Tôi sinh ra
là đứa út ít trong nhà. Bố mẹ tôi đã chủ trương đặt tên Thánh cho các con, hễ
con trai thì ngoài tên riêng được thêm tên của bố, hễ con gái thì ngoài tên
riêng được thêm tên của Mẹ. Thế là tôi có được tên Thánh thật dài: Giuse Maria
Antôn. Ba mươi ba năm sau, khấn DCCT ngày 1 tháng 8, tôi được thêm tên Thánh An
Phong. Thế là tôi luôn khoe với mọi người, rằng mình được mừng Bổn Mạng gần
như... quanh năm: Thánh Giuse 2 lần, Thánh Antôn và Thánh An Phong, mỗi vị 1
lần, riêng Đức Mẹ thì ngoài các lễ trọng còn thêm 52 lần thứ bảy hằng tuần.
Nghe vậy cứ
ngỡ tôi đạo đức sốt sắng ghê lắm, con cưng Đức Mẹ mà ! Thưa, không được như thế
đâu, tôi viết bài này không hẳn như một
hồi ký, nhưng xin được như một hồi ức về Mẹ, chia sẻ với mọi người nhưng thật
ra là để chính mình có cơ hội để quỳ xuống cúi đầu xin lỗi Mẹ, để rồi sẽ yêu
mến gắn bó với Mẹ nhiều hơn, thật hơn, sâu hơn.
Đọc những
lời bộc bạch tâm sự này, nếu quý độc giả thấy có thể đồng cảm được ở một góc
nào, một mảnh nào đó, tôi sẽ mừng ghê lắm và chúng ta sẽ càng thân nhau hơn
trong tình nghĩa cùng là con cái của Mẹ.
Trước ngày
30 tháng 4, tôi chỉ là một chú bé học sinh thành phố, ham chơi, lắm trò nghịch
ngợm, tuy nhiên cũng đã bắt đầu nếm trải những nỗi kinh sợ máu lửa và bom đạn
của cuộc đảo chính 1963, của Tết Mậu Thân 1968, của mùa hè đỏ lửa 1972, và của
những ngày tranh tối tranh sáng 1975.
Mới ba, bốn
tuổi đầu, đi ông nha sĩ quen ở gần chợ Tân Định để nhổ mấy cái răng sữa bị sâu,
tôi đã chứng kiến những cuộc biểu tình phất phới những tấm áo vàng của Nhà Phật
với gạch đá, ống nước bằng sắt và lựu đạn cay trước cuộc đảo chính 1 tháng 11
năm 63, lật đổ ông Ngô Đình Diệm.
Mới chín,
mười tuổi, mê mẩn với trò đốt pháo đêm giao thừa Tết Mậu Thân 1968 thì ngay sau
đó đã được nghe súng AK47 và B40 của quân Giải Phóng nằm vùng nổ rền ngay trước
hiên nhà. Sau đó, thì hằng đêm, cả nhà tôi 8 người cùng chui vào cái hầm nổi
diện tích chỉ có 4 mét vuông, chất đầy bao cát ngay giữa nhà, để may ra thoát
chết nếu có pháo kích của “mấy ổng” bằng hỏa tiễn 122 ly từ miệt Hóc Môn rót vô
tội vạ vào nội ô Sàigòn.
Và, may quá,
giữa cái không khí binh biến và chiến tranh chết chóc hãi hùng ấy, ký ức niên
thiếu của tôi còn được ghi dấu không phai những kỷ niệm về Đức Mẹ.
Vâng, năm
1965, lúc ấy tôi mới lên sáu, bé xíu, đang học tiểu học với các Nữ Tu Dòng Đức
Bà Truyền Giáo ( Notre Dame des Missions ) ở Thị Nghè, đi học được nghe các dì
kể chuyện, về nhà lại được ba mẹ tôi cho xem ảnh, cho đọc báo Thăng Tiến nên
bây giờ còn nhớ rõ lắm. Pho tượng Đức Mẹ Fatima gương mặt thật đẹp nhưng cũng
thật buồn, một giọt nước mắt luôn đọng nơi cánh mũi, ánh mắt nhìn sâu thăm
thẳm, hai cánh tay đưa ra với một tràng chuỗi lấp lánh long lanh, như muốn
trao, lại nửa như muốn níu, muốn kéo, muốn vớt lấy đàn con khốn khổ.
Tôi nghe gọi tên “Đức Mẹ Thánh Du”, rằng Mẹ đã đi khắp các nước trên thế
giới, rồi nay Mẹ đến thăm dân Việt, đất Việt. Mẹ không chỉ đến các Trung Tâm
Hành Hương lớn và các Nhà Thờ Chính Tòa của các Giáo Phận, Mẹ vào cả Khám Chí
Hòa gặp các tù nhân, vào Tổng Y Viện Công Hòa gặp các thương bệnh binh. Mẹ đến
tận cầu Hiền Lương, sông Bến Hải, nơi lúc ấy còn cắt đôi đất nước... Bài Thánh
Ca của nhạc sĩ Hải Linh sáng tác từ xa xưa ngoài Bắc trước thời di cư, nay được
cất lên trong đầm đìa nước mắt: “Mẹ ơi, đoái thương xem nước Việt Nam, trời u
ám chiến tranh điêu tàn, Mẹ hãy giơ tay ban phúc Bình An, nước Việt Nam qua
phút nguy nan”.
Ở Giáo Xứ
Phanxicô Đakao của tôi khi ấy có tổ chức cho từng gia đình đón Đức Mẹ Fatima về
nhà, rồi cả xóm, các liên gia kéo đến, cả những người Phật Giáo ở gần đó, tất
cả quây quần bên Mẹ đọc kinh lần chuỗi, hát Thánh Ca thật là sốt sắng. Ngay đám
nhóc tì chúng tôi ngày thường hò hét chạy nhảy linh tinh, bỗng nhiên cũng biết
ngồi chăm chú khoanh tay xếp bằng trên những chiếc chiếu trải dưới n ền nhà,
sát ngay bàn thờ đặt tượng Mẹ. Của đáng tội, có buồn ngủ quá thì nằm xoài ra
đấy cũng chẳng ai la mắng, mắt nhắm tịt nhưng mà có chịu ngủ đâu, tai vẫn lắng
nghe từng vần hát cung kinh ngân nga da diết.
Đầu năm
1974, Đức Mẹ Fatima lại Thánh Du đến Việt Nam một lần
nữa. Lúc ấy chiến sự Bắc Nam đã dữ dội
lắm rồi. Mẹ lại khóc, cả đất nước, người giáo người lương cùng khóc. Trong một
buổi cung nghinh tại Nhà Thờ Đức Bà Sàigòn, đám đông hàng vạn người đã vây kín
các lối đi, các cửa ngõ, không cách nào đưa Đức Mẹ ra đi.
Sau này tôi
nghe kể một giai thoại: cha Tiến Lộc, DCCT, đã nẩy ra sáng kiến, đề nghị Ban Tổ
Chức cho ngay một xe cứu thương hụ còi chạy đến, rẽ đám đông để đưa được đuôi
xe đến một ngách bên hông Nhà Thờ Chính Tòa. Và Đức Mẹ đã được bọc kín bằng mấy
tấm vải trắng, đặt nằm lên băngca khiêng ra xe như một người bệnh đang cần đưa
đi cấp cứu. Và thế là Mẹ đã được “cứu giúp” kịp thời như Mẹ đã và vẫn luôn cứu
giúp con cái của Mẹ trong những khoảnh khắc tử sinh.
Sang năm
1975, vừa hết Tết thì gần như mỗi ngày, lại thêm một tỉnh chìm trong lửa khói,
đoàn dân tỵ nạn vừa chạy từ tỉnh bên cạnh về, chưa kịp dựng xong lều bạt tạm
cư, đã lại nháo nhào bỏ chạy tiếp. Người Sàigòn chúng tôi lúc ấy đâm ra ngơ
ngác. Khắp nơi người ta chạy về thành phố của mình, đến phiên mình thì biết
chạy đi đâu ?
Tôi đã từng
được bố tôi cho xem bức ảnh bà cụ di cư 54 từ Bắc vào Nam, của nả chẳng có gì
ngoài một giỏ cói gánh vai, thế mà tay vẫn cặp theo bằng được bức ảnh Mẹ Hằng
Cứu Giúp. Bây giờ hơn mươi năm sau, tôi lại thấy cũng một bà già hao hao như
thế, cũng chít khăn mỏ quạ, cũng răng đen mã tấu, chạy từ Dốc Mơ, Gia Kiệm về,
thấy đất Sàigòn có lẽ cũng không ổn, lại loay hoay định tìm đường chạy tỵ nạn
tiếp về đến Rạch Giá, tay khư khư ôm một pho tượng Đức Mẹ Fatima mà hình như
lòng thì tin chắc rằng chính Mẹ mới là người đang ôm mình vào lòng.
Ngày 8 tháng
4, tôi đang ôn bài chuẩn bị cho kỳ thi Brevet thì bom nổ ngay giữa lòng Sàigòn.
Tấm sàn gác gỗ tôi đang nằm như thụng xuống rồi bật dội lên. Người ta ném bom
Dinh Độc Lập. Cả thành phố kinh hoàng xôn xao. Lính bắt đầu đóng chốt, giăng
kẽm gai các cửa ngõ vào Sàigòn. Tin tức lan nhanh, nhật báo bán đắt như tôm
tươi, vật giá gạo sữa và xăng nhớt tăng chóng mặt.
Hôm sau, gia
đình tôi được tin ông anh rể là sĩ quan bị phục kích bắn chết ở Hóc Môn. Cả nhà
lên nhận xác người thân trên Nghĩa Trang Quân Đội giữa tiếng khóc như ri của
mấy chục bà vợ lính ôm ghì xác chồng, mấy trăm đứa trẻ con lính tròn xoe mắt
nhìn xác bố. Buổi chiều mây mù ảm đạm, chợt có tiếng mẹ tôi bắt kinh Kính Mừng,
thế là mọi người râm ran đọc theo, cả những gia đình không Công Giáo cũng như
lắng nỗi đau lại, kìm nén và chịu đựng.
Chiều 28
tháng 4, tôi đang dự Thánh Lễ chiều ở Nhà Thờ Phanxicô Đakao thì bom lại nổ như
sấm rền, súng đại liên và cao xạ giật đùng đùng như nhịp chày giã từng tràng
tức muốn vỡ lồng ngực. Sau này mới biết có lại có máy bay phản lực ném bom Dinh
Độc Lập. Sau khi cho rước Lễ, cha Sở cho anh chị em Giáo Dân chạy lên hẳn Cung
Thánh để vào nấp sâu trong Tu Viện, riêng tôi thì liều lĩnh chạy về nhà, cứ nép
sát các bức tường dọc phố mà đi, tránh những lằn đạn nảy tung trên mặt đường
nhựa.
Tôi về được
đến nhà thì thấy cả gia đình đang ngồi xệp dưới đất ở phòng trong, hướng mắt
lên bàn thờ mà líu ríu đọc kinh. Vôi vữa trên trần rơi xuống từng đợt, bức
tượng Đức Mẹ đặt trên bệ cao như rung rinh theo nhịp bom đạn hung hãn. Không ai
bình tĩnh để nhớ mà đọc được một kinh nào cho ra đầu ra đuôi, cuối cùng lại
vẫn... “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và
trong giờ lâm tử.”
Cứ thế, mấy
ngày liên tiếp, dân Sàigòn sống trong hoang mang sợ hãi của một cuộc chiến đã
gần tàn, tiếng máy bay gầm rú trên trời, tiếng xe chạy hỗn loạn trên đường,
tiếng người lạc nhau gọi nhau í ới, tiếng trẻ con sơ sinh khóc ngằn ngặt, thỉnh
thoảng nơi này chỗ kia lại bùng lên một vụ nổ, một đám cháy và những cuộc xô
xát hôi của hỗn loạn.
Rồi 30 tháng
4... Không biết bao nhiêu người đã ra đi và bao nhiêu người ở lại. Cũng chưa có
ai thống kê được chính xác bao nhiêu người đã nằm xuống, phía bên này lẫn phía
bên kia...
Tôi học ba
năm cuối cấp 3 ở ba trường khác nhau. Trùng hợp thật dễ thương, tôi đã khởi đầu
với một trường tiểu học của các Nữ Tu Dòng Đức Bà Truyền Giáo ( Notre Dame des
Missions ), đến năm lớp 12 kết thúc quãng đời Trung Học, tôi lại được gặp các
Nữ Tu Dòng Đức Bà ( Dòng các nữ Kinh Sĩ Thánh Augustin ), vẫn quen được gọi là
Regina Mundi. Đức Mẹ tuy được tôn dương như một bà quý phái sang trọng ( Notre
Dame, Our Lady ) nhưng với nhận thức của một chú thiếu niên mới lớn, tôi đã
đồng hóa một số Nữ Tu hiền hòa nhân hậu, lại vui vẻ nhỏ nhẹ, cởi mở dễ thương
với chính Đức Mẹ, Đấng cứ ngỡ là cao xa cách biệt, triều thiên lóng lánh đứng
trên bệ cao là cả và cõi đất này.
Hình như tất
cả để chuẩn bị cho sau này tôi được đến với Đức Mẹ gần hơn nữa, thân tình hơn
nữa, trong DCCT với Mẹ Hằng Cứu Giúp, tước hiệu nếu được dịch sát, cũng phải
được vinh danh là Đức Bà ( Notre Dame du Perpétuel Secours – Our Lady of
Perpetual Help ).
Với hai Nhà
Dòng Đức Bà, tôi xin ghi nhớ mãi công ơn của các Nữ Tu đã dạy dỗ tôi, đặc biệt
là các vị đã được Chúa gọi về: Sr. Jeanne de Valois, Sr. Raphael, Sr. Paul, Sr.
Joseph Lê Thị Thơm và cô giáo Tâm Lý Chiều Sâu, Sr. Tô Thị Ánh.
Còn nhớ những năm 1977 – 1978, vừa mới qua biến cố 75 không lâu, bao
nhiêu là xáo trộn trong xã hội và trên toàn đất nước, vậy mà sao buổi sáng hễ
cứ lọt được vào khoảng sân trường trải sỏi và nhiều bóng cây râm mát của Dòng
Đức Bà, lũ học trò con trai chúng tôi như thể tìm được một không gian bình yên
và nhân ái, thanh cao và thánh thiện, thoát khỏi mọi thứ mít-tinh, cờ quạt,
khẩu hiệu, ồn ào xôn xao.
Chắc có lẽ
bên Sở Giáo Dục cũng không thể lường được là một ngôi Nguyện Đường xinh xắn ấm
áp nằm lọt ngay giữa khuôn viên một trường học cấp 3 của Nhà Nước XHCN lại có
một tác dụng tâm linh sâu xa tuyệt vời như thế nào đối với chúng tôi lúc ấy, cả
dân Công Giáo cũng như bên lương, cả đối với các đoàn viên Thanh Niên Cộng Sản
!
Thi tốt nghiệp Phổ Thông ( nay gọi là Tú Tài ) vừa xong, cũng là lúc bạn
bè chúng tôi xa nhau, mất nhau, một loạt đi vượt biên, khá nhiều bạn phải theo
gia đình đi Kinh Tế Mới hoặc phải vào đời sớm để mưu sinh vì trong nhà còn có
người đi học tập cải tạo. Chiến tranh biên giới Tây Nam nổ
bùng, một số bạn trai phải đi bộ đội hoặc thanh niên xung phong sang tận Kampuchea. Chỉ còn một số ít lọt được vào Đại Học.
Bản thân tôi
cũng đinh ninh mình đi thi vào trường Kiến Trúc chơi cho vui vậy thôi, lý lịch
gồm đủ bộ: Bắc Kỳ, Công Giáo di cư, bố ngụy quyền, anh ngụy quân, thành phần
tiểu tư sản trí thức thành thị... thì làm gì mà dám mơ tưởng đến chuyện làm
sinh viên ?
Hôm ấy, tôi đi chơi lông bông cho vơi sự đời với mấy đứa bạn, đến trưa
về nhà, chị tôi bảo: “Sáng nay mẹ đang quét sân thì có thư, ba mở xem thì ra
giấy báo cậu được gọi trình diện trường Kiến Trúc. Ba đã bắt cả nhà vào quỳ gối
trước bàn thờ đọc kinh lần chuỗi tạ ơn Đức Mẹ đấy ! Ba bảo đây là đứa con đầu
tiên trong dòng họ nội ngoại được Mẹ thương cầu bầu cho vào được Đại Học !”
Mà đúng thật
là phép lạ, sau này tôi vào trường rồi, tìm hiểu mới biết bài vẽ của tôi rất
tốt nhưng vẫn bị đánh rớt vì lý lịch quá xấu, thế nhưng sau khi gọi tập trung
đợt một, có quá nhiều bạn không ra trình diện, có lẽ vì đã vượt biên, thiếu túc
số trầm trọng, trường phải xét đậu vớt. Và thế là tôi được công nhận là sinh
viên của Nhà Nước, hàng tháng lãnh học bổng 18 đồng, được mua gạo, mua nhu yếu
phẩm với giá cực rẻ, lại được cho cha mẹ “ăn theo” mấy chục ký lương thực ngay
trong giai đoạn bao cấp, cả nước đang phải ăn bo bo với khoai lang trừ cơm !
Hai mươi năm
đầu đời của tôi cuối cùng được lại ghi dấu bằng một biến cố sinh tử mà tôi tin
chắc mình đã được Đức Mẹ gìn giữ. Xập tối một ngày cuối năm 1979, tôi phải vào
Nhà Thương Sàigòn cấp cứu, cứ ngỡ là đau bụng lình xình, không ngờ chỉ tý nữa
thôi là vỡ ruột thừa ! Ca mổ của tôi là ca thứ tư, các bác sĩ và y tá đã quá
đuối sức với những ca phức tạp trước đó, nhưng mạng sống tôi đã được cứu kịp
thời.
Nằm trong phòng hậu phẫu, tôi vẫn còn thiêm thiếp trong cơn nửa tỉnh nửa
mê, chỉ biết tay mình đang nắm thật chắc một bàn tay ai đó để bình an thiếp vào
giấc ngủ. Đến sáng, tôi mở mắt thì thấy ba tôi đang ngồi gục đầu lên giường
bệnh của tôi, một tay nắm chặt bàn tay tôi, một tay cầm xâu chuỗi, như thể ba
tôi muốn làm một gạch nối giữa đứa con trai út đang thập tử nhất sinh với Đức
Mẹ, Mẹ Hằng Cứu Giúp.
Vậy đó, bây
giờ nhìn lại đã mấy mươi năm trôi qua, ký ức tôi cũng một phần nhạt phai, chỉ
còn giữ lại những nét hằn sâu của lịch sử và những vết sẹo từ các thương tích
của chính đời mình, của bạn bè tôi, của từng gia đình, từng con người thời
chiến tranh loạn ly và cả thời hậu chiến, tưởng là đã hòa bình nhưng vẫn có quá
nhiều tang tóc đổ vỡ.
Và tôi cảm
nhận rõ, tất cả, những người quanh tôi, lương lẫn giáo, miền Bắc miền Nam,
người thắng kẻ thua, vô thần hãy tín hữu, bản thân tôi và mọi người, đều đã
sống, đã khóc đã cười, đã bước đi trong vòng tay cứu giúp của Mẹ, cho dù có thể
thâm tâm vẫn chưa nhìn ra Mẹ, thậm chí vẫn chống đối Mẹ ra mặt. Mẹ vẫn là Mẹ,
mà lại là Hằng Cứu Giúp nữa cơ chứ... Mẹ luôn là Mẹ của tất cả, tất cả đều là
những đứa con cần có tình thương của Mẹ nuôi cho lớn khôn...
Lạy Mẹ Hằng Cứu Giúp, xin tiếp tục cứu giúp chúng con.
Amen.
Lm. LÊ
QUANG UY, DCCT,
Chúa Nhật
15.8.2010
No comments:
Post a Comment