Bài Tin Mừng hôm nay ( Mc 7, 31 – 37 ) kể cho chúng
ta một phép lạ: Đức Giêsu chữa lành một người vừa điếc vừa ngọng. Người ban cho
anh ta khả năng nghe và nói. Người vừa điếc vừa ngọng này là hình ảnh của những
đồ đệ chưa thực sự hoàn toàn đón nhận sứ điệp Tin Mừng của Đức Giêsu về Nước
Thiên Chúa. Đức Giêsu phải chiến thắng những trở lực rất lớn nơi họ để đưa họ
đi vào mầu nhiệm Nước Thiên Chúa đã được ban cho họ ( x. 4, 11 ).
Khi ấy, “Đức Giêsu lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả
Xiđôn, đến biển hồ Galilê vào miền Thập Tỉnh. Người ta đem một người vừa điếc
vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh” ( cc. 31 – 32 ).
Không giống với những trường hợp khác, ví dụ người phong cùi ( 1, 40 ), hay
người bại liệt ( 2, 3 ), hay người bị quỷ ám ở Ghêrasa ( 5, 2 ), hay người phụ
nữ bị băng huyết ( 5, 25 ), người vừa điếc vừa ngọng không tự mình đến với Đức
Giêsu dù anh ta hoàn toàn có thể làm như thế; anh ta cũng chẳng ngỏ lời xin Đức
Giêsu chữa lành cho anh ta. Điều này chứng tỏ hoặc anh ta không ý thức về tình
cảnh của mình, hoặc anh ta không thấy cần phải thay đổi tình cảnh đó.
Các ngôn sứ đã liên tục sử dụng hình
ảnh sự điếc cùng với sự mù để diễn tả thái độ của Israel chống cưỡng không chịu
nghe những gì Thiên Chúa nói: x. Is 6, 9; 42, 18; Gr 5, 22 – 23; Ed 12, 2. Nói
chung, chứng điếc và câm hoặc ngọng, luôn được trình bày như những hình ảnh ẩn
dụ. Người điếc là hình ảnh tượng trưng cho kẻ không nghe hoặc không muốn nghe, còn
người ngọng là hình ảnh tượng trưng cho kẻ không diễn đạt rõ ràng và dễ hiểu
được, trái lại, thường gây hiểu lầm. Đáng chú ý là trong Cựu Ước, không có câu
truyện nào kể về việc chữa lành những người điếc hoặc câm.
Người vừa điếc vừa ngọng trong bài
Tin Mừng hôm nay là một nhân vật có giá trị biểu tượng. Anh ta là hình ảnh của
những đồ đệ chưa “thấm” sứ điệp mà Đức Giêsu đã nói với họ ( x. 8, 17 ), và hậu
quả là họ không thể trình bày một cách đúng đắn và chính xác sứ điệp đó, vì họ
vẫn tìm cách dung hòa sứ điệp của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa với các phạm trù
Do Thái Giáo truyền thống. Nói cách khác, với hình ảnh người vừa điếc vừa ngọng
này, tác giả Máccô muốn nói đến sự không hiểu dai dẳng, tức là sự ngu tối trong
tâm trí, của các đồ đệ Đức Giêsu ( x. 7, 18 ).
Khi người ta đưa người vừa điếc vừa
ngọng đến, Đức Giêsu chữa lành cho anh ta, mặc dù đây chưa phải là sáng kiến
của chính Người. “Người kéo riêng anh ta
ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào
lưỡi anh” ( c. 33 ).
Tác giả Máccô sử dụng lối nói “riêng
ra” ( kat’idian ) bảy lần. Trong sáu
chỗ ( 4, 34; 6, 31 – 32; 9, 2.28; 13, 3 ), ta đều thấy có sự không hoặc chưa
hiểu của toàn thể hoặc một phần các môn đệ, đến độ cần phải có sự can thiệp của
Đức Giêsu để giải nghĩa rõ ràng cho các ông.
Ở đây ( 7, 33 ), lối nói này được sử
dụng cho trường hợp người vừa điếc vừa ngọng, càng chứng tỏ tính chất biểu
tượng trong hình ảnh của nhân vật này, ám chỉ tình cảnh của các môn đệ. Đức
Giêsu tách anh ta ra khỏi đám đông, tương tự trong trường hợp ở 7, 17.
Rồi Người đặt ngón tay vào lỗ tai
anh ta. Người đã không đặt tay trên anh ta như lời xin của những người đã đưa
anh ta đến với Đức Giêsu. Trong Cựu Ước, “ngón tay Thiên Chúa” ( số ít ) có
nghĩa biểu tượng chỉ quyền năng Thiên Chúa. Có vẻ như tác giả muốn nhấn mạnh sự
kiện Đức Giêsu phải hành động cách đặc biệt để phá bỏ chướng ngại vật khiến cho
người môn đệ không đón nhận được sứ điệp của Người.
Tiếp đó, Người
nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh ta. Người xưa coi nước miếng, cùng với nước,
máu, rượu và dầu ô liu, là chất có tác dụng chữa bệnh. Nước miếng thường được
dùng đặc biệt trong những trường hợp chữa đau mắt. Và vì nước miếng ở trong
miệng, nên nó được coi là có liên hệ đặc biệt với hơi thở, tức là sự sống. Ở
đây, Đức Giêsu lấy nước miếng của mình mà bôi ( bằng ngón tay ) vào lưỡi người
bệnh. Bối cảnh văn hóa Do Thái đương thời làm cho người ta có thể hiểu rằng sức
mạnh mà Đức Giêsu đang ban truyền qua ngón tay của Người là chính hơi thở, tức
là Sự Sống, Thần Khí của chính Người.
“Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói:
"Epphatha", nghĩa là: hãy mở ra !” ( c. 34 ). Trong 6, 41 Đức Giêsu cũng ngước mắt lên
trời, nhưng là để tạ ơn Thiên Chúa vì lương thực mà Thiên Chúa ban. Ở đây, trái
lại, Người “rên một tiếng”, diễn tả một tâm sự. Có thể hiểu “ngước mắt lên trời, rên một tiếng” là
những hành động cầu nguyện với Thiên Chúa và diễn tả tình thương đối với người
vừa điếc vừa ngọng. Có vẻ Đức Giêsu cần một sức mạnh thần linh để phá bỏ những
chướng ngại vật nơi người môn đệ . người bệnh điếc và ngọng này.
“Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ
ràng” ( c. 35 ).
Người trước đây bị điếc bây giờ đã có thể nghe và hiểu. Những cái tai của anh
ta đã được mở ra. Cũng vậy, trước đây anh ta bị ngọng, nhưng bây giờ nói được
rõ ràng. Vấn đề đã hoàn toàn được giải quyết. “Đức Giêsu truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người
càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra. Họ hết sức kinh ngạc, và nói: "Ông
ấy làm mọi sự đều tốt đẹp: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói
được" ( cc. 36 – 37 ).
Đây không phải là lần đầu tiên Đức
Giêsu truyền lệnh người ta phải giữ kín chuyện Người chữa lành. Trong trường
hợp người phong cùi được chữa lành ( x. 1, 44 ), lệnh truyền giữ kín được nói
với người trước đây đã từng tưởng rằng sự loại trừ anh ta là điều Thiên Chúa
muốn. Trong trường hợp con gái ông Giaia được cứu sống ( x. 5, 43 ) thì lệnh
truyền đó được đưa ra vì cô bé còn chưa trưởng thành để có thể chịu được những
hệ luận của việc công khai tin vào Đức Giêsu.
Trong trường hợp chữa lành người vừa
điếc vừa ngọng này, chúng ta cũng gặp một hoàn cảnh có yếu tố đặc biệt: thực tế,
như chúng ta sẽ còn thấy trong các chương kế tiếp của Mc, các môn đệ sẽ vẫn còn
chưa hiểu đúng sứ điệp và số phận của Đức Giêsu.
Với lệnh truyền giữ kín chuyện này, Đức
Giêsu mạnh mẽ cảnh báo rằng vấn đề các môn đệ khó đón nhận sứ điệp của Người sẽ
vẫn còn tiếp tục tồn tại, ngay cả khi đã có những người, nhờ sức mạnh của Người,
đã vượt qua được vấn đề đó.
Trong phản ứng của dân chúng khi
nghe biết về phép lạ Đức Giêsu đã thực hiện, chúng ta có thể chú ý hai chi tiết
đáng quan tâm.
Thứ nhất là lời ghi nhận: “Ông ấy làm mọi sự đều tốt đẹp”. Lời này
nhắc chúng ta nhớ đến hành động của Thiên Chúa trong việc sáng tạo vũ trụ ( St
1, 31; Hc 39, 16 ). Nhờ hành động của Đức Giêsu, tạo thành đã hỏng được tái
thiết tốt đẹp.
Chi tiết thứ hai là lời kể: “Ông ta làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm
nói được”. Lời này nhắc chúng ta nhớ đến niềm hy vọng được trình bày trong
Is 35, 4 – 6: “Hãy nói với những kẻ nhát
gan: Can đảm lên, đừng sợ ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo
phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em. Bấy
giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót
như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò”. Phép lạ Đức Giêsu vừa thực hiện
là dấu chỉ của sự hiện diện quyền năng và cứu độ của chính Thiên Chúa như lời Ngôn
Sứ đã tiên báo. Quả thật “Nước Thiên Chúa
đã đến gần” ( 1, 15 ).
Gợi ý suy niệm và chia sẻ:
1. Người vừa điếc vừa ngọng trong
bài Tin Mừng hôm nay là một nhân vật có giá trị biểu tượng. Anh ta là hình ảnh
của những đồ đệ chưa “thấm” sứ điệp mà Đức Giêsu đã công bố và không thể trình
bày một cách đúng đắn và chính xác sứ điệp đó. Tất cả chúng ta đều ít nhiều gặp
thấy chính mình trong hình ảnh người vừa điếc vừa ngọng này.
2. “Ông ấy làm mọi sự đều tốt đẹp”. Lời này nhắc chúng ta nhớ đến hành
động của Thiên Chúa trong việc sáng tạo vũ trụ ( St 1, 31; Hc 39, 16 ). Nhờ
hành động của Đức Giêsu, tạo thành đã bị hỏng nay được tái thiết tốt đẹp. Tạo
thành mới đã được bắt đầu trong hành động của Đức Giêsu.
3. “Người làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm
nói được”. Việc Đức Giêsu chữa lành người vừa điếc vừa ngọng là dấu chỉ của
sự hiện diện quyền năng và cứu độ của chính Thiên Chúa như lời ngôn sứ Isaia đã
tiên báo.
Lm. NGUYỄN THỂ HIỆN, DCCT
No comments:
Post a Comment