Suy niệm Chúa Nhật thứ Hai Mùa Chay năm B 04.3.2012
“Dừng lại, trong lòng khói biếc bay”
Dừng lại đây, là nơi hiu quạnh
là nơi, nghe thấy tiếng cỏ cây,
là nơi, quên những mùi trần sự,
là nơi, quên những nỗi chua cay.”
(dẫn nhập thơ Lưu Trọng Lư)
Dừng lại đây, là nơi hiu quạnh
là nơi, nghe thấy tiếng cỏ cây,
là nơi, quên những mùi trần sự,
là nơi, quên những nỗi chua cay.”
(dẫn nhập thơ Lưu Trọng Lư)
Mc 9: 2-10
Dừng
lại đây, nhà thơ nay đã dừng lại, trong khói biếc. Nhà thơ dừng, để
nghe tiếng cỏ cây, và quên đi những mùi trần sự, đang khuất tất. Quên,
nỗi chua cay của thế trần. Vậy thế, nhà Đạo lâu nay há vẫn dừng? Dừng
vui chơi? Dừng hoạt động, vào mùa chay? Dừng và nhớ lại lời, khi xưa
Ngài dạy?
Trình
thuật Máccô hôm nay, ghi lời Chúa dạy ta hãy dừng. Ngài dừng lại, để tỏ
bày thiên tính với đồ đệ, trên núi cao. Tỏ bày thiên tính, Ngài trưng
dẫn những tương quan. Tương quan mật thiết, với đồ đệ. Tương quan, soi
tỏ mọi người: Ngài là ai. Nhờ tương quan ấy, đồ đệ Chúa nay nhận biết
Ngài là: Đấng Cứu độ. Đức Mêsia, mà mọi người từng trông ngóng.
Trình
thuật hôm nay còn biểu tỏ: giữa lúc kinh hoàng nhiều suy nghĩ, đồ đệ
Chúa như lĩnh nhận gáo nước dội trên đầu. Nước đây, là ân huệ gội tẩy
những suy tư không đúng cách. Liền khi ấy, Chúa kể cho nghe những điều
xẩy đến với Ngài, Đấng Mêsia-Cứu Độ, rằng:“Con Người sẽ chịu nhiều đau
khổ; bị hàng niên trưởng, thượng tế cùng ký lục phế thải, giết đi, và
sau ba ngày sẽ sống lại.” (Mc 8: 31)
Suy
cho kỹ, đây là cú “sốc” gửi đến với môn đồ đang suy nghĩ, vẫn chưa tin.
Chưa tin, là bởi: những gì các ngài vừa nghe biết, đã đi ngược mọi điều
lòng dân trông đợi, nơi Đức Mêsia. Trông đợi, Ngài xuất hiện như anh
hùng dân tộc giải phóng họ khỏi xiềng xích của địch quân, là xong. Ở
đây, Chúa nói về sứ vụ giải thoát dân con bằng khổ đau và nỗi chết, Ngài
sẽ chịu. Khác hẳn điều họ suy nghĩ.
Chẳng
thế, mà Phêrô thánh nhân đã dám càm ràm đề nghị giải pháp khác. Giải
pháp trông chờ, để hưởng thụ. Bởi thế, thánh nhân đã bị quở trách, rất
gắt gao: “Xa-tan! Hãy lui lại sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải
là tư tưởng của Thiên Chúa, mà của loài người." Chính vì thế, thánh nhân
bị coi là “đá tảng”, cản trở “Đường” Chúa sẽ đi. Vì thế, Phê-rô cùng
các thánh rất “kinh hoàng”, chẳng hiểu Thầy là Mêsia Đấng nào. Thành
thử, phần kế tiếp là giải thích Ngài muốn con dân am tường.
Chờ
ngày “N” đến, Đức Chúa không chỉ bày tỏ cho con dân biết là Ngài chấp
nhận nỗi chết theo cung cách nào. Mà còn, để dân con của Ngài, ai muốn
làm đồ đệ Chúa, cứ phải chấp nhận thập giá. Chấp nhận bước đi, suốt đời
mình. Hiệp lòng với Đấng Mêsia, không phải hiệp lòng để hưởng ơn mưa
móc, có quyền hành. Nhưng, để theo chân Chúa ngõ hầu phục vụ. Phục vụ và
tách rời, khỏi mọi thứ quyền uy, của thế trần.
Bối
cảnh trình thuật hôm nay, gồm 3 môn đệ gần Chúa nhất: thánh Phêrô và
anh em nhà Zêbêđê. Tức, thánh Gioan và Giacôbê. Cả ba môn đệ được cùng
Thầy, cất bước ra đi lên “núi thánh”. Núi thánh nào? Ở đâu? Vẫn là đề
tài gây nhiều tranh cãi. Đề tài, gây nghi ngờ ở lòng người. Nhưng, với
Kinh Sách mặc khải, việc Chúa tỏ bày thiên tính của Ngài, thường xảy đến
ở “núi thánh trên cao”. Chốn thánh thiêng, mà phần đông các tôn giáo,
vẫn thường làm.
Bỗng
đột nhiên, các môn đệ “gần gũi với Thầy’, nay đều mục kích tình huống
có Chúa đang thay hình đổi dạng. Tình huống, mà Hội thánh thời tiên khởi
gọi là cuộc “biến hình trên núi thánh”. Qua “biến hình”, người của Thầy
trở nên “rực rỡ, trắng tinh”. Điều này, biểu trưng cho luồng sáng chói
loà, của chính Chúa. Điều này, còn khiến các thánh nhận ra tổ phụ Môsê
và tiên tri Ê-li-a, đang đàm đạo. Với Chúa. Với truyền thống Do Thái, tổ
phụ Môsê được coi như trọn vẹn Lề Luật và tiên tri Ê-li-a đích thực là
đấng bậc tiên tri, thời mới sớm. Tựu trung, hai vị nay biểu trưng cho
toàn bộ truyền thống Do Thái, rất mộ Đạo. “Các vị đàm đạo với Đức
Giê-su”, hiểu theo ngôn ngữ của thế giới truyền thông hôm nay, có nghĩa
là: các thánh đã chứng xác những gì Đức Giêsu đã nói. Đã làm.
“Thưa
Thầy, chúng con ở đây, thật là hay!” kinh nghiệm sống vốn có đã từ lâu,
Phêrô thánh nhân quả thực đã hăng say, cùng nhất quyết. Thật ra, Phêrô
thánh nhân vẫn chỉ muốn thiết lập có ba di tích lịch sử, mà thôi. Một
dành cho Chúa. Một cho tổ phụ Môsê. Và, một cho tiên tri Ê-li-a. Thánh
nhân dự định dựng lều cho Chúa và đấng bậc, là để các ngài thoải mái
sống ở môi trường đầy cảm hứng. Điều này chẳng có gì sai trái. Tệ hại.
Nhưng vấn đề ở đây, cho thấy: đó không là ý của Chúa. Không là, cuộc
sống Ngài muốn dành cho Phêrô thánh nhân, cũng như các đồ đệ khác, rất
gần gũi.
“Có
đám mây bao phủ các ông…” ở đây nói về sự hiện diện của Đức Chúa. Thêm
vào đó: từ đám mây có tiếng phán: “Này, là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe
lời Ngài.” Thêm vào đó, còn là xác nhận của chính Chúa. Xác nhận, mà đồ
đệ cần nghe theo và chấp nhận. Xác nhận, chính điều mà Đức Giêsu đã
từng phán. Từng thực hiện bằng hành động. Xác nhận, cả những chuyện được
Chúa bày tỏ, như: Ngài bị khước từ. Chấp nhận mọi khổ đau, và nỗi chết.
Nhưng Ngài đã sống lại. Và Ngài sống lại thật. Nhất nhất, đều là những
lời phán và lệnh truyền. Để, người người nghe và nhận thức.
“Chợt
nhìn quanh, còn lại chỉ mình Chúa, Đức Giêsu”, đây chính là thực tại mà
các thánh, cũng như ta, vẫn giáp mặt với Chúa. Như mọi ngày. Trong đời.
Bài
đọc 1, chú trọng đến thời buổi Thiên Chúa yêu cầu tổ phụ Áp-ram tiến lễ
con trai độc nhất của mình, là I-xa-ác. Nghe lệnh truyền, tổ phụ đã
thực thi ngay lập tức. Chuyện thực thi, thoạt nghe có vẻ như không hữu
lý. Bởi chính Chúa đã hứa cho Áp-ram con đàn cháu đống, rất đông dân.
Thực thi đây, cho thấy tổ phụ ta luôn sẵn sàng tin tưởng vào Đức Chúa.
Lời hứa của Ngài luôn được trân trọng, dù ta chưa hiểu rõ.
Thực
thi đây, cũng tương tự tâm trạng Đức Giêsu sẵn sàng tuân theo ý định
của Chúa Cha. Điểm khác biệt, là ở chỗ: I-xa-ác thẫn thờ giáp mặt nỗi
chết. Còn Đức Giê-su, Ngài đã sẵn sàng làm đúng ý Cha. Làm đúng ý, Ngài
hy sinh cả tính mạng, vì thương yêu hết mọi người. Chính đó, là ý nghĩa
câu: “Song đừng cho ý của Con, mà là ý của Cha, được thành sự” (Lc 22: 42). Tâm trạng ấy, nay môn đệ Chúa đã biết. Và đã hiểu. Hiều, rằng sự phi lý của hành vi tế hiến hy sinh, là vì ơn cứu độ.
Hiểu
sự phí lý ấy, thánh Phaolô đã viết trong bài đọc 2: “Đến như Con Một,
Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta.”(Rm
8: 31-34). Mãi về sau, cuộc khổ hạnh và nỗi chết của Chúa mới được con
dân hiểu rõ như sự toàn thắng, vinh hiển. Như thánh nhân có nói trong
thư khác: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van
khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu
Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con
Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào
là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên
nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người.” (Hr 5:
7-9)
Suy
cho kỹ, mới hiểu được Lời Chúa nói với các môn đệ trên đường Emmaus (Lc
24: 26). Giống như thế, đồ đệ/con dân của Chúa cũng phải đi cho đến
cùng. Tức, cùng chấp nhận khổ đau và nỗi chết, như Thầy mình. Đi đến
cùng, trong cuộc sống thực tế của chính mình. Của người khác. Đó cũng là
ý nghĩa của câu nói: “Có Chúa bênh đỡ chúng ta, ai mà chống được?” (Rm
8: 32).
Ý
nghĩa đó, rất đích thực và dễ hiểu cả vào lúc ta sống trong hạnh phúc,
hoặc rất gian nan, khốn khổ. Đau bệnh. Thất bại và chán chường. Mất niềm
tin. Tình Chúa yêu thương vẫn còn đó. Còn đó, cả vào lúc Chúa hấp hối
trên thập tự. Đó còn là quả quyết của thánh Phao-lô ở đoạn tiếp: “Tôi
tin rằng: dù có là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực,
hiện tại hay tương lai, bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay
loài thọ tạo nào khác, không gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của
Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.” (Rm 8: 39)
Đó
là bài học, các môn đệ “gần gũi Chúa” đã học được vào ngày “Chúa biến
hình”. Và, mãi về sau, khi bị bỏ rơi trong khổ lụy, thất vọng và chán
chường, các thánh vẫn học bài học ấy để sống. Các ngài đã chứng minh cho
bài học yêu thương và hy sinh, suốt cuộc đời. Và, cuối cuộc đời trong
khổ ải. Trong chết chóc. Tủi hờn.
Đó
còn là, khích lệ gửi đến cho ta. Gửi, để ta học hỏi quyết tâm giữ vững
niềm tin yêu, phó thác. Phó thác, như tổ phụ Áp-ram đã làm. Phó thác, vì
vinh quang của Đức Chúa. Phó thác, vì hạnh phúc. Và sự bình an. Cho
mình. Cho mọi người.
No comments:
Post a Comment