Saturday 21 November 2009

Bỏ phế vua


Lm Richard Leonard

(Mai Tá dịch)

Vua quan ở đời, vào bảo tàng viện mới đây thôi, mà nhà thơ họ Hà đã vội viết:

“Trẫm muốn tru di đám ngọai thần

Cô dì tỷ muội chẳng can ngăn

Nơi nào em tới niêm phong hết

Cho hả lòng đây nhớ ái khanh.” (Hà Huyền Chi – Bỏ phế vua)

Đức Chúa trên cao, lâu nay cùng sống với dân, nào ai biết hỏi han. Chỉ hỏi han thôi, mấy ai màng thần phục với bái tuân, như Vua trời đất. Vâng. Vị Vua không ngai, không vương trượng, cũng chẳng áo mão lẫn cân đai. Nhưng thực tế, với dân con nhà Đạo, năm nào ta cũng về dự lễ Vua Cha, Đấng cứu độ muôn người, vào tháng ngày còn lại của mùa xuân phụng vụ, rất siêng chăm.

Siêng chăm – hằng nhớ. Nhớ ngày Đức Piô XI thiết lập lễ Kitô Vua, khởi đầu năm thánh 1925. Đại lễ bắt nguồn gần nửa thế kỷ trước, hồi thập niên 1880, khi nhiều Giám mục ở Châu Âu đã lo âu thấy rõ phong trào tục-hoá nhà Đạo nổi lên như diều. May thay, trào lưu phàm tục này đã không lập lại vào các thế kỷ về sau.




Ưu tư lo lắng của các giám mục thời bấy giờ, là: sao ta lại để cho quyền hành trần thế ngày một lấn lướt, tạo thế “hơn hẳn”, chống trả thần quyền, đến thế? Đặc biệt hơn, các Giám mục ở Pháp và Ý đã ý thức được tầm quan trọng cần thờ kính Đức Giê-su Kitô Vua, Vua-Cha của vũ trụ. Và, lòng sùg kính Đức Kitô Vua từ đó phát triển mạnh, đến hôm nay.




Năm 1922, Đại Hội Thánh Thể ở Rôma, có 69 vị Hồng y Giáo chủ đã thỉnh cầu Đức Giáo Hoàng hãy cho phép thiết lập đại lễ mừng kính Vua Cha Cao Cả, cho mọi người. Suốt ba năm, đền Vatican tràn ngập thỉnh nguyện thư, cùng đòi hỏi Giáo hội phải làm điều gì để mừng kính Đức Kitô Vua. Vua trần gian. Vua vũ trụ. Vua loài người. Và chung cuộc, thì lễ kính Đức Kitô Vua đã thành hình và vẫn tiếp tục, đến hôm nay.




Với Tân Ước, dù Đức Giêsu có nói đến Vương Quốc Nước Trời, dù Ngài được tung hô vạn tuế như Vị Vua Cao Cả, Đức Giêsu vẫn quả quyết: vương quyền Ngài khác với vương triều của vua chúa ở trần gian như César, Hê-rô-đê, hoặc ngay cả Đa-vít, và các Vua Do-thái. Với tín hữu tiên khởi, mọi người đều thấm nhuần, ghi tạc tình Vua Cha. Vua tình yêu chẳng bao giờ thiếu. Trước năm 324, có rất ít tác phẩm nghệ thuật cũng như văn bản sử liệu trình bày Đức Giê-su như vị Vua Cha Cao Cả. Vào năm đó, hoàng đế Constantine mới vừa tham gia cộng đoàn dự tòng, đã biến Đạo Chúa thành Đạo uy phong lẫm liệt, cho thần dân thuộc Đế quốc ông trị vì, để tỏ bày lòng yêu thương đức vua, như một người cha.




Cũng từ đó, nghệ thuật trong nhà Đạo đã xuất tác các tượng hình, ảnh mẫu diễn tả Đức Giê-su trong long bào Vua Chúa, tay cầm quả cầu, tượng trưng Vua trái đất. Vua hoàn cầu. Thế đứng của Đức Kitô Vua trông uy nghi, tráng lệ. Và, Đức Maria, Mẹ Ngài cũng trở thành Nữ Vương Thiên Đàng, đầy yêu thương tình Mẫu hậu. Điều này cũng dễ hiểu. Nhất là, vào thời mà con dân Đạo Chúa triền miên bị bách hại, trong nhiều tháng. Từ đó, Đạo Chúa tôn kính Đức Kitô Vua đã trở thành sức mạnh uy phong, tồn tại cùng với nhân gian, ở trần thế. Có thể coi đây là thành công lớn của thần quyền, với dân gian. Tuy nhiên, con người phàm trần vẫn cần đề cập nhiều đến không gian thần thánh, cao cả hơn. Chốn không gian biểu lộ tính chân phương đích thực của Đức Kitô, Vua vũ trụ. Vua oai phong, hiền từ. Nhân hậu.



Từng thế kỷ và thế kỷ, trôi qua. Cả đế quốc hùng mạnh của Constantine, cũng không tồn tại mãi. Nhưng, các đặc trưng/đặc thù thời vua chúa nơi nhà Đạo vẫn ở lại với ngôn ngữ và phong cách của Giáo hội, đến hôm nay. Nếu cần thí dụ, ta có thể dẫn chứng ngôn ngữ nhà Đạo khi nói về nơi ăn chốn ngụ của các vị Giáo hoàng, các Giám mục mà ta có thói quen gọi là “dinh”, “toà”. Và, phẩm phục đại lễ của các ngài, vẫn mang dáng dấp áo mũ, cân đai long trọng, đắt tiền.




Vấn đề còn lại, là: các tài sản và báu vật lịch sử ấy đã phần nào đối chọi và mâu thuẫn với điều Đức Kitô nói về Ngài. Về phong cách của vị Vua Cha trị vì cả thế trần. Nói cho cùng, tính cách vua quan, lãnh chúa của Ngài đã được ghi lại vào khuôn khổ của trình thuật Thương khó. Nhiều thống khổ.




Phúc âm thánh Gio-an hôm nay rút từ trích văn bản nổi tiếng của Tân Ước, trong đó có quả quyết của Đức Kitô về tính Vua-Cha, đối với thần dân, nơi cõi thế: “Ngài tự nói điều ấy. Chính ngài nói Tôi là Vua. Tôi đã sinh ra và đến thế gian là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng Tôi…




Với thế giới hôm nay, số vua quan nữ hoàng dám nói điều đó với dân đen quần thần, quả rất ít. Tệ hơn nữa, chẳng có vua quan nào yêu dân đến độ sẵn sàng hy sinh và chết cho họ. Ngược giòng sử liệu, chúng ta đều hiểu: khi sự thật về tình yêu Vua-Cha hy sinh như thế đều mang sắc màu của một Thương Khó. Và, đây mới là sự thật về tính chất vua chúa, quan quyền mà trần gian không thể thấy.





Các lãnh chúa, vua quan ở trần gian bao giờ cũng thấy khó mà hy sinh. Càng khó hơn, khi họ phải thương yêu thần dân đến bỏ mạng sống riêng mình. Nhưng với Đức Kitô, qua tư cách rất Vua-Cha của mình, Ngài giàu lòịng thương mến. Chẳng gây thương tổn, cũng chẳng làm hại thần dân của mình bao giờ. Là Vua-Cha vũ trụ, Ngài không đầu hàng thoái thác mọi thương và khó. Nhưng, vẫn rao truyền tình thương, bất chấp khó khăn. Ngài vẫn khuyên răn, bảo vệ thần dân của Ngài.




Là Vua tình yêu biết chấp nhận những thương và khó, Đức Kitô Vua chẳng bỏ mặc dân con ở chốn điêu tàn lẻ loi, đầy chết chóc. Vua Kitô vẫn bộc lộ lòng thủy chung rất mực của Vua Tình yêu. Ngài vẫn một mực thương yêu trung thành với dân Ngài, cho đến chết. Và, lại là cái chết nhục nhã như tên trộm. Thua kém cả dân đen, hèn hạ.




Theo gương Ngài, ta chớ để quyền uy, sức mạnh trần thế uy hiếp hoặc dẫn dụ. Chớ để mắt mình bị loá mờ trước hào nhoáng chóng qua, của tiền tài vật chất, khó chối từ. Theo gương Ngài, ta chớ dại, mà dấn thân đeo đuổi những mồi chài lợi lộc quyền bính của vua quan, hoặc thủ lĩnh trần gian, đang lôi cuốn.




Tri lại, hãy biết khôn mà hạ mình. Ngước mắt lên mà hướng thượng. Hướng về Đức Kitô, vị Vua-Cha nhân hiền hằng thương yêu con dân mình hơn hẳn mọi hoàng gia - lãnh chúa, ở đời. Bởi, chỉ mình Đức Kitô Vua mới dám nói về Sự thật, với tất cả lòng thương yêu, trìu mến. Ngài không chỉ nói bằng lời, mà còn nói bằng việc chấp nhận bỏ mình để chứng minh cho sự thật Tình yêu, Ngài phú ban.





Đó mới là Sự thật. Sự thật rất khách quan. Sự thật, đến với mọi người, nơi trần thế. Sự thật, gửi đến với thần dân, Hội thánh. Sự thật về lòng thương yêu không bến bờ. Yêu thương mọi người. Yêu cả dân đen yếu hèn, hạ cấp. Ngài yêu đến nỗi bỏ cả thân mình Ngài vì người mà Ngài yêu mến. Bỏ áo mão cân đai tài sản, lẫn triều đình. Bỏ tất cả, về chung sống và vực dậy thần dân yếu hèn, là đối tượng của tình yêu Vua-Cha.




Được vực dậy, ta sẽ hỏi và sẽ hát với nhạc sĩ nổi tiếng họ Phạm, mà rằng:


“Nếu có ai giận dữ

Nếu có ai bất hoà

Nếu có ai lầm lỡ

Rồi sinh ra khắt khe…


Hãy cùng muôn người, hợp lực với nghệ sĩ họ Phạm để hát lên lời cuối, một bài thơ:



Lạy Chúa! Lạy Chúa tôi!



Nhân ái ban xuống đời



Lạy Chúa! Lạy Chúa tôi!



Cho hiếu hoà khắp nơi.




(Phạm Duy – Chúa Hoà Bình)




Và, Đức Yêsu Kitô không chỉ là Vua trần thế, không chỉ vực mọi người đến với tình yêu, mà thôi. Ngài còn là Cha của toàn thể vũ trụ, nữa. Vũ trụ của Tình Yêu. Đức Chúa của Hoà bình. Đó mới là ý nghĩa của vị Vua – Cha rất đáng mến, ở trên cao: Vua Kitô. Vua vũ trụ.



Lm Richard Leonard



MaiTá dịch<

o:p>


(xem thêm cac bài cùng một dạng,

xin mời vào www.suyniemloingai.blogspot.com

www.chuyenphiemdaodoi.blogspot.com )

No comments: