Monday, 30 November 2009

Lm Rock Nguyễn Tự Do, CSsR: Một thế giới mở rộng


Vào thế kỷ thứ XV, nền kinh tế Tư Bản Chủ Nghĩa ngày càng có thế lực. Thương mại tại địa phương chỉ đáp ứng những nhu cầu thực tiễn của người dân, đang khi những người giàu có lại muốn có thêm thật nhiều những nguồn tài nguyên, hang hoá quí hiếm, có thể đem lại những lợi nhuận cao và sức mạnh thế lực cho giai cấp Tư sản. Phải đi xa, phải vượt đại dương để đến những vùng đất mới. Thế thượng phong thuộc về những nước có kỹ nghệ đóng tàu và kỹ thuật hàng hải cao như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, với những thuyền buồm 3 cột đạt tốc độ 10km/giờ và có khả năng chịu được những con sóng to gió lớn.

Thời đại của những nhà thám hiểm nổi danh được mở đầu.

Henri Le Navigateur với những cuộc khám phá miền biển Tây Phi Châu, Gibraltar, Madere, Acores, Rio de Oro và Cap Vert từ 1420 cho đến khi ông qua đời vào năm 1460. Năm 1484, Diego Cao (hay Diego Cam) đến cửa sông Congo. Năm 1488, Bartolomeu Dias vượt mũi cực Nam Phi Châu và đặt tên là Mũi Bão Táp, sau này được vua Bồ (Jean 2) đổi là Mũi Hảo Vọng.

Người nỗi tiếng nhất là Vasco de Gama. Ông sinh tại Alentejo năm 1469. Ông được Vua Jean 2 đặt làm trưởng đoàn thám hiểm đi vòng Phi Châu sang Ấn Độ, gồm 170 người đa số là thuỷ thủ đầy kinh nghiệm đã từng tham gia các cuộc thám hiểm trước. Ông vượt Mũi Hảo Vọng, men theo bờ Đông Phi Châu và cập bến Ấn Độ, nơi gần thành Calicut, ngày 29-5-1498, sau mười tháng hành trình. Sự thành công của Vasco de Gama đã phải trả giá với hai thuyền bị mất và một trăm mạng người chết vì bệnh, nhưng đã mang lại cho Bồ Đào Nha nhiều lợi lộc vật chất. Ông lập một thương điếm tại Cochin, được phong tước Phó Vương Ấn Độ và mất năm 1524.

Nhà thám hiểm Alfonso de Albuquerque (1453- 1515) tiếp nối Vasco de Gama, chiếm Goa năm 1510, Malacca năm 1511, Malabar, Ceylan, Ozmur…

Năm 1521, Ferdinand Majellan, người Bồ đã thực hiện cuộc hành trình vòng quanh trái đất lần đầu tiên, phục vụ vua Emmanuel, và sau được vua Charles, Tây Ban Nha phái đi khám phá vùng Nam Mỹ, Phi Luật Tân. Ông bị giết chết tại đảo Mactan (1521).

Y Pha Nho đã được gọi là “Vương quốc Công giáo” từ cuối thế kỷ thứ XV. Đó là vinh dự do Đức Alexandrô VI ban cho nữ hoàng Isabella I và vua Ferdinand II, bởi đã có công mở mang Nước Chúa cả về đạo lẫn đời.

Kha Luân Bố (Christopher Colombus) được vua Tây Ban Nha trao trách nhiệm tìm đường sang Ấn Độ qua ngả Đại Tây Dương. Ông không phải là bác học hay nhà trí thức, nên đã tính nhẩm và cho rằng chu vi trái đất chỉ có 26.000km và quãng đường từ đảo Canaries đến Ấn Độ, ông đã khám phá ra Tân Thế Giới.

Vua Tây Ban Nha ban cho Côlômbô 3 chiếc thuyền, mà một chiếc mang tên Santa Maria, và các phương tiện cần thiết. Đoàn thám hiểm đã rời bến cảng Palos ngày 3-8-1492, để sau 2 tháng 9 ngày đến vùng Bahamas thuộc Trung Mỹ ngày 12-9-1492. Sau khi thám hiểm vùng CubaHaiti, ông trở về Tây Ban Nha vào tháng 3-1393. Ông còn thực hiện 3 cuộc hành trình thám hiểm một vùng rộng lớn với chiều dài 3,000km, rộng 500km, gồm Dominica, Guadeloupe, Porto Rico, Jamaique (1493) Trinité, Orenoque (1498), Venezuela, Panama (1502-1504). Ông đã chết trong nghèo khổ vẫn với xác tín là đã đến Ấn Độ chứ không hề biết mình đã tìm ra một thế giới mới, mà sau này được gọi là America do một người Ý có tên là Amerigo Vespucci, sinh tại Florence năm 1451, đã bốn lần đặt chân thám hiểm tân Thế Giới, năm 1504-1505.

Verraxanô chiếm phía Bắc Mỹ Châu, ăn sâu vào đất liền, đến nơi được gọi là Montreal của Canada (1536).

Năm 1535, Jacques Cartier (1491-1557), nhân danh vua nước Pháp Franc,ois I vào vùng của sông Saint Laurent, Canada, Hoà lan đến Java. Với những đoàn thuyền ngang dọc thế giới, người Anh đã lập nhiều thuộc địa khắp nơi, với công ty Đông Ấn (1600), và chiếm trọn Ấn Độ làm thuộc địa.

Lm Rock Nguyễn Tự Do, CSsR

(Xem thêm các bài khác, xin mời vào:

www.suyniemloingai.blogspot.com

www.chuyenphiemdaodoi.blogspot.com )

Saturday, 28 November 2009

Lm Richard leonard sj: Có những đợi chờ

(Mai Tá lược dịch)

Cuối năm 1999, dân chúng khắp nơi chừng như vẫn hối hả, ưu tư khi thế giới đang từ từ bước dần vào những ngày đầu của thiên niên kỷ mới. Có người dựa vào Phúc âm, để quyết đoán rằng: ngày thế tận đã gần kề. Và, Đức Kitô nhất định sẽ quang lâm giáng thế một lần nữa, vào ngày sinh thứ 2000 của Ngài.

Những ai quả quyết chuyện này, xem ra đã liên tưởng đến câu ngạn ngữ mà các cụ ngày xưa vẫn dặn dò: hãy luôn đặt mình vào tình huống xấu nhất, để rồi từ đó mình mới tự tìm cách thoát ra, mà đi vào chốn lạc quan, đầy ân huệ. Thật ra, Đạo Chúa đã bước vào chốn lạc quan niên lịch từ thế kỷ thứ tư, sau công nguyên. Đúng hơn, đấy là năm 526 tại La Mã, tu sĩ uyên bác tên là Dionysius Exiguus đã dày công nghiên cứu các niên biểu ghi rõ ngày Đức Giêsu sinh ra, tử nạn và sống lại để biên soạn làm niên lịch cho Hội thánh.

Nhiều năm sau, ông đã định ngày cho các nghi lễ phụng vụ để rồi đúc kết thành một bộ gọi là lịch Hội thánh. Với các dụng cụ sơ sài tự kiếm, một thày dòng chuyên tu như thày Dionysius làm được niên lịch Hội thánh như thế, cũng là chuyện phi thường, hiếm thấy. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào các nguồn sử liệu bên ngoài và nhất là vào Tân Ước, khi kể về các vị cầm quyền Do Thái và La Mã ở Palestine, thì dứt khoát là lịch của Dionysius đã đi trễ, những 4 năm.

Đến năm 1582, Giáo hội biết rõ những sơ hở này, đã định sửa đổi. Tuy nhiên nếu sửa, thế giới sẽ phải bỏ phí đi, mất 4 năm. Chung cuộc, đã có quyết định là ta cứ để vậy. Như thế, tính đúng thực tại, phải thừa nhận rằng ngày Đức Giêsu quang lâm, lẽ đáng phải là năm 1996, chứ không phải 2000, như một số dân con nhà Đạo khẳng định.

Thêm một thực tế khác nữa, là: mỗi khi bắt đầu kỷ nguyên mới, tín hữu Đạo Chúa lại được nghe kể về điềm thiêng dấu lạ trên mặt trời, mặt trăng cùng các ngôi sao. Rồi đến, thiên tai hạn hán mất mùa, động đất sóng thần, cứ liên tục xảy đến. Và, người dân ngoan hiền quận huyện sẽ cho rằng: ngày Chúa tái lâm đã gần kề. Tuy nhiên, rõ ràng là ta vẫn chờ. Và, vẫn cứ chờ.

Nếu ai muốn xác minh về điềm báo khốc liệt như thế, có lẽ nên nhớ lại lời dặn: “Các con chẳng thể biết được thời gian và nơi chốn khi Con Người đến trong vinh quang.” Chính vì lời dặn dò này, mà cộng đoàn thánh Luca nghĩ rằng Đức Kitô sẽ nhanh chóng quang lâm, trong tương lai rất gần. Ngài sẽ đến lại trong huy hoàng, lộng lẫy. Thời gian vẫn cứ trôi qua. Điềm báo, dấu hiệu vẫn cứ xảy đến. Và, cộng đoàn tiên khởi lúc đó mới vỡ lẽ rằng: ngày Đức Chúa quang lâm không mang mốc chặng thời gian và không gian gì rõ ràng cả.

Thực tế cho thấy: thời gian và không gian luôn thuộc về Ngài. Hy vọng đợi chờ từ nơi tín hữu thời ban sơ đã phản ảnh tình huống bách hại, và những chịu đựng khổ đau. Các tín hữu Đạo Chúa nay đà hiểu rõ: chẳng thể tuyên xưng lòng tin vào Đức Kitô một khi hành vi, cuộc sống của mình không phản ảnh được sự sống Nước Trời, Ngài hằng nói đến. Đó là mấu chốt của niềm tin. Đó mới là mốc chặng của Tin Mừng mặc khải.

Nói rõ hơn, nếu tín hữu Đạo Chúa sống và thực hiện điều Đức Kitô truyền dạy nơi Tin Mừng, bằng và qua cuộc sống thường nhật, thì chắc chắn thế giới này cần phải đổi thay. Thế giới này sẽ có thay đổi. Thay đổi rất nhiều. Thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Và khi đó, Đức Kitô mới quang lâm trong huy hoàng lộng lẫy, như mọi người chờ mong.

Cho đến nay, chưa nắm rõ được ngày giờ thế giới nhân trần đã đi vào giai đoạn tận tuyệt chưa. Nhưng ở đây, vào những giây phút đầu của niên lịch Hội thánh, ta biết rõ được hai điều: Đức Chúa sẽ trở lại bất cứ lúc nào khi ta thực hiện được tình yêu thương - tha thứ. Khi ta biết san sẻ tài sản ta có. Và, biết xót xa, độ lượng. Biết hy sinh cho những người có nhu cầu hơn ta. Thứ đến, vào ngày quang lâm Ngài đến lại, có thể sẽ không có hiện tượng mặt trời mặt trăng quay cuồng, nhảy múa. Và có thể, cũng chẳng thấy hiện tượng thủy triều dâng sóng ngút ngàn, đâu. Và cuộc đời ta vẫn cứ phẳng lặng. Vẫn trĩu nặng tình thương yêu, như trước.

Thực tế Nước Trời quang lâm đang diễn tiến. Quang lâm chính là lúc tình yêu dũng cảm của bậc cha mẹ đối xử với con. Quang lâm là, lòng thương yêu triển nở của vợ hoặc chồng đang diễn tiến với người phối ngẫu yếu đau. Quang lâm còn là, lòng cảm thương yêu giúp đỡ của thế giới đã phát triển đang đùm bọc các quốc gia nghèo, thuộc thế giới thứ ba. Đại để là, mỗi khi ta có được những tình thương cao cả như thế, thì Vương quốc Nước Trời đã nguy nga, tráng lệ đủ để chứng minh rằng những điều Đức Giêsu loan báo về việc Ngài quang lâm, vẫn đến với chúng ta mỗi ngày, mỗi giờ. Ở mọi nơi, vào mọi lúc. Trong Vương Quốc Nước Trời Hội thánh.

Cầu mong sao Tiệc thánh ngày đầu niên lịch phụng vụ, đem cho ta ý nghĩa và vị ngọt của Vương quốc Nước Trời đã và đang hiện diện, sẽ còn đến với ta luôn mãi. Cầu và mong sao tinh thần mùa Vọng luôn gìn giữ chúng ta trong tư thế đợi chờ Tình Yêu Chúa Cha sẽ đến lại. Và, Tình yêu Cha đem đến cho ta lòng quả cảm để tiếp tục sống cuộc sống hiện tại. Cuộc sống nhiễu nhương, nhiều bất ổn. Nơi đó, có sự quay cuồng múa nhảy của mặt trời mặt trăng. Có, sóng dữ gầm thét. Một cuộc sống mang nặng những ưu tư triền miên, muộn phiền. Nhưng, không quên đợi chờ. Đợi và chờ rất tốt. Rất đẹp.

Lm Richard Leonard sj (Úc)

Mai Tá lược dịch.

(Xem thêm những bài cùng một dạng, xin mời vào:

www.suyniemloingai.blogspot.com

www.chuyenphiemdaodoi.blogspot.com

Friday, 27 November 2009

VÀI CẢM NHẬN VỀ ĐỨC TIN KITÔ GIÁO


CỦA NHỮNG ANH CHỊ EM DÂN TỘC ÍT NGƯỜI TÂY NGUYÊN

Hồ Công Hưng

Kể từ ngày (28.12.1853) Giuse H’mur, người dân tộc trưởng thành đầu tiên được cha thừa sai Combes rửa tội tại làng Bahnar Kon K’Xâm bên bờ sông Đakbla (Kontum), số Kitô hữu người bản địa Tây Nguyên không ngừng gia tăng. Năm 1932, khi Giáo phận Kontum được thành lập bao gồm các tỉnh Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuột và Attopeu (Lào), số tín hữu người dân tộc đã gần 19.000 so với khoảng 6.000 giáo dân Kinh (1) và đến nay con số đó đã lên hàng trăm ngàn ở riêng hai tỉnh Kontum và Gia Lai, chưa kể các tỉnh khác của Tây Nguyên và các vùng có người dân tộc sinh sống, và không kể con số đông Kitô hữu Tin Lành cũng tăng lên nhanh chóng những năm gần đây. Theo lời linh mục Trần Sĩ Tín, trong Sứ vụ Gia Rai, vào thập niên cuối của thế kỷ qua, nghĩa là từ năm tấn phong các thánh tử đạo VN 1988, “bổng nhiên tất cả các dân tộc ít người trên đất nước VN đều đứng lên tìm theo Chúa” (2). Hành trình đi tìm Chúa của bà con vùng cao nầy đã gặp muôn vàn khó khăn thử thách do những xáo trộn xã hội phát sinh từ sự đột biến dân số cũng như do sự e ngại và đố kị của quyền lực. Con số đông tín hữu người dân tộc thiểu số không những đã làm cho giáo hội VN phát triển mà còn đem lại sức sống tươi trẻ và sắc thái độc đáo cho đức tin Kitô giáo của chúng ta. Những ai từng tiếp cận các tín hữu người dân tộc và tìm hiểu đời sống đức tin của họ, đều cảm nhận được những giá trị Tin Mừng trong môi trường văn hoá đặc thù như một sự chuẩn bị của Chúa Thánh Thần cho những con người hèn mọn nghèo khổ đón nhận Ơn Cứu độ. Và thiết nghĩ đã đến lúc phải trả lại sự thật và công bằng cho những người anh em thấp cổ bé miệng này.

1. “Hạt giống Cựu ước” đã được gieo từ lâu trong lịch sử và văn hoá Tây Nguyên

Cách đây trên 150 năm, những người giáo dân Kinh từ duyên hải miền Trung được thầy Sáu Nguyễn Do (1823-1872) đưa lên Kontum cùng các vị thừa sai là cộng đồng người Việt đầu tiên sống giữa rừng núi hoang vu và giữa đa số đồng bào các dân tộc Bahnar, Jarai, Xêđang…còn bán khai. Và một khi đã đặt chân lên xứ Thượng, họ cũng không bao giờ có cơ hội trở lại quê cũ do giao thông quá cách trở. Vì thế nổi lo đánh mất bản sắc dân tộc của mình đã làm cho họ cố giữ những phong tục tập quán của tổ tiên, đồng thời có thái độ tự tôn của những người “văn minh” đi khai hóa và đem “đạo thật” cho những kẻ man di mọi rợ. Tiếc rằng, sau Công đồng Vatican II nửa thế kỷ, thái độ coi thường thậm chí miệt thị đối với những người anh em đồng đạo người dân tộc vẫn tồn tại nơi một số giáo dân Kinh. Thật ra, từ lâu lắm rồi Thiên Chúa đã hiện diện với cư dân bản địa Tây Nguyên trong nền văn hóa ngàn đời của họ và Người đã yêu thương họ (3), chuẩn bị cho họ đón nhận Tin Mừng Cứu độ.. Bản chất người dân tộc là con người tôn giáo, luôn cảm nhận quyền lực của Thần linh (Yang): Thần linh có mặt khắp nơi, thấu hiểu mọi sự, có khả năng chi phối đời sống con người và vạn vật.

Đầu tháng 8 năm 1955, linh mục Jacques Dournes, vị thừa sai đầu tiên được gửi đến miền Jarai tại một làng dân tộc giữa rừng già Cheo Reo. Khi tự mày mò học tiếng nói và tìm hiểu phong tục tập quán ở đây, nhà truyền giáo người Pháp này đã khám phá ra trong nền văn hoá bản địa độc đáo nhiều nét gợi lại việc Thiên Chúa chuẩn bị cho người Do Thái trong Cựu Ước đón nhận Ơn Cứu độ. Trong cuốn sách nổi tiếng “Thiên Chúa yêu thương dân ngoại”, ông đã thừa nhận: “Càng tìm hiểu môi trường nầy, tôi càng cảm thấy bất lực không thay đổi được gì. Đưa họ trở lại đạo là việc của Chúa còn việc của tôi là để cho Người rộng đường hành động” (4). Các vị thừa sai sau nầy cũng đã ví lịch sử và văn hoá của đồng bào Tây Nguyên như thời Cựu ước của dân Do Thái xưa.

Cô Nguyễn Thị Diễm Ly, một giáo dân gốc Huế, từng sống cùng với cộng đồng Jarai ở Chư Sê (Gia Lai) một thời gian dài trên 10 năm, đã nghiên cứu và trình bày mối liên hệ giữa một số phong tục của đồng bào Jarai với các phép bí tích của đạo công giáo (như Thanh Tẩy, Thêm Sức, Thánh Thể, Hoà Giải, Truyền Chức v.v…) trong luận văn thạc sĩ của mình tại Viện Xã hội học Á châu, Manila, Philippine (5). Chỉ xin đơn cử mối tương đồng về ý nghĩa giữa “Phép Dìm” (xuống nước) với Bí tích Thanh Tẩy: Người Jarai “dìm nước” để xoá bỏ tội lỗi, để tẩy uế và để minh oan. Do mối tương đồng đó mà các thừa sai miền Jarai giữ lại nghi thức “dìm nước” khi cử hành lễ Nhập đạo cho các tín hữu người dân tộc Tây Nguyên để giúp cho họ cảm nhận được dễ đàng Ơn tái sinh làm con cái Chúa, có thể nói hơn cha ông người Kinh chúng ta xưa kia.

Chính nền văn hóa do cha ông để lại là con đường dẫn dắt đồng bào dân tộc đến gặp Chúa và đón nhận Chúa là người Cha từng yêu thương họ mà họ chưa được biết. Và khi gặp Chúa, họ thêm lòng tự hào về nền văn hoá của mình và tìm được hạnh phúc trong niềm tin mới dù cuộc mưu sinh hằng ngày có vất vả trăm bề.

2. Sức mạnh tiềm ẩn của con người tâm linh khi ngọn bếp lửa bùng lên

“Những con người tưởng chừng chỉ hành động vì miếng ăn thường nhật này, còn có những mối lo toan và một tư tưởng cao lớn hơn nhiều, khi ngọn lửa trong bếp bùng cháy” (6).

Nhìn cảnh các em bé Thượng đeo chiếc gùi nặng trĩu từ tờ mờ sáng lủi thủi đi theo mẹ ra chợ bán từng bó rau má, đọt bí ngô để kiếm 5, 10 ngàn hay người thanh niên đen đủi lưng trần đứng trên chiếc thuyền độc mộc vãi lưới cả buổi trời trên khắp mặt sông Đak Bla để bắt chút ít cá tép cho bữa cơm đạm bạc hằng ngày…, nhiều người nghĩ đơn giản đồng bào Tây Nguyên chỉ biết vất vả với cái ăn cái mặt tầm thường, có lẽ không khác bao nhiêu con gà bươi móc trong vườn tìm hạt đậu hạt lúa để sống. Nhưng những kẻ đó lại trở thành con người khác khi màn đêm buông xuống, khi ngọn lửa bếp bùng lên, lúc mà công việc nương rẫy đã chấm dứt, trâu bò về chuồng, trẻ con đã ngon giấc… và bên ngoài căn nhà sàn là bóng đêm đen bao phủ núi rừng, nơi dường như đang có những thế lực rình rập hảm hại con người. Còn bên trong nhà sàn, ngọn lửa bếp bùng cháy rọi những bóng người chập chờn trên vách phên. Chính trong không gian nầy, một con người khác nơi đồng bào dân tộc, con người tâm linh đã trổi dậy khi già trẻ nam nữ quây quần quanh bếp lửa nghe kể khàn, một thứ sử thi đầy huyền thoại của cái thời u u minh minh xa xưa. Nói đúng hơn, họ không chỉ nghe mà còn sống kết hợp thật sự với nội dung của câu chuyện được một người già kể bằng một giọng đều đều từ đêm nầy qua đêm khác…

Trong môi trường tâm linh như thế và với cuộc sống an phận, không bon chen, tranh giành lợi lộc thế gian, khi được đón nhận Lời Chúa, những người anh em dân tộc cũng dễ dàng tin và sống Lời Chúa hơn người văn minh chúng ta nhiều. Cũng như đối những con người hoàn toàn vô sản này thì mầu nhiệm Nước Trời của Tin Mừng có một ý nghĩa rất sâu sắc và đem lại cho họ niềm hy vọng vô cùng lớn lao. “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ vì Cha anh em đã vui lòng ban nước của Người cho anh em” (Lc 12,32).

Từ đó chúng ta mới hiểu được vì sao những anh chị em tín hữu ở các làng xa trong rừng núi vẫn có thể giữ vững niềm tin của mình, dù có gặp rất nhiều khó khăn trở ngại. Đặc biệt đồng bào dân tộc theo đạo Tin Lành, trong mấy mươi năm không thấy bóng dáng vị mục sư nào, nhưng vẫn một lòng tin Chúa và luôn tuân thủ các lề luật khắt khe đôi khi trái với tập quán lâu năm của minh như không hút thuốc, uống rượu v.v…

3. Những hình ảnh gợi nhớ các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên trong lịch sử Giáo hội

Tại Tây Nguyên, trong một thời gian dài, người dân bản địa chỉ biết có cộng đồng làng (plei, buôn). Vì thế giữa những thành viên cùng một làng, luôn có mối quan hệ gắn kết hầu như huyết thống. Khi có ai đó mổ thịt một con dê, con heo hay con bò thì người ta chia thịt thành từng phần đủ cho tất cả dân làng, còn phần người chủ không lớn hơn bao nhiêu. “Không ai bị quên trong cuộc chia phần thân ái đó và, từ đứa trẻ còn bú vú mẹ cho đến người già đáng kính nhất đều có phần bằng nhau” (7). Các trẻ em ngay từ nhỏ cũng đã được rèn luyện theo tinh thần cộng đồng như thế..

Phải chăng đó là lòng bác ái của cộng đoàn tín hữu Kitô giáo đầu tiên trong lịch sử Giáo hội? Khi dân làng theo đạo Chúa thì lòng bác ái đó được nâng lên cao hơn theo đúng Tin Mừng của Chúa. Trong các làng nầy, đặc biệt ở vùng dân tộc Bahnar, đến mùa giáp hạt, khi thấy nhà nào sáng sớm không có người giã gạo trên hiên nhà sàn, có nghĩa là nhà đó đã hết gạo ăn, thế là các gia đình khác đem chia sẻ phần gạo của mình.

Trong công cuộc truyền giáo tại Tây Nguyên, số linh mục, tu sĩ quá ít như các tông đồ và môn đệ của Chúa xưa kia, nên từ cộng đoàn xuất hiện nhiều người, nam hay nữ, tham gia công việc chung một cách tự nhiên, không mang danh nghĩa nào, cũng không được ai chỉ định hay bầu bán. Họ là những người mù chữ, cảm nghiệm được Lời Chúa nên đứng lên hướng dẫn cầu nguyện và chia sẻ Lời Chúa, có người còn sáng tác những bài thánh ca theo âm điệu Tây Nguyên bằng những lời tâm tình làm kinh ngạc các thừa sai từng giảng dạy họ. Họ sống như những tín hữu thời sơ khai của Giáo hội, luôn sẵn sàng can đảm làm chứng cho đức tin của mình. Còn tại các làng theo đạo lâu năm, nằm sâu trong rừng núi, linh mục không được phép lui tới, bà con vẫn tiếp tục giữ vững đức tin cũng nhờ các giáo dân được cộng đoàn tín nhiệm để hướng dẫn mọi sinh hoạt tôn giáo trong làng.

Trong những năm khó khăn, trước những ngày lễ trọng như Giáng Sinh, Phục Sinh, Hiện Xuống v.v…, từ các làng ở xa không thể có lễ, bà con tín hữu, vợ chồng con cái, già trẻ lớn bé, từng đoàn kéo nhau đi bộ về nhà thờ chính toà như đi trẩy hội, mặc cho sự đe doạ, ngăn cản của quyền lực. Họ thực hiện cuộc hành hương về nhà Cha chung để xứng tội, tham dự canh thức và thánh lễ, tương tự hình ảnh những người Do Thái xưa cùng đi về đền thánh Jerusalem, được ghi lại trong Kinh Thánh.

Còn trong những dịp lễ đặc biệt, các tín hữu thuộc mọi dân tộc từ nhiều buôn làng tề tựu về tham dự thánh lễ bằng 4 thứ tiếng (Kinh, Bahnar, Jarai, Xơđang) với tiếng cồng chiêng, một thánh lễ gợi nhớ Ngày Chúa Thánh thần Hiện Xuống trong Công Vụ Tông Đồ.

4. Thiên Chúa đã làm nhiều việc lạ lùng chứng tỏ lòng yêu thương của Người

“Lạy Cha là Chúa tể Trời Đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho các bậc khôn ngoan thông thái biết những điều nầy, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Mt 11,25).

Trong “Sự vụ Jarai, khi nhắc đến hiện tượng người dân tộc ít người đứng lên tìm Chúa, linh mục Trần Sỹ Tín khiêm tốn thừa nhận: “Xin đừng gán cho chúng tôi công cuộc trở lại nầy! Chúng tôi chỉ quen biết có hai ba làng ở gần chúng tôi thôi, chứ không phải 89 làng có người đến với chúng tôi như bây giờ. Mà những người ở gần chúng tôi lại trở lại chậm và ít hơn những người ở xa! Lại còn phía Chereo-Tơlui có cả 150 làng, cũng chừng đó phía Pleiku, Măng Yang, Chư Prong, Chư Pah… Chúng tôi đâu có biết người Khơmer, người Stiêng, Mơnông, Raglai, Churu, Eđê phía Nam, người Chăm, người Bahnar, Xơđang, Jẽh, Bru… Chúng tôi đâu có biết người Mường, người Hơmông… phía Bắc! Ấy thế mà họ đều đứng lên tìm Chúa, tìm đạo!” (8).

“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”. Số linh mục ở Tây Nguyên quá ít, các làng lại rải rác trên một diện tích quá rộng và đường giao thông lại rất khó khăn, đặc biệt trong mùa mưa, công việc truyền giáo đã được sự tiếp sức nhiệt tình của các tân tòng người dân tộc. Những người anh em tín hữu nghèo khổ ít học này đã trở nên công cụ tuyệt vời của Chúa Thánh thần là Đấng được Giáo Hội tôn vinh là “Cha những kẻ nghèo hèn” (Pater pauperum). Người đã chọn dùng những kẻ nghèo hèn để làm một việc lớn là loan báo Tin Mừng Cứu độ cho những kẻ nghèo hèn.

Cũng như cách đây hơn một thế kỷ, để có người tiếp tay phục vụ dân Chúa, linh mục Martial Jannin, sau này trở thành vị Giám mục tiên khởi (1933-1940) Giáo phận Kontum, đã có sáng kiến thành lập trường đào tạo các Yao Phu. Đây là một mô hình độc đáo của miền truyền giáo Tây Nguyên và công trình của Chúa Thánh Thần. Lý do cha Jannin đưa ra là công cuộc truyền giáo ở đây cần có một đội ngũ cộng tác viên người dân tộc: họ dễ dàng gần gũi và giao tiếp với đồng bào họ hơn các thừa sai ngoại quốc hay người Kinh (9).

Sáng kiến đó đã gặp nhiều sự phản đối vì cho là không tưởng. Làm sao đưa con em người dân tộc vốn thích sống tự do từ trong rừng sâu đem về “nhốt” trong một trường nội trú với đủ thứ luật lệ gò bó và thúc ép phải học hành? Rồi trường Kuénot đã được hình thành năm 1905 và cho đến năm 1975, đã đào tạo hàng ngàn Yao Phu,. Sau khi tốt nghiệp, họ trở về làng cũ, lập gia đình và sống giữa bà con như môt người dân bình thường. Trong những năm chiến tranh ác liệt cũng như trong thời gian khó khăn nhất, hàng giáo sĩ mới thấy được đội ngũ Yao phu nhiệt thành và trung kiên là một hồng ân lớn lao Chúa ban cho miền Tây Nguyên để giữ gìn đức tin của những đồng bào dân tộc hèn mọn nghèo khổ.

Nghe hay đọc các chứng từ rất mộc mạc mà sống động của nhiều tín hữu người dân tộc (10), chúng ta thấy Thiên Chúa tiếp tục làm những điều lạ lùng để chứng tỏ Người yêu thương con cái của Người. Đức tin của người Kinh chúng ta thường quá duy lý, coi những phép lạ Chúa làm như là những chuyện của thời xa xưa trong Kinh Thánh mà quên rằng quyền năng của Chúa luôn thể hiện cho những kẻ thật sự tin Người. Bởi vì đối với người dân tộc đơn sơ chất phát, tin theo Chúa là ký thác hoàn toàn vào lòng yêu thương của Chúa. Trong mọi hoàn cảnh khó khăn tuyệt vọng (đau yếu bệnh tật, thiếu thốn…) họ đều trông cậy nơi Chúa bằng lời cầu nguyện: cả nhà cầu nguyện, cả xóm cầu nguyện, cả làng cầu nguyện và Chúa đã ra tay ban cho họ nhiều ơn lạ lùng. Họ “có phúc vì tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người nói” (Lc 1.4)

6. “Chúng mình đều là con cái Chúa hết mà!”

Trong cuộc hội thảo “Sống đạo theo cung cách Việt Nam” do Ủy Ban Giám Mục đặc trách giáo dân tổ chức tại Huế tháng 4/2004, đoàn Giáo phận Kontum giới thiệu chứng từ của một số tín hữu người dân tộc, trong đó có ông Pêtrô Tơch, xuất thân từ trường Cuénot, Yao phu làng Mang La, xã Ngọc Bày (Kontum). Khi biết ông có đứa con trai đầu lòng lên là Pierre Tis đang là linh mục phụ trách một giáo xứ ở ngoại ô Paris (Pháp), nhiều sơ đến chào và chúc mừng “Ông cố”. Ông Tếch đã đáp lại theo kiểu người dân tộc: “Cố, cố, cái gì? Chúng mình là con cái Chúa hết mà!”. Âu cũng là bài học cho nhiều “ông cố”, “bà cố” thích được tôn vinh trước người đời mà không nghĩ rằng ơn được gọi làm linh mục, tu sĩ chỉ có thể là hồng ân Chúa ban cho.

Theo tín ngưỡng cổ truyền của hầu hết các cư dân bản địa Tây Nguyên, có một Đấng tối cao, nhân từ, vĩnh hằng, là tinh thần thuần túy, đứng trên các Yang (Thần), được gọi là Ndu hay Ae Die… Con người không được phép kêu tên Ngài, không thể trực tiếp cầu khấn với Ngài (11). Đồng thời, các dân tộc Tây Nguyên cũng đều có tập tục “kết nghĩa cha (mẹ) con” (krao bă (mẽ) kon) được thực hiện bằng nhiều nghi thức khác nhau tùy theo bộ tộc nhưng bao giờ cũng có rượu và máu của con vật hiến tế (heo, dê, gà...). Đó là một giao ước liên kết hai người một cách bền vững như huyết thống. Khi trở thành Kitô hữu, người dân tộc hiểu rằng nhờ Máu Cứu chuộc của Chúa Kitô con Thiên Chúa mà mình được kết nghĩa Cha con với Người, cũng là Đấng tối cao, nhân từ, vĩnh hằng. Nhờ sự kết nghĩa đó con người dù hèn mọn nghèo khổ cũng được gọi Người là Cha và cầu xin với Người điều mình cần giúp. Vì thế các tín hữu người dân tộc cảm nhận một cách sâu sắc ân huệ lớn lao được làm con cái Chúa và mọi người thuộc các dân tộc đều là anh em một Cha trên Trời, kể cả người Kinh (der Yoan) là những kẻ mà người dân tộc thường rất e ngại. Kinh Lạy cha mà họ đọc “Ớ Bă nhôn mă oei tơ plẽnh”, là nguồn động lực củng cố niềm tin của họ, đặc biệt trong các thánh lễ có nhiều đoàn tín hữu từ khắp nơi tham dự.

Trước đây, đồi núi và sông suối ngăn cách làng nầy với làng khác khiến các bộ tộc sống gần như cô lập, tạo nên nhiều phương ngữ đa tạp, có khi dân hai làng cùng một bộ tộc nhưng lại không hiểu nhau. Ngày nay, đường giao thông dễ dàng giúp tạo nên sự giao tiếp rộng rải giữa nhiều thành phần dân tộc. Các cuộc hành hương hay đại hội như La Vang, Thánh Thể…qui tụ đông đảo giáo dân từ nhiều miền của đất nước là dịp rất tốt thể hiện tình hiệp thông giữa đoàn con cái Chúa, có tác động mạnh mẽ đối với đức tin của những tín hữu người dân tộc tham dự và có ảnh hưởng đến cả các cộng đoàn trong các buôn làng xa xôi hẻo lánh.

7. “Thuốc phiện” của đồng bào dân tộc hay sự nhẫn nhục cam chịu vì Nước Trời?

Theo Karl Marx, “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” vì tôn giáo ru ngủ các tín đồ bằng cách dạy họ phải biết cam chịu những bất công ở đời nầy để được hưởng hạnh phúc đời sau. Thiết nghĩ điều nầy cũng đúng một phần đối với đa số đồng bào dân tộc Tây Nguyên, bởi vì hơn bao giờ hết, người bản địa Tây Nguyên đang phải chịu thân phận nghèo khổ, nạn nhân của nhiều bất công xã hội. Người dân Jarai ngày nay thường than thở: “Lon ta abih rai, dlai ta abih ram, gơnam-tam abih rơngă!” (Đất tàn, rừng nát, của cải tiêu tan). Rừng, nguồn cung ứng cho mọi nhu cầu vật chất cũng như tinh thần, bị tàn phá vô tội vạ, đất đai màu mỡ bị thu hẹp do việc mở rộng các nông trường, quyền sở hữu của cộng đồng làng không được thừa nhận (12). Chưa hết, buồng chuối, luống khoai hay rẫy bắp của bà con đến ngày thu hoạch có thể bị đám người di dân từ đâu đến lấy mất ban đêm mà không biết kêu ca kiện cáo với ai được. Con bò nuôi thả ven rừng, cũng có thể bị kẻ xấu dắt vào rừng xẻ thịt bỏ bao chở đi bán không biết chừng. Đó là chưa kể đến nhiều vụ trao đổi mua bán lừa đảo lớn nhỏ mà người dân tộc bao giờ cũng là nạn nhân.

Thân phận thấp cổ bé miệng đó đã làm cho đồng bào dân tộc đành phải sống cam chịu. Chính trong hoàn cảnh đó, người dân tộc tin theo Chúa, cảm nhận được tình thương của Chúa, dù mình nhỏ bé hèn mọn bị bỏ rơi. Những người dân tộc mắc bệnh cùi bị đuổi vào rừng sâu, nắm co rút trơ trọi trong căn chòi lá rách nát, cũng tìm được niềm an ủi vì tin rằng Chúa yêu thương mình và sẽ thực hiện lời Người hứa: “Phúc thay ai hiển lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp. Phúc thay ai sầu khổ vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an… Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của ho…” (Mat 5,1)

Hoàng đế Napoléon từng coi tôn giáo là phương tiện giúp ổn định xã hội, vì người dân luôn sợ làm điều ác trái với đạo, cũng giống như ở phương Đông gian dân có quan niệm sống ăn ngay ở lành làm phước để đức cho con cháu. Còn đồng bào dân tộc tin Chúa nên nhẫn nhục cam chịu mọi bất công vì nước Trời. Vì thế cho rằng tôn giáo là nguyên nhân gây ra những biến động xã hội ở Tây Nguyên là luận điệu tuyên truyền dường như không thuyết phục được ai. Thiết nghĩ các kẻ không tin tưởng gì hết vào đời sau mới là những người đang đục khoét phá hoại đất nước nầy hơn ai hết.

Thay lời kết: Xin trả lại sự thật và công bằng cho niềm tin của các dân tộc Tây Nguyên

Trên đây chỉ là vài nét phát họa sơ sài về đời sống đức tin của những anh chị em dân tộc Tây Nguyên, nhưng có lẽ cũng đủ cho những người giáo dân Kinh chúng ta suy nghĩ về niềm tin của bản thân mình. Nói theo từ ngữ dễ hiểu của người dân tộc, “trong trường học của Chúa Kitô”, theo “thang chấm điểm” (barème) của Ngài, khác xa cách đánh giá của loài người chúng ta, có lẽ các tín hữu người dân tộc đứng trên chúng ta một hai bậc, là đàn anh đàn chị của chúng ta về mặt đức tin. Theo ghi nhận của các thừa sai miền Jarai, trong các buổi chia sẻ Lời chúa, có cả giáo dân Kinh tham dự, người hướng dẫn tự phát thường không phải là ông bà “đạo gốc”, “đạo dòng”, mà là một tân tòng Jarai nghèo khổ ít học. Trong tinh thần đó, chúng ta không ngạc nhiên khi một thánh nữ ít tuổi đời và học hành không bao nhiêu như Têrêsa Hài Đồng, lại được tôn vinh là Tiến sĩ Hội thánh và Bổn mạng các nhà truyền gíáo.

Đối với những người cầm quyền cai trị, thiết nghĩ cũng đến lúc trả lại sự thật và công bằng cho niềm tin tôn giáo của đồng bào dân tộc chúng ta ở miền rừng núi. Niềm tin đó không thể mua chuộc bằng của cải vật chất, lại càng không thể áp đặt bằng quyền lực, bởi vì thứ đức tin như thể không thể bền vững lâu dài. Ai cũng biết, niềm tin tôn giáo là quyền thiêng liêng của mỗi người mà pháp luật ở đâu cũng phải tôn trọng và bảo vệ. Và kẻ đáng bảo vệ trước nhất phải là những người yếu đuối bị thiệt thòi hơn hết. Hy vọng đã qua rồi cái thời mà trong dịp lễ Giáng sinh, các nhà thờ ở các thành phố lớn được khuyến khích trang hoàng đèn hoa rực rỡ trong khi tại các làng hẻo lánh trong rừng núi, tín hữu người dân tộc lại bị ngăn chặn cấm cản không cho đi dự lễ.

Xin đừng quên, trong tâm thức đơn sơ chất phát của người dân tộc, chỉ có ma quỷ mới tìm mọi cách ngăn chặn họ theo đạo Chúa, một đạo giúp họ sống kết hợp với Thần thánh, ăn ở tốt hơn với đồng loại, biết nhớ ơn ông bà tổ tiên, từ bỏ các hủ tục mê tín dị đoan cũng như luôn cố gắng giữ gìn và truyền lại cho con cháu tinh hoa văn hóa cha ông để lại.

Chúng ta đã có Viện Nghiên cứu Tôn giáo, các học giả ở đó có thừa khả năng và đầy đủ phương tiện tìm hiểu thấu đáo và trung thực đức tin của đồng bào dân tộc cũng như công cuộc truyền giáo Tây Nguyên để trước hết không còn có những cuốn sách viết về Tây Nguyên với cách suy diễn vô căn cứ xúc phạm nặng nề đến niềm tin của đồng bào dân tộc. Thứ đến và quan trọng hơn, để giúp cho những người hoạch định chính sách tôn giáo đối với miền Tây Nguyên có được cái nhìn công bằng và hợp với sự thật hơn.

__________________________

(1) Theo số liệu trong tập “Đường truyền giáo Tây Nguyên, 1848-1998”, Giáo phận Kontum phát hành 1998

(2) 35 năm Sứ vụ Gia Rai, DCCT-VN, 10/1969-10/2004, tr. 7

(3) Xem Jacques Dournes, Dieu aime les paiens (Thiên Chúa yêu thương dân ngoại), NXB Aubier, Paris 1963

(4) Sách nói trên, tr. 59-62

(5) “Cultural Recovery and Development Work as a Process of Self-Empowerment among Jarai people in Chưsê”. Manila 7/2003

(6) Jacques Dournes, Populations montagnardes du Sud-Indochinois (1950), bản dịch “Miền đất huyền ảo” của Nguyên Ngọc, NXB Hội Nhà Văn, 2003, tr. 410.

(7) Sách vừa dẫn, tr. 78

(8) Sứ vụ Jarai, tr. 7-8

(9) Xem tham luận của Lm Nguyễn Văn Thượng “Bôl Yao phu Giáo phận Kontum, Công trình của Chúa Thánh Thần” trong Hội thảo “Sống đạo theo cung cách Việt Nam”, 2004 tại Huế.

(10) Tài liệu hội thảo “Sống đạo theo cung cách Việt Nam”, 2004, tr.177-196

(11) Miền đất huyền ảo”, tr. 317-318

(12) Sứ vụ Jarai, tr. 121

Đọc thêm các bài cùng một dạng, xin mời vào:

www.suyniemloingai.blogspot.com

www.chuyenphiemdaodoi.blogspot.com

Wednesday, 25 November 2009

Lm Chân Tín, CSsR: Mùa Xuân đổi mới


Xuân đã trở về trên đất Việt.

Từ chốn thành thị đến nơi thôn dã, người ta tưng bừng đón xuân. Trong bầu khí náo nhiệt của mùa Xuân, chúng tôi gửi đến quý vị lời chúc mừng năm mới.

Năm mới đến, vạn vật hình như sống lại trong niềm hân hoan của một mùa xuân đầm ấm. Trong cái đẹp dịu dàng của bó hoa xuân, trong bầu không khí đầm ấm của thiên nhiên, một sinh lực mới đã nảy nở ở cỏ hoa, ở mỗi sinh vật. Nó cũng phải nẩy nở trong lòng chúng ta. Vì thế, bên thềm Nguyên Đán, chúng tôi cầu chúc quý vị độc giả một sinh lực mới. Với thời gian, đông qua xuân lại, mọi vật đều biến chuyển, đều thay cũ đổi mới để đi đến chỗ toàn hảo. Sự tuần hoàn của vụ trụ, sự thay cũ đổi mới của vạn vật tượng trưng cho cuộc tái sinh của con người.

Mỗi lần đông qua xuân lại, người ta thường nghĩ đến cái mới. Nhà nông mơ ước một mùa gặt mới tốt đẹp hơn các năm trước; nhà thương mại nghĩ đến những kế hoạch mới để thu lời nhiều; nhà kỹ nghệ tìm phương pháp mới để phát triển công nghệ; những chính trị gia ấn định những bí quyết mới để đạt cho kỳ được những thắng lợi vẻ vang. Tuỳ theo hoàn cảnh của từng giới, người ta lưu ý đến hàng trăm ngàn cái mới khác nhau: mới về đàng tiền tài và danh vọng, mới về chức tước và uy quyền, hoặc mới về tình duyên và sức khoẻ. Nhưng cái mới của tâm hồn mới quan trọng. Tiền tài, danh vọng, chức tước hay uy quyền, cũng cần thật. Nhưng nếu thiếu cái mới của tâm hồn, thì những cái phụ bên ngoài kia vẫn chưa thể gây được hạnh phúc cho ta, hơn nữa chúng còn mang theo mầm mống phá hoại hạnh phúc và còn có thể gieo thất bại khổ nhục vào đời người. Vì thế, trong cái vui của đầu xuân, chúng tôi tha thiết chúc quý vị một đời sống mới, một sinh lực thiêng liêng mới.

Thánh Phao-lô viết: “Anh em phải loại trừ lối sống cũ và cởi bỏ con người cũ là con người hư hỏng bởi những ước muốn đốn mạt, để cải tân phán đoán và mặc lấy con người mới đã được Thiên Chúa tạo dựng giống như hình ảnh Thiên Chúa trong công chính, thánh thiện và chân lý.” (Ep 4: 22-24)

Cởi bỏ người cũ và mặc lấy người mới, đó là tất cả đời sống Công giáo. Con người cũ là con người mang nặng một xác thịt yếu đuối, con người bị những ước muốn tội lỗi đoạ đày, con người mù quáng bởi những ý nghĩ tàn bạo. Và con người mới là con người đã được dựng nên trong chân lý và thánh thiện, con người đã được Chúa Giêsu rửa sạch trong Máu Thánh Người. Mặc lấy con người mới là mặc lấy những tâm tình, những ý nghĩa của Giêsu. Mặc lấy người mới là sống đời sống của chính Chúa Giêsu, như lời thánh Phaolô nói: “Tôi sống, nhưng không phải tôi, chính Chúa Giêsu sống trong tôi.”

Mùa xuân là mùa đổi mới. Tất cả những gì là sinh lực ẩn mình trong lòng đất đã tới ngày trồi vượt lên để hoà nhịp sông của mình với nhựa sống của vũ trụ, để thay thế cho tất cả những cái già nua, tàn úa, để tạo nên một trời mới, một đất mới. Vũ trụ đổi mới, con người cũng phải đổi mới, người Công giáo còn phải đổi mới luôn nữa.

Xuân sang, nguyện chúc quý vị thực hiện trong bản thân, trong gia đình, trong tổ quốc, trong nhân loại, một cuộc đổi mới toàn diện.

Lm Chân Tín, CSsR

2/1962

(xem thêm các bài cùng một dạng, xin mời vào;

www.suyniemloingai.blogspot.com

www.chuyenphiemdaodoi.blogspot.com

Monday, 23 November 2009

Gs Nguyễn Ngọc Lan: Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi


“Ngợi khen Thiên Chúa Ba Ngôi cùng một bản thể duy nhất. Chúng ta hãy ca tụng Người vì Người đã tỏ lòng thương ta” (Ca nhập lễ Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi).

Từ đầu năm phụng vụ, Hội Thánh đã lần lượt nhắc nhớ và mừng kính.

Chúa Cha đã ban Con Ngài để cứu độ chúng ta.

Con Ngài, Ngôi lời đã thành xác phàm, làm người, sinh ra (Mùa Giáng Sinh), thụ nạn và chịu chết (Mùa Thương Khó) và sống lại lên Trời ngự bên hữu Chúa Cha (Mùa Phục Sinh).

Và đã ban Thánh Thần làm sức sống mãi mãi của Hội Thánh (Lễ Hiện Xuống).

Sau đó, Hội Thánh mới mừng kính Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Với lời mời gọi : “Chúng ta hãy ca tụng Người vì Người tỏ lòng thương ta”. Chỉ bấy nhiêu, nhưng lại chính là thái độ thích hợp nhất trước Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi khi nhận thức đúng đắn về ‘mầu nhiệm’, bắt đầu từ mầu nhiệm con người, hình ảnh của Thiên Chúa.

Không phải là vấn đề,

Không phải là bí mật mà là tâm sự.

Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một “vấn đề”.

Càng không phải là một vấn đề toán học. Mầu nhiệm không phải là một vấn đề. Càng không phải là một vấn đề toán học… một bài toán. 3 là 3, 1 là 1, không tính với toán nào mà 1 là 3 hay 3 thành 1 được cả. Thiên Chúa không phải là những con số. Đừng làm trò ảo thuật lý luận đưa ngón tay ba đốt tay hay hình tam giác mà ví von. Làm như thế là đùa bỡn với Thiên Chúa, còn tệ hơn phủ nhận Ngài. Thậm chí như kinh sĩ Kir đã từng làm đến độ… siêu đẳng. Kinh sĩ Kir là nhân vật nổi tiếng cả trong Giáo Hội lẫn trên chính trường Pháp suốt mấy mươi năm sau Đệ nhị thế chiến. Trong cuốn Le problème religieux (“vấn đề tôn giáo”, lại “vấn đề”!) ông lập luận : người ta cứ hay thắc mắc về các “mầu nhiệm” trong đạo, nhưng mầu nhiệm trong đạo có bao nhiêu đâu so với các mầu nhiệm trong thiên nhiên. Rồi cứ lấy ngay mầu nhiệm gay go nhất trong đạo là Thiên Chúa Ba Ngôi. Đạo đâu có dạy 1 + 1 + 1 = 1, điều đó vô lý. Đạo dạy 1 x 1 x 1 = 1, ngược lại : tại sao chỉ nhân có ba lần thôi! Kir đã vô tình làm trò ảo thuật biến Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi thành bài toán ba xu. Lầm lẫn Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi với một vấn đề, cố biện luận “ngon lành” khi diễn giải, người ta chỉ có thể đùa dai mà phạm thượng một cách vô tình và … nhiệt tình.

Thiên Chúa Ba Ngôi, Mầu Nhiệm không phải là “bí mật”, như bí mật nghề nghiệp, bí mật nhà nghề, bí mật quân sự .v.v… Bí mật là một thứ thiên hạ giấu kĩ. Để lộ ra hết bí mật. Còn Thiên Chúa, chính vì Ngài tỏ mình ra cho con người, tâm sự, mặc khải với con người, con người mới gặp và được gặp Mầu Nhiệm của Ngài. Bí mật thì người ta giữ riêng, còn Mầu Nhiệm là quà tặng của Thiên Chúa cho con người. Nhưng Mầu nhiệm vẫ còn đó vì ngay giữa người với người, tâm sự không phải là tự bóc trần, tự lột trần, không phải là “lộ tẩy”. Nhận tâm sự không phải là “lật tẩy” (như đối với một bí mật).

Cho nên thái độ thích hợp nhất trước Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi ít nữa phải tương tự thái độ con người cần có khi đứng trước một con người.

Không phải “thiên chúa” hay vũ trụ vật chất, không phải những con số, không phải những bí mật này nọ mà chỉ có con người đã được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Vì con người là trí tuệ và tự do, nhưng cũng vì con người, mỗi con người còn là mầu nhiệm.


Con người là mầu nhiệm

Con người là mầu nhiệm đối với nhau. Không gì láo xược cho bằng đòi “đi guốc trong bụng” người khác. Người ta chỉ có quyền và có thể “đi guốc” trong bụng vũ trụ vật chất. Mọi tham vọng tìm tòi của khoa học, sâu đến đâu, rộng đến đâu, xa đến đâu đi nữa đều là chính đáng vì đáp ứng lời mời gọi của Thiên Chúa từ ban đầu : “Hãy bá chủ nó ! Hãy trị trên cá biển và chim trời…” (St 1,28). Vũ trụ vật chất có vĩ đại, bao la, cực nhỏ và cực lớn vô hạn thế nào đi chăng nữa thì chỉ là vấn đề, những vấn đề, chỉ gồm những vấn đề thách thức trí tuệ con người và để con người mặc sức lý giải, tìm hiểu. Nhưng không làm gì có “mầu nhiệm trong thiên nhiên” để kinh sĩ Kir bảo là nhiều.

Con người có thể là đối tượng của hiểu biết khoa học, như sinh lý học, tâm lý học, xã hội học.v.v… Nhưng con người vẫn chỉ thực sự biết nhau là nhờ tâm sự cho nhau. Có “nói bụng mình ra” với nhau thì mới biết được bụng của nhau. “Bụng” này nghe thì thô thiển nhưng vượt tầm với của các sinh lý học lẫn tâm lý học hay xã hội học, vượt tầm với mọi thứ khoa học, vì không chỉ còn là “vấn đề”.

Có tâm sự cho nhau mới biết được bụng nhau, nhưng biết cài này chỉ là tương đối. Có muốn tâm sự hết mình đi nữa thì tâm sự không phải là tự bóc trần, tự lột trần đã đành ( tâm sự khác với strip-tease!) mà cũng không thể làm sao chia sẽ cho người khác biết mình như mình biết được.

Người tâm sự không bao giờ nói ra được hết ý lòng mình do bởi ngôn ngữ (theo nghĩa rộng nhất) luôn hạn hẹp. Ý tại ngôn ngoại, nhưng những gì ở ngoài ngôn ngư lại vô phương nắm bắt cho đúng hay cho hết được.

Người tâm sự không thể nào nhận được hết, không thể nào chia sẻ hoàn toàn được. Mỗi con người là một thế giới độc đáo, độc nhất vô nhị, với tâm lý riêng, khả năng cảm nhận riêng, kinh nghiệm sống riêng. Giữa hai con người không thể có hiện tượng cùng một tần số y boong như giữa một đài phát thanh và một đài thu thanh để có sự truyền thông đơn giản. Biết bao nhiêu yếu tố khác biệt để làm nhiễu, để giới hạn sự cảm thông giữa cả những người thân thiết nhất, tri âm, tri kỉ. Người đang không vui làm sao cảm nhận được tâm sự người đang vui ? Người đang vui ít với người đang vui nhiều, người đang vui thế này với người đang vui thế nọ cũng thế. Vợ là thi nhân làm sao cho chồng là kỹ sư cũng thấy chiếc cầu tre lắt lẻo y như mình ? Mười nhà thơ, nói chi đến mười anh lính, cũng không thể đồng nhịp “ngắm trăng, ngăm!” như trong Ly thân, cho dẫu là theo tiếng hô của một nhà thơ đi nữa. Chưa nói đến những Nguyễn Du hay những Mozart. Mozart có tâm sự hết mình đi nữa cũng không làm được cho một ai khác có thể cảm nhận Lễ Requiem của Mozart bằng hay như Mozart. Có Bá Nha – Tử Kỳ để đồng cảm một tiếng đàn đi chăng nữa thì dư âm tiếng đàn trong tâm tư Bá Nha vẫn không hoàn toàn trong tâm tư Tử Kỳ. Thường thì tri âm được coi là đồng nghĩa với tri kỷ. Thực sự thì tri âm đến đâu nữa vẫn không thể là tri kỷ hoàn toàn.

Yêu thương đối với bé là mẹ là cha, là anh chị em, là những người gần gũi, quen thuộc. Thế rồi bỗng dưng có một anh chàng nào đó, một cô nàng nào đó lạ hoắc lui tới nhà với chị hay anh của bé. Rồi họ cưới nhau, không rời nhau. Bé thắc mắc : sao vậy ? Anh hay chị sẽ bảo vì thương với yêu, không giấu gì bé, nhưng bé làm sao hiểu được cái thương với yêu này. Bé phải chờ mai sau mới đến lượt mình… mới hiểu được. Nhưng mai sau khi hiểu được thế nào là “yêu” thì cha mẹ, anh chị em, bạn bè xung quanh lại chưa hẳn đã dễ hiểu tại sao “hắn yêu chi cô nàng nọ” hay “anh chàng kia”.

Con người còn là mầu nhiệm đối với chính mình. Không ai đi guốc được trong chính bụng mình. Không ai biết được tường tận hay chính xác bụng mình thế nào. Hồi học tiểu học, ta viết hai trang giấy học trò tả một ông thầy bói, một bà bán chè, ta đã tưởng tượng như sao y bản chính. Càng lớn lên, ta càng khó nói thật chính xác về bản thân mình, chẳng qua vì biết mình đâu có chính xác được. Có viết ra hàng nghìn trang tự sự với tất cả chân thành thì cũng không thể vô tâm hay trâng tráo ký nhận “trên đây là sự thật 100%”.

Nguyên từng cử chỉ, hành vi tầm thường nhất của mình, con người không thể đánh giá được nó tốt xấu thế nào thực sự, nó tốt về mặt nào, đến mức nào, xấu về mặt nào, đến độ nào, ý nghĩa thực sự của nó là thế nào. Vừa cho người hành khất gặp bên đường 500 đồng bạc ? Chỉ vài phút sau, cứ thử đánh giá cử chỉ đó. Vì thương cảm? Để khỏi bị quấy rầy? Vì có người nhìn mình ? Do thói quen máy móc? Có động lực nào thực sự duy nhất? Còn nếu là cả vì động lực này lẫn động lực nọ thì làm sao xác định được động lực nào hơn động lực nào, động lực này bao nhiêu phần trăm, động lực nọ bao nhiêu phần trăm v.v…?

Đây cũng là đề tài của vở kịch “Một người của Thiên Chúa”, Un home de Dieu của Gabriel Marcel. Chỉ cần một biến cố không đặc biệt gì lắm xảy đến đã đủ gây sóng gió trong cách nhận thức về nhau giữa một gia đình lâu nay đầm ấm kiểu mẫu… Nhân vật chính, vị mục sư, bị dằn vặt hơn ai hêt : Ông là ai? Có thực sự là “một người của Chúa” hay chỉ là một tên hề giả dối suốt đời? Không ai trả lời được cho câu hỏi đó, kể cả… tác giả ! Ở màn cuối, trong giờ phút tuyệt vọng, vị mục sư chỉ còn biết đưa mắt nhìn lên trời. An ủi cuối cùng của ông là còn được ai đó biết mình đúng đắn, thực sự. “Être connu tel que l’ on esst”. Nhìn nhận Thiên Chúa biết mình hơn chính mình biết mình đó là khiêm tốn và tôn vinh Thiên Chúa cách đích thực nhất.

Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm siêu việt

Con người là mầu nhiệm theo hình ảnh Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa siêu việt thì vẫn khác con người hơn là như con người.

Ngài không là Mầu Nhiệm đối với chính Ngài. Ngài hoàn toàn trong suốt với chính mình. Thiên Chúa tụ hữu cũng là tự trị. Không như con người không tự mình mà có, cũng không biết mình thực sự.

Ngài chỉ là Mầu Nhiệm đối với con người ngay cả với chính khi Ngài tự ý tâm sự với con người, “tỏ mình ra cho chúng ta”. Chỉ vì giới hạn vẫn không thể tránh được từ phía con người. Con người đón nhận tâm sự của tha nhân mà còn bị giới hạn bởi tâm lý riêng, khả năng cảm nhận riêng, kinh nghiệm sống riêng, kinh nghiệm sống riêng của mình. Nói chi con người khi đón nhận tâm sự của Thiên Chúa, mặc khải của Ngài về chính Ngài. Giai thoại quen thuộc về Thánh Augustino đi lại trên bãi biển tìm hiêu Thiên Chúa Ba Ngôi rồi gặp một chú bé vọc nước, giai thoại ấy vẫn có ý nghĩa và đáng nhớ mãi.

Ca tụng Ngài vì Ngài tỏ lòng thương ta

Ý thức mầu nhiệm con người, Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi thì cũng tôn trọng con người, phụ phục trước Thiên Chúa Ba Ngôi (có lẽ phải học thái độ thờ lạy của an hem Hồi giáo trước Allah hoặc cũng đừng quá quên dáng dấp của Mosê trên đỉnh núi Sinai).

Nhưng thái độ Kitô hữu không phải là “kính nhi viễn chi” đối với Thiên Chúa cũng như đối với tha nhân.

Trái lại hôm nay chúng ta mừng Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mừng Thiên Chúa đã thương “làm cho chúng ta được am tường về Người” (Ep 1,17). Ngài đã tỏ ra cho chúng ta được biết Ngài là Thiên Chúa duy nhất nhưng không phải là Thiên Chúa đơn độc : Ngài là cộng đồng Ba Ngôi thương yêu nhau trong cùng một bản tính duy nhất.

Còn hơn nữa là mừng Thiên Chúa từ thuở ban đầu khi tạo dựng con người, đã con người được làm con cái Ngài, chia sẻ sự sống của Ngài.

Ngài còn cho con người phản ảnh Cộng Đồng Ba Ngôi.

Con người được tạo dựng không phải con người cô độc, “một mình không tốt”. Nhưng là con người nam và nữ, con người mở rộng trong không gian và thời gian làm thành cộng đồng nhân loại, liên đới với nhau, hòa hợp thương yêu nhau và hòa đồng với vạn vật trong vũ trụ, để làm hình ảnh cho chính sự hợp nhất của cộng đồng Ba Ngôi Thiên Chúa.

Nhưng con người đã phạm tội và làm đổ vỡ hình ảnh đó. Mất tình nghĩa với Thiên Chúa cũng là mất luôn sự hòa hợp giữa người với người, sự hòa đồng với vũ trụ : chỉ còn Tháp Babel và mồ hôi nước mắt.

Tuy vậy Thiên Chúa không bỏ mặc con người.. Đã có lời hứa từ buổi đầu… Đã có các giao ước nới Noe, Abraham, Môsê.v.v… Ngài dần dà nối lại loài người với Ngài, loài người với nhau. Và cuối cùng Ngài thực hiện công trình đó một cách dứt khoát và trọn vẹn trong Chúa Kitô.

* Tất cả được giao hòa lại trong bản thân Đức Kitô, sự chết- sống lại của Ngài (Et 1,9tt; 2,11tt).

* Đức Kitô lại ban Thần Khí của Ngài cho chúng ta để cho chúng ta được chia sẻ chính nếp sống làm Con của Ngài đối với Cha Ngài : “Vì phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa dẫn đưa thì họ là con cái Chúa. Quả thế không phải thứ thần khí của hàng nô lệ là điều anh em đã chịu lấy, để mà phải sợ hãi. Nhưng an hem đã chịu lấy Thần Khí của hàng nghĩa tử, nhờ đó ta kêu lên : Abba, Cha ơi ! Chính Thần Khí chứng thực cho thần hồn ta rằng : ta là con cái Thiên Chúa; mà nếu là con, thì cũng là kẻ thừa tự với Đức Kitô, một khi ta cũng cam chịu khổ với Ngài để rồi cũng chia phần vinh hiển với Ngài”

Ý nguyện thích hợp nhất khi chiêm ngưỡng Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi chính là lới chú nguyện của Thánh Phaolô cũng là lời Hội Thánh chúc nguyện đầu mỗi thánh lễ :

“Nguyện xin ân sủng Đức Yêsu Kitô Chúa chúng ta và tình thương Chúa Cha và ơn hiệp thông của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh em”

Sống trong ân sủng Chúa Kitô, nên một với Ngài cũng là sống tình hiếu thảo với Cha trên trời và sống tình an hem với tha nhân. Mỗi hành động yêu thương, phục vụ đích thực đều góp phần sửa lại khuôn mặt cộng đồng nhân loại, làm đẹp khuôn mặt đó hơn. Để thêm cảnh gia đình con cái Thiên Chúa thông hiệp với nhau, thương yêu nhau và như thế là để cộng đồng nhân loại làm hình ảnh trung thực hơn cho chính Cộng Đồng Ba Ngôi Thiên Chúa. Không chỉ như ý định sáng thế mà còn theo lịnh truyền, di chúc của Chúa Yêsu :

Như Cha thương yêu Thầy, Thầy yêu thương anh em (và) như Thầy thương yêu anh em hãy thương yêu nhau (Ga 15,9-12).

Nguyễn Ngọc Lan


(Đọc thêm các bài cùng một dạng, xin mời vào:


www.suyniemloingai.blogspot.com

www.chuyenphiemdaodoi.blogspot.com)

Saturday, 21 November 2009

Bỏ phế vua


Lm Richard Leonard

(Mai Tá dịch)

Vua quan ở đời, vào bảo tàng viện mới đây thôi, mà nhà thơ họ Hà đã vội viết:

“Trẫm muốn tru di đám ngọai thần

Cô dì tỷ muội chẳng can ngăn

Nơi nào em tới niêm phong hết

Cho hả lòng đây nhớ ái khanh.” (Hà Huyền Chi – Bỏ phế vua)

Đức Chúa trên cao, lâu nay cùng sống với dân, nào ai biết hỏi han. Chỉ hỏi han thôi, mấy ai màng thần phục với bái tuân, như Vua trời đất. Vâng. Vị Vua không ngai, không vương trượng, cũng chẳng áo mão lẫn cân đai. Nhưng thực tế, với dân con nhà Đạo, năm nào ta cũng về dự lễ Vua Cha, Đấng cứu độ muôn người, vào tháng ngày còn lại của mùa xuân phụng vụ, rất siêng chăm.

Siêng chăm – hằng nhớ. Nhớ ngày Đức Piô XI thiết lập lễ Kitô Vua, khởi đầu năm thánh 1925. Đại lễ bắt nguồn gần nửa thế kỷ trước, hồi thập niên 1880, khi nhiều Giám mục ở Châu Âu đã lo âu thấy rõ phong trào tục-hoá nhà Đạo nổi lên như diều. May thay, trào lưu phàm tục này đã không lập lại vào các thế kỷ về sau.




Ưu tư lo lắng của các giám mục thời bấy giờ, là: sao ta lại để cho quyền hành trần thế ngày một lấn lướt, tạo thế “hơn hẳn”, chống trả thần quyền, đến thế? Đặc biệt hơn, các Giám mục ở Pháp và Ý đã ý thức được tầm quan trọng cần thờ kính Đức Giê-su Kitô Vua, Vua-Cha của vũ trụ. Và, lòng sùg kính Đức Kitô Vua từ đó phát triển mạnh, đến hôm nay.




Năm 1922, Đại Hội Thánh Thể ở Rôma, có 69 vị Hồng y Giáo chủ đã thỉnh cầu Đức Giáo Hoàng hãy cho phép thiết lập đại lễ mừng kính Vua Cha Cao Cả, cho mọi người. Suốt ba năm, đền Vatican tràn ngập thỉnh nguyện thư, cùng đòi hỏi Giáo hội phải làm điều gì để mừng kính Đức Kitô Vua. Vua trần gian. Vua vũ trụ. Vua loài người. Và chung cuộc, thì lễ kính Đức Kitô Vua đã thành hình và vẫn tiếp tục, đến hôm nay.




Với Tân Ước, dù Đức Giêsu có nói đến Vương Quốc Nước Trời, dù Ngài được tung hô vạn tuế như Vị Vua Cao Cả, Đức Giêsu vẫn quả quyết: vương quyền Ngài khác với vương triều của vua chúa ở trần gian như César, Hê-rô-đê, hoặc ngay cả Đa-vít, và các Vua Do-thái. Với tín hữu tiên khởi, mọi người đều thấm nhuần, ghi tạc tình Vua Cha. Vua tình yêu chẳng bao giờ thiếu. Trước năm 324, có rất ít tác phẩm nghệ thuật cũng như văn bản sử liệu trình bày Đức Giê-su như vị Vua Cha Cao Cả. Vào năm đó, hoàng đế Constantine mới vừa tham gia cộng đoàn dự tòng, đã biến Đạo Chúa thành Đạo uy phong lẫm liệt, cho thần dân thuộc Đế quốc ông trị vì, để tỏ bày lòng yêu thương đức vua, như một người cha.




Cũng từ đó, nghệ thuật trong nhà Đạo đã xuất tác các tượng hình, ảnh mẫu diễn tả Đức Giê-su trong long bào Vua Chúa, tay cầm quả cầu, tượng trưng Vua trái đất. Vua hoàn cầu. Thế đứng của Đức Kitô Vua trông uy nghi, tráng lệ. Và, Đức Maria, Mẹ Ngài cũng trở thành Nữ Vương Thiên Đàng, đầy yêu thương tình Mẫu hậu. Điều này cũng dễ hiểu. Nhất là, vào thời mà con dân Đạo Chúa triền miên bị bách hại, trong nhiều tháng. Từ đó, Đạo Chúa tôn kính Đức Kitô Vua đã trở thành sức mạnh uy phong, tồn tại cùng với nhân gian, ở trần thế. Có thể coi đây là thành công lớn của thần quyền, với dân gian. Tuy nhiên, con người phàm trần vẫn cần đề cập nhiều đến không gian thần thánh, cao cả hơn. Chốn không gian biểu lộ tính chân phương đích thực của Đức Kitô, Vua vũ trụ. Vua oai phong, hiền từ. Nhân hậu.



Từng thế kỷ và thế kỷ, trôi qua. Cả đế quốc hùng mạnh của Constantine, cũng không tồn tại mãi. Nhưng, các đặc trưng/đặc thù thời vua chúa nơi nhà Đạo vẫn ở lại với ngôn ngữ và phong cách của Giáo hội, đến hôm nay. Nếu cần thí dụ, ta có thể dẫn chứng ngôn ngữ nhà Đạo khi nói về nơi ăn chốn ngụ của các vị Giáo hoàng, các Giám mục mà ta có thói quen gọi là “dinh”, “toà”. Và, phẩm phục đại lễ của các ngài, vẫn mang dáng dấp áo mũ, cân đai long trọng, đắt tiền.




Vấn đề còn lại, là: các tài sản và báu vật lịch sử ấy đã phần nào đối chọi và mâu thuẫn với điều Đức Kitô nói về Ngài. Về phong cách của vị Vua Cha trị vì cả thế trần. Nói cho cùng, tính cách vua quan, lãnh chúa của Ngài đã được ghi lại vào khuôn khổ của trình thuật Thương khó. Nhiều thống khổ.




Phúc âm thánh Gio-an hôm nay rút từ trích văn bản nổi tiếng của Tân Ước, trong đó có quả quyết của Đức Kitô về tính Vua-Cha, đối với thần dân, nơi cõi thế: “Ngài tự nói điều ấy. Chính ngài nói Tôi là Vua. Tôi đã sinh ra và đến thế gian là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng Tôi…




Với thế giới hôm nay, số vua quan nữ hoàng dám nói điều đó với dân đen quần thần, quả rất ít. Tệ hơn nữa, chẳng có vua quan nào yêu dân đến độ sẵn sàng hy sinh và chết cho họ. Ngược giòng sử liệu, chúng ta đều hiểu: khi sự thật về tình yêu Vua-Cha hy sinh như thế đều mang sắc màu của một Thương Khó. Và, đây mới là sự thật về tính chất vua chúa, quan quyền mà trần gian không thể thấy.





Các lãnh chúa, vua quan ở trần gian bao giờ cũng thấy khó mà hy sinh. Càng khó hơn, khi họ phải thương yêu thần dân đến bỏ mạng sống riêng mình. Nhưng với Đức Kitô, qua tư cách rất Vua-Cha của mình, Ngài giàu lòịng thương mến. Chẳng gây thương tổn, cũng chẳng làm hại thần dân của mình bao giờ. Là Vua-Cha vũ trụ, Ngài không đầu hàng thoái thác mọi thương và khó. Nhưng, vẫn rao truyền tình thương, bất chấp khó khăn. Ngài vẫn khuyên răn, bảo vệ thần dân của Ngài.




Là Vua tình yêu biết chấp nhận những thương và khó, Đức Kitô Vua chẳng bỏ mặc dân con ở chốn điêu tàn lẻ loi, đầy chết chóc. Vua Kitô vẫn bộc lộ lòng thủy chung rất mực của Vua Tình yêu. Ngài vẫn một mực thương yêu trung thành với dân Ngài, cho đến chết. Và, lại là cái chết nhục nhã như tên trộm. Thua kém cả dân đen, hèn hạ.




Theo gương Ngài, ta chớ để quyền uy, sức mạnh trần thế uy hiếp hoặc dẫn dụ. Chớ để mắt mình bị loá mờ trước hào nhoáng chóng qua, của tiền tài vật chất, khó chối từ. Theo gương Ngài, ta chớ dại, mà dấn thân đeo đuổi những mồi chài lợi lộc quyền bính của vua quan, hoặc thủ lĩnh trần gian, đang lôi cuốn.




Tri lại, hãy biết khôn mà hạ mình. Ngước mắt lên mà hướng thượng. Hướng về Đức Kitô, vị Vua-Cha nhân hiền hằng thương yêu con dân mình hơn hẳn mọi hoàng gia - lãnh chúa, ở đời. Bởi, chỉ mình Đức Kitô Vua mới dám nói về Sự thật, với tất cả lòng thương yêu, trìu mến. Ngài không chỉ nói bằng lời, mà còn nói bằng việc chấp nhận bỏ mình để chứng minh cho sự thật Tình yêu, Ngài phú ban.





Đó mới là Sự thật. Sự thật rất khách quan. Sự thật, đến với mọi người, nơi trần thế. Sự thật, gửi đến với thần dân, Hội thánh. Sự thật về lòng thương yêu không bến bờ. Yêu thương mọi người. Yêu cả dân đen yếu hèn, hạ cấp. Ngài yêu đến nỗi bỏ cả thân mình Ngài vì người mà Ngài yêu mến. Bỏ áo mão cân đai tài sản, lẫn triều đình. Bỏ tất cả, về chung sống và vực dậy thần dân yếu hèn, là đối tượng của tình yêu Vua-Cha.




Được vực dậy, ta sẽ hỏi và sẽ hát với nhạc sĩ nổi tiếng họ Phạm, mà rằng:


“Nếu có ai giận dữ

Nếu có ai bất hoà

Nếu có ai lầm lỡ

Rồi sinh ra khắt khe…


Hãy cùng muôn người, hợp lực với nghệ sĩ họ Phạm để hát lên lời cuối, một bài thơ:



Lạy Chúa! Lạy Chúa tôi!



Nhân ái ban xuống đời



Lạy Chúa! Lạy Chúa tôi!



Cho hiếu hoà khắp nơi.




(Phạm Duy – Chúa Hoà Bình)




Và, Đức Yêsu Kitô không chỉ là Vua trần thế, không chỉ vực mọi người đến với tình yêu, mà thôi. Ngài còn là Cha của toàn thể vũ trụ, nữa. Vũ trụ của Tình Yêu. Đức Chúa của Hoà bình. Đó mới là ý nghĩa của vị Vua – Cha rất đáng mến, ở trên cao: Vua Kitô. Vua vũ trụ.



Lm Richard Leonard



MaiTá dịch<

o:p>


(xem thêm cac bài cùng một dạng,

xin mời vào www.suyniemloingai.blogspot.com

www.chuyenphiemdaodoi.blogspot.com )