu mối tương quan chung của họ với Thầy Giêsu, và trước khi gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh, họ phải trải nghiệm lại toàn bộ cuộc hành trình thế tạm của Người.
Đến ngọn núi ở Galilê, các đồ đệ được gặp Đức Giêsu Phục Sinh. Nhưng sự kiện các ông thấy Người đã chỉ được mô tả rất vắn tắt bằng một động tính từ “khi thấy Người”. Sau đó là hai phản ứng của các ông: bái lạy và hoài nghi. Bằng việc bái lạy, các ông diễn tả cách hiểu của mình về con người và phẩm giá cao cả của Đức Giêsu. Nhưng đồng thời, xảy đến sự hoài nghi. Tác giả Tin Mừng viết: “hôi dê êdistasan”. Trong Tân Ước, động từ “êdistazêin” ( nghi ngờ ) chỉ xuất hiện trong Mt 14, 31 và 28, 17. Ở 14, 31 sự nghi ngờ của ông Phêrô liên quan đến quyền năng của Đức Giêsu. Ở 28, 17 thì chính con người và sự hiện diện của Đức Giêsu bị các đồ đệ nghi ngờ. Vấn đề tranh luận là với cách nói “hôi dê”, tác giả Tin Mừng muốn nói tất cả Nhóm Mười Một nghi ngờ hay chỉ một số người trong họ mà thôi. Xem ra cả hai cách giải thích đều có thể đúng ( bản Vulgata đọc là: “quidam autem dubitaverunt” ). Dù hiểu theo cách nào, thì chuyện quan trọng vẫn là mối tương quan của Nhóm Mười Một với Đức Giêsu Phục Sinh chưa được hoàn hảo. Cuộc gặp gỡ Đấng Phục Sinh còn phải được hoàn thành và xác nhận bởi sự kiện Chúa Phục Sinh ngỏ lời với họ.
“Đức Giêsu đến gần, nói với các ông” ( c. 18a ). Từ bây giờ, chỉ một mình Đức Giêsu hành động. Người đến gần các môn đệ và nói với họ. Tác giả Mátthêu có vẻ ưa dùng động từ “đến gần” ( tổng cộng đến 52 lần, trong khi Máccô 5 lần, Luca 10 lần và Gioan chỉ 1 lần ). Trong phần lớn các trường hợp ( 38 lần ), chính Đức Giêsu là đích của sự “đến gần” này. Chỉ có 2 trường hợp là Đức Giêsu “đến gần” và điểm đến luôn là các đồ đệ. Ở cuối trình thuật về biến cố hiển dung, Đức Giêsu đến gần các đồ đệ khi các ông đang rất đỗi sợ hãi, ngã sấp mặt xuống ( 17, 6 ); Người chạm vào các ông và bảo: “Trỗi dậy đi, đừng sợ” ( 17, 7 ), tức là Người chủ động thiết lập một sự hiệp thông với các đồ đệ đang tê liệt vì sợ hãi và làm cho các ông trở nên mạnh mẽ. Ở câu 28, 17 các đồ đệ bái lạy Đức Giêsu, tức là đang ở tư thế cúi mình xuống đất, và đồng thời, ( ít là ) vài người trong số đang trải qua tâm trạng bối rối nghi nan. Một lần nữa, Đức Giêsu đến gần họ, và với lời của Người, Đức Giêsu định hướng cho cuộc sống và sứ mạng của họ trong tương lai. Người cho các ông biết Người là ai, quyền năng mà Người hiện có là thế nào, và họ cần phải làm gì…
Lời đầu tiên Đức Giêsu nói với các đồ đệ là một xác quyết quan trọng: "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” ( c. 18b ). Người cho các ông biết Người đã nhận được gì từ Chúa Cha, và vị thế của Người từ nay là thế nào. Động từ “trao” được đặt ở thì aorist dạng thụ động thần học, cho thấy quyền bính mà Đức Giêsu Phục Sinh đã lãnh nhận có nguồn gốc là chính Thiên Chúa. Thì aorist cho biết việc trao quyền bính này đã xảy ra. Vậy đây không phải là một hy vọng hay một lời hứa, mà là một thực tại đã xảy đến dứt khoát. Đặc tính toàn diện của quyền bính mà Đức Giêsu đang có, được tác giả nhấn mạnh cách đặc biệt, cả về phương diện bản chất lẫn về phương diện phạm vi: “toàn quyền” và “trên trời dưới đất” ( tức là toàn thể vũ trụ ). Quyền bính này, như thế, tương ứng với quyền bính của chính Thiên Chúa. Trong quyền bính như thế, căn tính của Chúa Con được thể hiện.
Lời thứ hai Đức Giêsu nói với các đồ đệ là một lệnh truyền long trọng: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” ( cc. 19 – 20a ). Lệnh truyền “làm cho muôn dân trở thành môn đệ” được bắt đầu bằng hạn từ “vậy”, cho thấy lệnh truyền đó được đặt nền tảng trên những gì vừa được khẳng định ở phía trước. Nói cách khác, nhiệm vụ thừa sai của Hội Thánh đặt nền tảng trên mầu nhiệm toàn quyền trên trời dưới đất đã được Chúa Cha trao cho Chúa Giêsu.
Hạn từ “môn đệ” xuất hiện 65 lần trong Mt 5, 1 – 28, 16 với ý nghĩa chỉ về các môn đệ của Đức Giêsu và luôn luôn được đặt ở số nhiều. Trong tư cách là một cộng đoàn nhỏ, họ hiện diện bên cạnh Đức Giêsu trong suốt hành trình của Người từ bài giảng trên núi đến cuộc hiện ra của Đấng Phục Sinh. Mối tương quan “môn đệ – tôn sư” này là yếu tố nền tảng, diễn tả và xác định sự hiệp nhất nên một của họ với Đức Giêsu và là nền tảng cho sự hiện diện liên tục của họ bên cạnh Người. Đồng thời, cũng chính mối tương quan đó với Đức Giêsu lại xác định mối tương quan của họ với nhau. Tất cả các đồ đệ đều chung nhau tư cách là môn đệ của Đức Giêsu; tư cách đó làm cho họ hiệp nhất với nhau và tạo thành một cộng đoàn thực sự chung quanh Đức Giêsu.
Bây giờ, Chúa Phục Sinh trao phó cho họ nhiệm vụ kéo dài và đào sâu kinh nghiệm làm môn đệ đó của họ cho muôn dân. Như thế, tất cả những gì mà tác giả Tin Mừng Mátthêu đã nói trong suốt cuốn sách về tương quan giữa Đức Giêsu và các môn đệ Người, đã không hề là chuyện quá khứ bị vượt quá rồi, nhưng là những thực tại luôn luôn có giá trị căn bản đối với nhiệm vụ của họ trong hiện tại và tương lai. Mối tương quan thiết thân của họ với Đức Giêsu đã trở thành khuôn mẫu phổ quát cho mối tương quan giữa người ta với Người. Điều mà họ phải làm cho thế giới, trước hết, không phải là đưa ra những giáo huấn, những huấn lệnh, những lý thuyết hay chủ nghĩa lỗi lạc, mà là mối tương quan thiết thân với chính Đức Giêsu, trong tương quan đó, các đồ đệ hoàn toàn tin tưởng không điều kiện vào Thầy Giêsu và hoàn toàn đặt mình trong sự dẫn dắt của Thầy Giêsu.
Lệnh truyền “Anh em hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ” cũng bao hàm nhiệm vụ của các môn đệ là biến đổi toàn nhân loại, tức là tất cả mọi dân, thành một cộng đoàn vĩ đại. Tư cách là đồ đệ nối kết con người với Đức Giêsu đồng thời nối kết con người lại với nhau. Trở thành môn đệ của Đức Giêsu cũng đồng thời là bước vào cộng đoàn các đồ đệ của Người.
Anh em hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ” là nội dung chính yếu trong lệnh truyền của Chúa Phục Sinh cho các môn đệ của Người. Ngoài ra, có ba hành động khác được nối kết vào với nội dung chính yếu đó: đi, làm phép rửa dạy bảo. Ba hành động này được trình bày, về mặt ngữ pháp, bởi ba động tính từ. Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ của Người phải lên đường, chứ không ngồi yên ở nhà mà chờ đợi muôn dân đến để làm cho họ thành môn đệ của Chúa. Hội Thánh thừa sai luôn luôn hiện hữu trong tư thế đi đến với muôn dân, một cách tự do, năng động và thân thiện. Hội Thánh “làm cho muôn dân trở thành môn đệ” bằng cách “làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền”. Mối tương quan thiết thân với Đức Giêsu, Vị Thầy duy nhất, là mối tương quan nền tảng. Người ta trở thành môn đệ bằng cách đón nhận phép rửa nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và sống tư cách môn đệ bằng cách lắng nghe và tuân giữ lệnh truyền của Đức Giêsu.
Lời thứ ba Đức Giêsu nói với các môn đệ là một sự bảo đảm trợ giúp: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" ( c. 20b ). Đức Giêsu đã trao cho các môn đệ sứ mạng thừa sai phổ quát, và bây giờ, Người bảo đảm sẽ ban cho các ông quyền năng trợ giúp của chính Người. Quyền năng này trước hết liên quan đến việc thi hành sứ mạng và làm cho những người được sai đi trở nên vững mạnh. Nhóm Mười Một phải làm cho muôn dân trở thành đồ đệ của Chúa, phải làm phép rửa cho họ và dạy dỗ họ, nhưng chính Đức Giêsu ở với các ông và hoạt động qua các ông.
Gợi ý suy niệm và chia sẻ
1. Tin Mừng theo Thánh Mátthêu kết thúc với lời hứa trợ giúp long trọng ( c. 20b ), tức là kết thúc với việc mở ra không giới hạn và hoàn toàn hướng đến sứ vụ phổ quát. Tác giả không nói gì về việc Chúa Giêsu Phục Sinh biến đi, càng không nói Người đã “lên trời”. Ông cũng chẳng nói gì về việc các môn đệ thực hiện lệnh truyền của Đức Giêsu. Bằng cách đó, hình như tác giả muốn cho thấy giá trị liên tục của lệnh truyền thừa sai, đồng thời khẳng định sự hiện diện thường hằng và đầy quyền năng của Đức Giêsu cho đến ngày tận thế.
2. Để đi đến chỗ được gặp Chúa Giêsu Phục Sinh, Nhóm Mười Một đã trải qua một cuộc hành trình “đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến”. Các ông đã đi trong sự tin tưởng vào lệnh truyền của Thầy, trong ý thức mạnh mẽ rằng Đấng Phục Sinh đã gọi họ là anh em, và trong niềm hy vọng mãnh liệt rằng họ sẽ được gặp Đức Giêsu ở đó. Có lẽ đó cũng là những tâm tình, xác tín và hy vọng mà chúng ta phải có trong hành trình đức tin hôm nay.
3. Sứ mạng thừa sai của Hội Thánh là “làm cho muôn dân trở thành môn đệ” bằng cách “làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Điều Hội Thánh đem đến cho thế giới trước hết không phải là những lý thuyết hay chủ nghĩa lỗi lạc, mà là mối tương quan thiết thân với chính Đức Giêsu, trong tương quan đó, các đồ đệ hoàn toàn tin tưởng không điều kiện vào Thầy Giêsu và hoàn toàn đặt mình trong sự dẫn dắt của Thầy Giêsu. Lệnh truyền “Anh em hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ” cũng bao hàm nhiệm vụ của các môn đệ là biến đổi toàn nhân loại, tức là tất cả mọi dân, thành một cộng đoàn vĩ đại. Và là thành cộng đoàn đó “nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.
Lm. NGUYỄN THỂ HIỆN, DCCT, 2012

No comments: