Tuesday, 7 December 2010

THIÊN CHÚA GIÁO TẠI ĐỒNG BẰNG NAM BỘ TRONG CÁC THẾ KỶ XVII VÀ XVIII

Lê Văn Khuê

Người theo đạo Thiên Chúa giáo là một trong những nhóm người Việt đầu tiên di chuyển và định cư tại đồng bằng Nam Bộ. Vì muốn thoát khỏi sự áp bức bóc lột của phong kiến địa chủ, tìm đất sống, hoặc do có óc phiêu lưu hoặc vì trốn tránh sự cấm đạo của các chúa Nguyễn, khởi đầu họ đi lẻ tẻ theo những nhóm người khác, dần dà họ đi khai phá miền đất mới theo cộng đồng tôn giáo của họ, sống tập trung theo từng họ đạo khắp cả đồng bằng Nam Bộ, góp phần không ít làm nên khuôn mặt ngày nay của đồng bằng này.

Nằm trong khuôn khổ của chương trình nghiên cứu tình hình khẩn hoang và khai thác đồng bằng sông Cửu Long, mục đích của bài này là dõi theo bước chân của nhóm người Thiên Chúa giáo tại đây trong hai thế kỷ XVII và XVIII, vẽ lại phương thức du nhập và định cư của họ, qua đó rút ra những đặc điểm mà miền đất mới đã tạo nên nơi cộng đồng của họ. Với giới hạn đó, những vấn đề liên quan tới sinh hoạt kinh tế, chính trị cũng như những vấn đề liên quan tới tổ chức nội bộ có tính cách lịch sử tôn giáo sẽ không được đề cập tới trong bài này.

I. TÌNH HÌNH NGƯỜI THIÊN CHÚA GIÁO Ở XỨ ĐÀNG TRONG ĐẾN NĂM 1698

Người đầu tiên đem đạo Thiên Chúa đến xứ Đàng Trong không phải là các thừa sai Tây Phương mà là những gia đình người Nhật theo đạo Thiên Chúa giáo di dân tới Hội An sau vụ cấm đạo của Nhật Hoàng vào đầu năm 1614. Bị xua đuổi khỏi nước Nhật, các thừa sai Tây Phương mới tìm tới các giáo đoàn người Nhật phân tán tại các nước Đông Nam Á Châu để tiếp tục củng cố lòng đạo của họ. Nhóm thừa sai Tây Phương đầu tiên đến giáo đoàn người Nhật ở Hội An vào ngày 18 tháng giêng năm 1615 gồm có linh mục Francois Busomi, người Ý, linh mục Jacques Calvalho người Bồ và ba thầy giúp việc, một người Bồ và hai người Nhật, tất cả đều thuộc dòng Tên. Từ việc củng cố lòng đạo của giáo đoàn người Nhật ở đây, họ có dịp chung đụng với người Việt và bắt đầu truyền đạo cho người Việt. Tuy nhiên, không phải trước tiên qua các vị thừa sai này mà người Việt biết đến đạo Thiên Chúa. Trước họ, người Việt ở Hội An đã tiếp xúc với các linh mục tuyên úy trên các tàu buôn Bồ Đào Nha lui tới buôn bán tại đây và thậm chí cũng đã được nhận phép rửa tội theo đạo. Khi làm lễ rửa tội cho họ, các linh mục tuyên úy này, qua trung gian người thông ngôn, thường hỏi họ rằng: “Con có muốn vào lòng Hòa Lang chăng?”. Những người Việt này vào lúc đó, vì ngôn ngữ bất đồng, hẳn chẳng hiểu gì về đạo giáo, nhưng vẫn đồng ý nhập đạo chỉ để có dịp tốt buôn bán với tàu thuyền ngoại quốc. Giáo sĩ Gaspar Luis vào thời điểm này cũng nhận thấy như thế. Ông viết: “Ở Touron, những người địa phương mặc dù xem ra họ chấp nhận lòng tin, nhưng họ chấp nhận vì lợi ích trần gian nhiều hơn là vì tôn kính Thượng đế và vì sự cứu rỗi linh hồn của họ”. (1)

Lối truyền giáo của nhóm linh mục Busomi vào những buổi ban đầu hẳn không có gì tiến bộ hơn. Mãi sau này, khi vô tình được chứng kiến một buổi diễn hát của người Việt trên bãi bể Hội An để chế nhạo chuyện “vào lòng Hòa Lang” (2), linh mục Busomi mới thay thế câu: “Con muốn vào lòng Hòa Lang chăng” bằng câu “con muốn vào đạo Christian chăng”. Tuy nhiên, chữ “đạo Christian” của linh mục Busomi, một tiếng Tây Phương, cũng không có tác dụng gì hữu hiệu hơn. Phải đợi đến thời linh mục Alexandre De Rhodes một vài năm sau, chữ “đạo Christian” mới được thay thế bằng chữ “đạo thánh Đức Chúa Trời”. Tuy vậy, vào năm 1639 khi linh mục Busomi qua đời, tổng số người đi đạo, theo báo cáo của giáo sĩ De Rhodes, người kế tục linh mục Busomi, đã lên tới 12.000 người ở rải rác các tỉnh Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Nước Mặn và Huế. Con số này hẳn đã được thổi phồng quá đáng vì theo một tư liệu khác (3), vào năm 1625 tức mười năm sau khi linh mục Busomi đặt chân lên Hội An, tổng số giáo dân chỉ mới trên dưới 1.200 người trong số đó 325 người ở Hội An, 602 người ở Nước Mặn và 306 người ở Phú Yên. Trong số giáo dân vào thời điểm 1639, có một số quan lại hoặc thuộc giai cấp thượng lưu như một người cô của chúa Thượng thường được gọi là Minh Đức Thái Phi, một quan phụ trách việc dạy dỗ con vua, quan tổn đốc tỉnh Quảng Ngãi, còn đa số đều thuộc giai cấp dưới. Cũng cần nói thêm là kết quả trên không phải chỉ do nhóm thừa sai đầu tiên của linh mục Busomi, mà trong thời gian từ 1615 – 1639, có 25 thừa sai đến xứ Đàng Trong, tất cả đều thuộc Dòng Tên, dưới quyền bảo trợ của nước Bồ Đào Nha.

Một biến cố quan trọng xảy ra cho giáo hội xứ Đàng Trong vào tháng 8 năm 1659 là Tòa Thánh Roma thiết lập địa phận Đàng Trong. Việc thiết lập này tách công việc truyền giáo tại xứ Đàng Trong khỏi quyền bảo trợ của nước Bồ Đào Nha để thuộc quyền cai quản của Roma, và giao phó nó cho Hội Truyền Giáo Paris. Từ đó xảy ra sự xung đột giữa triều đình Bồ Đào Nha và Roma cũng như sự hiềm khích giữa các thừa sai người Pháp thuộc Hội Truyền Giáo Paris và các thừa sai dòng Tên gồm người Bồ Đào Nha, Ý, Đức. Sự hiềm khích này đã làm cho cuộc truyền giáo có phần ngưng trệ, đồng thời cũng đã làm cho cộng đồng giáo dân chia rẽ. Hiện tượng này kéo dài mãi cho đến gần cuối thế kỷ XVIII khi dòng Tên bị bãi bỏ.

Một biến cố khác vừa làm cho giáo xứ Đàng Trong hiệp nhất lại phần nào, vừa gây trở ngại nặng nề cho việc phát triển, đó là việc triều đình Huế từ năm 1644 ra lệnh cấm truyền đạo Thiên Chúa giáo và trục xuất các thừa sai người ngoại quốc. Tuy nhiên, các thừa sai vẫn trốn tránh được hoặc lén lút vào lại địa phận Đàng Trong để truyền đạo. Trong giai đoạn này, vai trò của các thầy giảng người Việt tỏ ra khá hữu hiệu. Họ là những người có lòng đạo và hiểu lẽ đạo nhiều nhất trong các họ đạo, được huấn luyện bổ túc để làm đầu các giáo dân. Nhờ vậy, mặc dù có sự cấm đạo, giáo hội xứ Đàng Trong cũng có những bước phát triển nhất định. Theo báo cáo của giáo sĩ Labbé thì vào năm 1693 toàn vương quốc có khoảng 200 nhà thờ vừa lớn vừa nhỏ và khoảng trên dưới 30.000 người theo đạo(4).

Vào năm 1698, thời điểm Chưởng Cơ Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược xứ Đồng Nai và chiêu mộ dân định cư, chúa Nguyễn xuống chỉ cấm đạo gay gắt hơn. Lần này không chỉ nhắm vào các thừa sai ngoại quốc mà ngay cả tín đồ người Việt. Tất cả nhà thờ phải bị phá hủy, giáo dân phải nộp thuế và làm sưu gấp ba lần, ai ở trong quân đội phải bị thải hồi và sĩ quan thì bị giáng cấp. Kết quả là sau hai năm lệnh trên được thi hành, 200 nhà thờ bị thiêu hủy, tất cả 13 thừa sai người Tây phương có mặt trong vương quốc đều bị bắt mãi đến năm 1704 mới được thả, hàng ngàn giáo dân phải chạy trốn vào rừng rú, một số chết vì đói khát, vì bệnh tật, vì cọp beo, và tất nhiên một số không ít đã rời bỏ làng để trốn vào Nam bộ.

II. NGƯỜI THIÊN CHÚA GIÁO TẠI NAM BỘ: GIAI ĐOẠN 1623 - 1771

Người Việt theo đạo Thiên Chúa giáo có mặt tại đồng bằng Nam Bộ này từ thời điểm nào? Nếu lấy năm 1623 và địa điểm Mô-xoài làm khởi điểm cho sự hiện diện của những người Việt đầu tiên tại đây thì chắc chắn vào lúc này, người theo đạo Thiên Chúa giáo chưa thể có mặt. Bởi vì, như chúng ta thấy ở trên, cho đến năm 1625 việc truyền đạo tại Đàng Trong, bắt đầu từ 1615, chỉ mới đạt tới Phú Yên và số lượng người theo đạo chỉ đếm được trên dưới 1.200 người. Với số lượng ít như thế này, khó có thể nói đến chuyện di dân, mà nếu có thì một hai ba trường hợp lẻ tẻ không đáng kể. Theo tư liệu có được thì thời điểm sớm nhất người ta gặp thấy người Việt theo đạo Thiên Chúa giáo ở Nam Bộ là vào năm 1666 khi giáo sĩ Chevreuil và Haiques, hai người Pháp đầu tiên thuộc Hội Truyền giáo Paris, từ Xiêm tìm cách lén vào Đàng Trong. Trên đường đi, giáo sĩ Chevreuil gặp được một gia đình chủ thương thuyền tại Bà Rịa. Sau đó, giáo sĩ đến một nơi được mô tả là “một thị trấn ở giữa sông” và được một quan người Việt có đạo tiếp đón, cho phép làm lễ trước “sự hiện diện của một vài người Việt Thiên Chúa giáo trốn tránh cấm đạo ở xứ Đàng Trong” (5). “Thị trấn giữa sông” này có lẽ là Cù Lao Phố thời bấy giờ. Như vậy, tuy số tín đồ Thiên Chúa giáo vào thời điểm này, theo báo cáo của giáo sĩ Labbé, một người đã nghiên cứu kỹ lưỡng số lượng người công giao khi giáo sĩ Chevreuil đến Đàng Trong, chỉ mới 5.000 người (6), nhưng hẳn cũng đã có một số giáo dân lui tới những vị trí đầu tiên của người Việt tại Nam Bộ hoặc đi lập cư tại những nơi này. Có lẽ họ đã bắt đầu đến những vị trí này từ năm 1644 khi có lệnh cấm đạo lần đầu tiên, hoặc có thể sớm hơn nữa vì, cũng như những người Việt khác, họ di chuyển vào Nam Bộ không chỉ vì trốn tránh cấm đạo mà còn vì kế sinh nhai, vì óc phiêu lưu…

Vào thời điểm này, khó có thể có được số lượng chính xác người Việt theo Thiên Chúa giáo tại Nam Bộ. Tuy nhiên theo tác giả Trần Phổ, vào năm 1670, đã có một họ đạo khá lớn tại Xích Lam tức Đất Đỏ, gần Bà Rịa, mà vào năm 1685 gồm khoảng 300 giáo dân. Tác giả đưa ra con số này, nhưng không thấy nói tới xuất xứ. Theo thư của giáo sĩ Féret, một người đã đến truyền đạo sớm tại vùng Phú Yên thì vào năm 1692, “tại Chiêm Thành và Cam-bốt có lẽ có tất cả gồm khoảng 300 tín đồ Thiên Chúa giáo, nhưng ngoài ra còn có rất nhiều người công giáo đến đây buôn bán. Họ sống cách nhau rất xa, nơi này cách xa nơi kia nửa ngày đường” (7). Phải đợi mãi đến năm 1710 chúng ta mới có con số khá chính xác do giáo sĩ Maria Labbé đưa ra là 2.000 người (8). Cũng theo giáo sĩ này, ngày vào năm 1696 hoặc 1697, đã có một giáo sĩ dòng Tên người Bồ Đào Nha tên là Pirez đã đến vùng Bến Gỗ xây dựng một nhà thờ lớn và phụ trách số giáo dân ở đấy (9).

Như vậy, có lẽ mãi cho đến thời điểm này, người giáo dân Thiên Chúa giáo tại Nam Bộ mới có tổ chức tương đối rõ rệt, có sinh hoạt tôn giáo. Trước đó, mặc dù họ đã có mặt nhưng vì vắng bóng linh mục, thừa sai, họ không có sinh hoạt tôn giáo gì ngoài việc tập trung đọc các kinh nguyện mà họ đã thuộc lòng khi còn ở nơi chôn nhau cắt rốn của họ. Điều này mãi cho tới năm 1723 vẫn còn thấy phổ biến, khi linh mục José Garcia, dòng Phan-si-cô, người có công nhiều nhất trong việc xây dựng giáo hội Thiên Chúa giáo Nam Bộ từ những buổi ban đầu, đến phụ trách việc truyền đạo ở đây (10). Về phần thầy giảng người bản xứ, thì chỉ thấy có một thầy giảng già đã về hưu và bị bắt vào năm 1699 (11). Sự vắng bóng những người lãnh đạo tôn giáo này chứng tỏ rằng việc di dân của người giáo dân Thiên Chúa giáo vào Nam Bộ là hoàn toàn do họ tự động thực hiện, có lẽ vì những lý do sinh sống nhiều hơn là vì lý do tôn giáo. Tuy nhiên, khi vào vùng đất mới, tôn giáo là yếu tố quy tụ họ lại thành những nhóm nhỏ, sống lẫn lộn với những người Việt khác tại những nơi mới khai khẩn.

Cũng vì thiếu linh mục, thiếu thầy giảng, người giáo dân Thiên Chúa giáo ở đây không tự phát triển thêm, nghĩa là không kéo thêm ai tại chỗ đi theo đạo. Số lượng họ tăng lên đến 2.000 người vào năm 1710 là do những đợt di dân đến sau bổ sung. Đợt di dân lớn sau này của họ có lẽ xảy ra vào năm 1698 khi Chưởng Cơ Nguyễn Hữu Cảnh chiêu mộ lưu dân vào Đồng Nai và sau năm 1710, khi cuộc cấm đạo trở nên gay gắt hơn. Theo tác giả Trần Phổ, có một nhóm lưu dân Thiên Chúa giáo phương đúc tại Huế đã di chuyển vào Sài Gòn trong nhưng năm 1710. Ở đây họ chung tiền cất được một ngôi nhà nguyên nhỏ ngay tại địa điểm ngày nay là Chợ Quán (12). Chính địa điểm này vào năm 1723 khi linh mục José Garcia đã được nói ở trên đến coi sóc, đã trở thành trung tâm của người Thiên Chúa giáo Nam Bộ. Có thể nói rằng, cho đến năm 1750 và những năm sau đó, sự phát triển của người giáo dân Thiên Chúa giáo tại đồng bằng Nam Bộ đều xuất phát từ trung tâm Chợ Quán và do công sức của linh muc José Garcia và một nhóm nhỏ thầy giảng, cộng sự viên của ông.

Vào buổi đầu khi mới đến, công việc của linh mục Garcia không phải là di truyền đạo cho người chưa theo mà là đi tìm người lưu dân đã có đạo phân tán khắp nơi và quy tụ họ lại thành nhóm nhỏ từng họ đạo nhỏ. Nếu chúng ta lần theo vết chân của ông ngang dọc khắp miền Nam Bộ để đi tìm kiếm và quy tụ người lưu dân Thiên Chúa giáo, chúng ta sẽ phát hiện được vào những năm 40 của thế kỷ XVIII các địa điểm Thiên Chúa giáo tại đây. Tổng số giáo dân Thiên Chúa giáo do dòng Phansicô phụ trách là 5.500 người từ Sài Gòn đến Hà Tiên, có 66 nơi thờ tự gồm 14 nhà thờ, 11 nhà nguyên và 41 bàn thờ, tập trung chung quanh 46 họ đạo lớn nhỏ ở trong 7 khu vực định cư như sau:

Khu vực thứ nhất chung quanh Sài Gòn gồm 2.500 giáo dân, có một nhà thờ ở Chợ Quán, một ở Chợ Lớn, một ở Bến Nghé và một nhà nguyện ở Rạch Cát.

Khu vực thứ hai nằm về phía Bắc Sài Gòn, dọc theo sông Sài Gòn, có nhiều họ đạo và họ lớn nhất là Lái Thiêu. Năm 1739 họ này đã có một nhà thờ rộng lớn và gần 400 giáo dân. Về phía Tây Bắc có một vài nhóm lẻ tẻ ở vùng Trảng Bàng.

Khu vực thứ ba ở phía Nam Sài Gòn, giữa ba con sông Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây và sông Sài Gòn, ở giữa lại có hai đường thủy: sông Rạch Cát và sông Chợ Đêm. Ở khu vực này có nhiều họ đạo nhỏ như Rạch Núi, Rạch Nhà Gẩm, Cần Đước, Khúc Răng, Cái Bè. Vì gần Sài Gòn nên tất cả đều ăn về trung tâm Chợ Quán.

Khu vực thứ tư về phía Nam sông Vàm Cỏ Tây, dọc theo rạch này nối liền sông này với sông Cửu Long, miền này ngày nay là kinh Chợ Gạo, có hai nhóm giáo dân khá đông, một ở Chợ Rạch Lá, trước năm 1739 gồm hơn 300 người, và một ở Cà Hoa, nay là Thủ Ngữ, cũng gồm hơn 200 người.

Khu vực thứ năm là ở phía bên kia sông Cửu Long, ngày nay là sông Mỹ Tho, có họ đạo Cái Mơn gồm 900 giáo dân vào năm 1751 và Cái Nhum gồm 600 giáo dân. Một số giáo dân khác xuôi dòng miền biển, dọc theo hai bờ sông Hàm Luông, nhất là ở vùng Ba Tri, ở đó trước năm 1730 đã có nhà thờ Cái Bông.

Khu vực thứ sáu dọc theo phía Bắc sông Mỹ Tho là một vùng hình tam giác, đỉnh nam là Mỹ Tho, đỉnh bắc là Vũng Gù, đỉnh tây là Cái Bè. Tại đây có nhiều nhóm giáo dân đến ở, nhất là dọc theo kinh rạch nối liền Tây An – Mỹ Tho như Vũng Gù, Thân Trong, Bến Tranh, Rạch Nam, Xoài Mút, Rạch Gầm, Ba Giòng.

Ngoài những vùng này, khó có thể nói ở các nơi khác đã có người lưu dân Thiên Chúa giáo trước năm 1750, trừ một nhóm nhỏ đã vượt sông Cổ Chiên xuống lập cư tại Bưng Đưng gần sông Ba Thác. Trên phần đất hiện nay là tỉnh Cửu Long và tỉnh Bến Tre thì người ngoài Thiên Chúa giáo cũng chưa có bao nhiêu, nếu có thì cũng chỉ lẻ tẻ thưa thớt. Còn phía Nam sông Hậu Giang thì lại càng chưa có người Thiên Chúa giáo.

Khu vực thứ bảy là vùng Hà Tiên nơi đã có mặt người giáo dân Thiên Chúa giáo từ đầu thế kỷ XVIII. Họ chung với một số người Bồ Đào Nha để cất một nhà nguyện nhỏ, thỉnh thoảng có linh mục theo tàu buôn đến sinh hoạt tôn giáo với họ. Vào năm 1721 hoặc 1722, có một số thừa sai dòng Phanxicô ở Malacca đến phụ trách nhà nguyện này. Linh mục José Garcia đến Hà Tiên lần thứ nhất vào năm 1735. Có một giáo dân người Việt là tay chân dắc lực của Mạc Thiên Tứ, xin phép cho cất một nhà thờ mới, nhờ đó linh mục Garcia đã lưu lại và phát triển họ đạo này. Năm 1734 giám mục Lefevre, đại diện Tông Tòa và thuộc Hội Truyền Giáo Paris, đã đến ban phép thêm sức cho hơn 100 người lớn. Vào năm 1745 một nhà thờ khác lại được xây lên và từ đó họ đạo Hà Tiên phát triển nhanh chóng để vào năm 1750 khi việc cấm đạo trở nên gay gắt, trở thành nơi trú ẩn cho giáo dân ở các vùng khác (13).

Ngoài bảy khu vực kể trên thuộc quyền của các thừa sai dòng Phanxicô, phải kể đến một họ đạo khá lớn ở Bến Gổ tại Đồng Nai gồm 200 giáo dân, do các thừa sai Hội Truyền Giáo Paris cai quản từ năm 1747 và các họ đạo nằm trong tỉnh Đồng Nai do các thừa sai dòng Tên phụ trách sau này:

· Họ sông Đồng Nai: 400 giáo dân

· Họ Đá Lửa : 500 giáo dân

· Họ Bến Gỗ (khác với họ đạo của các thừa sai Pháp) 250 giáo dân

· Họ Lái Thiêu (khác với họ đạo của các thừa sai Phanxicô) 400 giáo dân

· Họ Kẻ Tất : 70 giáo dân

· Họ Đồng Môn : 40 giáo dân

· Họ Sông Mô Xoài : 100 giáo dân

· Họ Bà Rịa : 140 giáo dân

· Họ Núi Lửa : 50 giáo dân

· Họ Đất Đỏ : 380 giáo dân

Nếu tính tổng số giáo dân và họ đạo do cả ba bộ phận kể trên phụ trách thì vào thời điểm này, con số lên tới khoảng 8.000 người rải rác trong 57 họ đạo lớn nhỏ khắp toàn vùng Nam Bộ (14).

Đến đây khi giáo hội Nam Bộ vừa có được một cơ sở như trên thì việc cấm đạo trở nên khốc liệt và sâu rộng nhất từ trước tới nay. Hầu hết các nhà thờ, nhà nguyện vừa được xây dựng liền bị phá đổ, tất cả bốn giáo sĩ phương Tây đang hoạt động trong vùng bị trục xuất, mãi 13 năm sau mới vào lại được. Giáo dân tuy không bị bắt bớ gay gắt như ở các tỉnh miền Trung, nhưng họ phải trốn tránh, tìm nơi khác làm ăn, đặc biệt là tại Hà Tiên nơi Mạc Thiên Tứ không thi hành lệnh cấm đạo của triều đình Huế. Tiếp đến, cuộc nội chiến kéo dài giữa triều đình phong kiến chúa Nguyễn và triều đình phong kiến Chân Lạp xảy ra từ năm 1743 lại khiến cho người lưu dân Thiên Chúa giáo đã bị tản mác lại phải tản mác hơn. Vừa bị lùng bắt, vừa bị chiến tranh theo đuổi, vừa thiếu thừa sai, số giáo dân trong thời gian này bị giảm sút rõ rết. Tuy nhiên, cũng vì phải trốn tránh, tìm nơi nương thân, người lưu dân Thiên Chúa giáo đã có cơ hội tiến sâu xuống đồng bằng sông Cửu Long. Theo ký sự của giáo sĩ Lavarasseur, vào năm 1768, trên đường đi từ Cam-bốt sang, dọc theo sông Ba Thác, ông đã tình cờ gặp một nhóm lưu dân Thiên Chúa giáo gồm 30 người ở một làng gần cửa sông. Cách đó không xa cũng có một làng được gọi là “Compongkerbu” được dựng lên bên bờ phía Tây của con sông, rất gần biển gồm 12 lưu dân Thiên Chúa giáo (15).

Khi cuộc bắt đạo dịu dần và các thừa sai Tây phương trở lại Nam Bộ vào năm 1763, giáo hội Thiên Chúa giáo được chỉnh đốn lại sau 13 năm bị bách hại. Cũng từ thời điểm này, giáo dân Thiên Chúa giáo ở các tỉnh miền Trung tiếp tục di cư với số lượng lớn vào các tỉnh Sài Gòn, Đồng Nai và Long Hồ vì có chính sách của các quan lại địa phương muốn có người khẩn hoang (16). Vời sự tăng trưởng của các đợt di dân này, giáo hội tại Nam Bộ vào năm 1771 khi phong trào Tây Sơn nổi dậy, có được số lượng người theo đạo khoảng 10.000 (17).

III. THIÊN CHÚA GIÁO Ở NAM BỘ: GIAI ĐOẠN 1771 – 1788

Giáo dân Thiên Chúa giáo ở Đàng Trong tham gia phong trào Tây Sơn rất sớm và khá đông đảo, bởi vì phong trào này không những đã giải phóng họ với tư cách là nông dân khỏi sự áp bức của vua quan nhà Nguyễn mà còn giải phóng họ với tư cách là tín đồ Thiên Chúa giáo khỏi sự bắt bớ của triều đình Huế (18). Và khi phong trào Tây Sơn thành công, lực lượng tín đồ Thiên Chúa giáo ủng hộ và tham gia phong trào vẫn lớn lao như những buổi ban đầu. Không những họ có mặt nhiều trong các binh đội mà ngay tại chính quyền trung ương cũng có nhiều vị quan cao cấp theo Thiên Chúa giáo (19). Chính sách tự do tôn giáo đối với người theo Thiên Chúa giáo của Tây Sơn, một phần có mục đích lôi kéo họ theo phong trào, vẫn được duy trì từ lúc nổi dậy cho đến khi thành công. Sở dĩ về sau này, từ năm 1795, Tây Sơn xuống chỉ cấm đạo một phần là vì sự cấm đoán có tính cách giáo điều của các thừa sai Pháp đối với việc thờ cúng tổ tiên, nhưng chủ yếu là vì thái độ chống đối Tây Sơn và ủng hộ Nguyễn Ánh của các thừa sai Pháp (20).

Riêng tại Nam Bộ, khi phong trào Tây Sơn chưa lan tới, ngày 22 tháng 4 năm 1774, chúa Nguyễn sau khi chạy trốn vào Gia Định, đã xuống dụ trả tự do cho những tín đồ Thiên Chúa giáo lâu nay bị giam cầm và cho phép đạo được tự do hoạt động. Mục đích của dụ này là nhằm tranh thủ sự ủng hộ của họ và của các thừa sai ngoại quốc để chống lại Tây Sơn. Lợi dụng cơ hội, các thừa sai xuất hiện công khai, sửa nhà thờ cũ, cất nhà nguyện mới. Linh mục Jumilla, dòng Phanxicô, người đã từng ở vùng chiếm đóng của Tây Sơn tại Quảng Ngãi, theo chân chúa Nguyễn vào Sài Gòn, đã xây lại nhà thờ Chợ Quán. Chính ông này đã che dấu cho Huệ Vương và cháu là Nguyễn Ánh khỏi cuộc lùng bắt của Tây Sơn hai năm sau đó. Tại Hà Tiên, theo lời mời của Mạc Thiên Tứ, giám mục Adran thiết lập một trụ sở tại Cây Quao cùng một chủng viện gồm khoảng 40 chủng sinh. “Ý định của Thiên Tứ”, theo Adran “mặc dù có tính chất chính trị nhưng có thể trở thành có lợi cho tôn giáo. Ông có ý thiết lập tòa giám mục trong lãnh địa của ông nhằm lội kéo một số tín đồ Thiên Chúa giáo đến đây” (21). Cho nên mặc dù sợ chiến tranh lan tới, giám mục Adran vẫn chấp nhận và đã quy tụ được khoảng trên dưới 500 giáo dân Thiên Chúa giáo. Những tín đồ này là những người đã trốn tránh chiến tranh từ Đồng Nai lên vào đầu năm 1776, khi quân Tây Sơn đem thủy quân vượt biển đánh Gia Định và chiếm Sài Gòn lần thứ nhất. Từ năm 1776 đến năm 1783, người dân Nam Bộ phải trải qua một cuộc chiến khốc liệt giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Tây Sơn bốn lần tiến đánh, có lần kéo dài suốt bảy tháng và Nguyễn Ánh cũng bốn lần chiếm lại. Chỉ có hai khoảng thời gian tương đối bằng yên là từ năm 1778 – 1783 và từ 1783 – 1787, khoảng đầu do Nguyễn Ánh làm chủ tình hình và khoảng sau dưới quyền cai trị của Tây Sơn. Khỏi cần phải nói, trong thời gian chiến tranh này, số giáo dân bị giảm sút rất nhiều, vì loạn lạc, vì đói khát, vì bị cả hai bên cùng bắt lính. Trong khi đó các sinh hoạt tôn giáo và truyền đạo bị tình hình làm ngưng trệ trầm trọng. Một giáo sĩ đương thời đã mô tả như sau: “Dân chúng bị đè nặng dưới những ách không thể chịu nổi phải trốn chạy và lang thang khắp miền để tránh các luật lệ vừa nhiều lại vừa nặng: họ thay đổi chỗ ở và đổi tỉnh mỗi ngày” (22).

Trong khoảng thời gian tương đối bình yên lần thứ nhất, lợi dụng việc Nguyễn Ánh thâu phục lại Gia Định vào đầu năm 1778, giám mục Adran dời chủng viện từ Cây Quao về Tân Triều, Đồng Nai, đồng thời tổ chức lại các sinh hoạt tôn giáo tại vùng Gia Định Đồng Nai. Cũng trong thời gian này, theo chính sách tăng gia sản xuất để nuôi quan của Nguyễn Ánh, một số đông đảo tín đồ Thiên Chúa giáo đã di chuyển đến khẩn hoang tại Cái Đôi, bên kia bờ Hậu Giang, giữa đồng hoang nơi có rạch ngòi chi chít. Một đoàn tín đồ khác cũng đã đến Cù Lao Giêng. Năm 1779, một đoàn người tị nạn Thiên Chúa giáo khác đến vỡ đất tại Lò Ót (23). Những đoàn người này từ đâu đến? Sử liệu không thấy nói tới, nhưng chúng ta đoán có lẽ họ từ những vùng bị thiệt hại nhiều nhất vì chiến tranh và cũng là nơi có thể trở thành chiến trường thêm một lần nữa.

Và quả đúng như vậy, vào tháng 3 năm 1782, quân Tây Sơn, một lần nữa tiến đánh Gia Định, cuộc tiến đánh này kéo dài suốt bảy tháng ròng. Giáo dân lại một lần nữa bị tản mác. Giám mục Adran cùng với chủng viện phải chạy trốn, để lại ba linh mục người Việt và một thừa sai dòng Phanxicô người Tây Ban Nha. Vào tháng 10 năm đó, Nguyễn Ánh chiếm lại được dinh Gia Định lần thứ ba, giám mục Adran cùng đoàn tùy tùng lại trở về Nam Bộ, đến họ Mạc Bắc, nơi tương đối ít bị chiến tranh chi phối và có một số giáo dân khá đông. Tại đây ông quy tụ các thừa sai gồm một linh mục người Pháp, hai linh mục dòng Phanxicô người Tây Ban Nha và ba linh mục người Việt để phân công chỉnh đốn lại các họ đạo trong vùng. Từ thời điểm này đến tháng 3 năm 1783 khi quân Tây Sơn đánh chiếm Gia Định lần thứ tư, họ đã rửa tội được 93 người lớn (24), nhưng sau đó họ lại phải bỏ các họ đạo để chạy trốn sự truy lùng của quân Tây Sơn, trừ hai linh mục người Việt, một ẩn náu trong họ đạo Lái Thiêu và một ở Sa Đéc. Sự chiếm đóng Gia Định và các tỉnh phía dưới lần này của quân Tây Sơn kéo dài mãi đến tháng 5 năm 1788. Tình hình trong giai đoạn này tương đối yên ổn, nhờ đó chúng ta có thể thấy được sinh hoạt của người giáo dân Thiên Chúa giáo cũng như chính sách của Tây Sơn đối với họ.

Quân Tây Sơn phân biệt rõ rệt các giáo sĩ dòng Phanxicô người Tây Ban Nha với các giáo sĩ người Pháp cùng những người làm việc cho giám mục Adran. Trong khi các giáo sĩ Tây Ban Nha được tự do truyền giáo thì các thừa sai Pháp và các linh mục người Việt vẫn bị truy lùng, vì họ biết rõ giám mục Adran và các thừa sai Pháp tiếp tay cho Nguyễn Ánh. Một linh mục người Việt, linh mục Adré Tôn, đã kể lại như sau: “Các thừa sai Phanxicô được hoạt động tông đồ công khai, đã giúp đỡ với tất cả khả năng của họ những giáo dân từ mọi nơi đến, và tôi, theo chân họ, tôi cũng giúp đỡ nhưng chỉ khi đêm xuống và cách kín đáo, những ai đến với tôi…” (25). Còn đối với giáo dân, quân Tây Sơn không những để cho họ tự do hành đạo mà đôi khi che chở bảo vệ họ như tại Hà Tiên và Sài Gòn. Tại Hà Tiên, một giáo sĩ đã mô tả tình hình như sau: “Có lẽ không cần phải nhắc lại chuyện vị quan này (của Tây Sơn) ở đây rất được dân chúng yêu thích, và lòng tử tế của ông đối với các thừa sai cũng như đối với người dân công giáo đã khiến chúng tôi xem ông như người bảo vệ chúng tôi… Nhờ sự che chở của ông, người công giáo dám công khai tụ họp để hành lễ…” (26). Ngay tại Sài Gòn, người giáo dân Thiên Chúa giáo cũng được hưởng sự tự do hành đạo tương tự và có liên hệ tốt với chính quyền Tây Sơn. Việc này được biểu hiện rõ trong câu chuyện hai linh mục dòng Phanxicô là Ginestar và Casuera bị bắt và được thả ra. Hai thừa sai này trốn chạy theo giám mục Adran, nhưng giữa đường thì bị bắt lại và được dẫn từ Hà Tiên về Sài Gòn. Khi nghe tin hai người này đến Sài Gòn, tức thời các thầy giảng thuộc các họ đạo ở khu vực này đến gặp “vị quan lớn”, có lẽ là phò mã Trương Văn Đa hoặc Lưu Thủ Hóa, để xin bảo lãnh cho họ. Vị quan liền ra lệnh cho tất cả các thầy giảng của tất cả các họ đạo trong vùng đến hạ kiến và ông đã nói với họ những lời sau đây: “Do một ân huệ đặc biệt của tôi mà hai thừa sai ở giữa các ông. Để đáp lại tôi không đòi hỏi các ông vàng bạc, tiền bạc, nhưng chỉ đòi các ông biết ơn tôi và giúp tôi lập lại hòa bình trong vương quốc…” (27).

Tuy nhiên trong giai đoạn này, con số giáo dân phát triển như thế nào thì không có tư liệu rõ rệt cho chúng ta biết, ngoài số lượng 8.000 người tính được khi Nguyễn Ánh thu phục Gia Định lần thứ tư vào cuối năm 1787 (28). Nếu so với con số 10.000 người vào năm 1771 thì đã rõ là sau 16 năm giáo hội Nam Bộ không tiến gì thêm mà còn bị thiệt hại về số lượng giáo dân, chưa nói tới sự vắng bóng các sinh hoạt tôn giáo, vì chiến tranh, vì thiếu thừa sai, thầy giảng. Giáo sĩ Lelabousse, một người đã hoạt động trong giai đoạn này đã tổng kết như sau: “Tôi đau khổ nhìn thấy gia nghiệp của Thiên Chúa đã phải chịu thiệt hại rất nhiều, giữa muôn vàn xáo trộn. Cuộc chiến dai dẳng này đã gây tổn thất rất nhiều ở đây… Những họ đạo trước rất đông nay chỉ còn chưa tới nửa. Dân chúng người thì chết vì gươm giáo, người thì chết vì đói khát, người thì đi chinh chiến, người thì đến các tỉnh khác… Một số rất lớn tín đồ đã không xưng tội từ 15, 20, 30 năm và hơn nữa, đa số không xưng tội từ 6 đến 8 năm nay…” (29).

IV. THIÊN CHÚA GIÁO TẠI NAM BỘ: GIAI ĐOẠN 1788 – 1802

Tháng 10 năm 1787, Nguyễn Ánh chiếm lại được Gia Định và vào tháng 7 năm 1789 giám mục Adran cùng Hoàng Tử Cảnh trở về Sài Gòn sau chuyến công cầu viện nước Pháp thất bại. Ông mang theo 13 sĩ quan, 40 người lính Pháp và 8 bị thừa sai, mở đầu cho một giai đoạn và một lối truyền giáo mới, đó là dựa trên thế lực chính trị để phát triển tôn giáo. Trước kia ở Đàng Trong cũng như ở đàng Ngoài, các thừa sai dòng Tên tuy cũng muốn lấy lòng các vua chúa quan lại để họ khoan dung cho việc truyền đạo, nhưng những người này chỉ dựa vào các lễ vật kỳ lạ, tài năng toán học, thiên văn hoặc y học của họ để phục vụ các vua chúa. Giờ đây, lần đầu tiên việc truyền giáo đi nương nhờ thế lực chính trị để phát triển, mà thế lực chính trị này gồm hai bộ phận, thế lực hiện tại của triều đình Nguyễn Ánh và thế lực tiềm tàng của đế quốc Pháp. Điều này rất nguy hại, nhất là khi hai thế lực kia mâu thuẫn nhau như dưới thời Tự Đức sau này. Về mặt tôn giáo mà nói, đây là một lối truyền giáo thiếu lòng tin, bởi vì nó không dựa vào sức thu hút nội tại của tôn giáo, mà phải nhờ đến quyền lực chính trị trần thế. Tệ hại hơn nữa là lại nương nhờ vào thế lực của đế quốc Pháp, một thế lực ngoại bang hoàn toàn đi ngược lại tình tự của dân tộc. Sự kiện này đem đến cho Giáo hội Thiên Chúa giáo Việt Nam nhiều hậu quả tai hại.

Lối truyền giáo này hoàn toàn trái ngược với lối truyền giáo lâu nay tại đồng bằng Nam Bộ. Ở đây, như chúng ta đã thấy, từ ban đầu, công việc truyền giáo chỉ là quy tụ những lưu dân đã có đạo thành những họ đạo nhỏ gần nơi sản xuất làm ăn của họ. Việc truyền đạo cho những người ngoài ít khi xẩy ra. Chính quyền tại chỗ cũng chưa đủ mạnh để gây cản trở quan trọng cho việc hành đạo, ngay trong những lúc có cấm đạo thì việc thi hành cũng không gay gắt như ở Đàng Trong. Trong giáo dân ở giai đoạn này cũng không thấy có viên quan lại nào là người Thiên Chúa giáo hoặc có cảm tình với đạo giáo để che chở, bảo vệ, ngoài những người muốn có thêm lưu dân khai khẩn đất hoang của họ như đã thấy trên.

Ngược lại, 8 vị thừa sai người Pháp do giám mục Adran đem về theo, vừa đến Sài Gòn liền được linh mục người Việt tên là Paul Nghi, một nhân vật đã có lần cung cấp vũ khí cho quân Nguyễn Ánh trước khi giám mục Adran trở về Sài Gòn (31), dẫn đến yết kiến Nguyễn Ánh. Dựa vào thế lực của Nguyễn Ánh, các vị thừa sai này được tự do truyền đạo, được trọng vọng hơn cả các quan lại, thậm chí các quan còn phải nể sợ. Một giáo sĩ hoạt động lúc đó đã viết như sau: “Các thừa sai ở Nam Bộ được làm tất cả những gì họ muốn… Mọi người đều kính trọng họ, vị nể họ, họ hoạt động với bộ máy tổ chức lớn là không ai cản trở họ” (32).

Trong giai đoạn này chúng ta thấy rõ hai địa bàn hoạt động của các thừa sai, địa bàn thứ nhất là triều đình Nguyễn Ánh ở Sài Gòn và địa bàn thứ hai là giữa dân chúng. Địa bàn thứ nhất do giám mục Adran phụ trách nhằm gây cơ sở cho việc hoạt động của các thừa sai khác ở địa bàn thứ nhất.

Tại triều đình, mục tiêu của giám mục Adran cũng như của tất cả các giáo sĩ người Pháp là khuyến dụ Nguyễn Ánh đi theo đạo Thiên Chúa. Nhưng với thời gian, khi thấy mục tiêu này khó đạt được, các giáo sĩ dồn tất cả nổ lực về phía Hoàng Tử Cảnh và các quan lại trong triều đình. Niềm hy vọng của họ là “nếu hoàng tử một ngày nào đó trị vì thì tôn giáo sẽ được lợi” (33).

Để đạt mục tiêu trên, giám mục Adran đã dùng mọi phương cách, từ tiền bạc đến chính trị. Trước đó khi còn ở Pondichéry, ông đã bỏ tiền riêng của ông để mua khí giới và tàu bè giúp Nguyễn Ánh. Khi trở về Sài Gòn, ông vẫn còn tài trợ cho Nguyễn Ánh (31). Về mặt chính trị, ngoài việc cầu viện thất bại sự trợ giúp của nước Pháp, việc cung cấp vũ khí và chiêu mộ những sĩ quan người Pháp đến giúp Nguyễn Ánh, giám mục Adran còn làm công việc cố vấn tối cao cho Nguyễn Ánh để đối đầu với quân Tây Sơn. Công việc của ông rõ ràng là công việc của “một giám mục triều đình”, “chỉ bận tâm đến chiến tranh và chiến trận” như những thừa sai khác thường tố cáo (34).

Mặc dù đã đổ nhiều công lắm của như thế, mục tiêu ông nhắm tới vẫn không đạt được. Hoàng Tử Cảnh, niềm hy vọng lớn nhất của Adran, đã tỏ ra sẽ không bao giờ đi theo đạo. Ngược lại, ông bị các quan lại trong triều đình phản đối. Ngay từ năm 1790, họ đã yêu cầu Gia Long không để Hoàng Tử Cảnh ở với ông mà đem về triều đình giao lại cho các quan dạy dỗ. Rồi đến năm 1795, lợi dụng cơ hội Gia Long căm giận những người Pháp đến giúp vì họ đã làm hư hại một chiến thuyền của vua, một nhóm quan lại cao cấp trong triều đình gồm 19 người trong đó có cả cậu nhà vua đã viết kiến nghị chống giám mục Adran mãnh liệt đến nỗi Adran phải nhân danh vua nước Pháp và danh nghĩa đại diện Toàn quyền nước Pháp của ông để đòi đền bù (35). Một phần bởi sự chống đối lúc âm ỉ, lúc công khai của đám quan lại này, phần khác vì sợ quân Tây Sơn trả thù, ông đã nhiều lần muốn bỏ về nước. Tuy nhiên nếu mục tiêu chính là làm cho Nguyễn Ánh và Hoàng Tử Cảnh đi theo đạo không thực hiện được, thì công việc truyền giáo của ông tại triều đình cũng đạt được một số kết quả nhất định. Ông đã báo cáo thành quả của ông như sau: “Gia đình của nhà vua phía bên ngoại đều đi theo đạo. Trong số bốn vị quan trường cột của vương quốc, có một vị là tín đồ Thiên Chúa giáo, cộng thêm 10 vị lãnh binh (nguyên văn colonel), 100 vị phó lãnh binh (nguyên văn captaine) và rất nhiều quan lại phẩm trật nhỏ hơn và binh lính có đạo” (36).

Ở địa bàn thứ hai, trong những năm đầu thế kỷ từ khi Nguyễn Ánh chiếm lại Gia Định lần cuối, là giai đoạn thuận lợi hơn hết, nhưng kết quả không được khả quan bằng ở địa bàn thứ nhất. Tuy với lực lượng thừa sai nòng cốt gồm 5 giáo sĩ người Pháp, 3 thừa sai người Tây ban Nha dòng Phansicô và ba linh mục bản xứ, là một lực lượng lớn nhất từ trước tới nay tại Nam Bộ, cộng với sự tự do truyền giáo được Nguyễn Ánh cho phép, nhưng giáo hội ở Nam Bộ không tiến nhiều. Giám mục Adran báo cáo vào năm 1791 như sau: “Việc truyền giáo tiến rất ít. Đời sống đắt đỏ, công việc tạp dịch… tất cả đều ngăn trở việc rao giảng Tin Mừng. Tuy nhiên, cũng có những người ngoài đi theo đạo nhưng với một số lượng quá nhỏ đối với giáo hội này nên chúng tôi kể hầu như không có gì. Số người lớn được rửa tội trong năm này không lên tới 300” (37). Vào năm 1792 bản báo cáo của ông viết tiếp: “Công cuộc truyền giáo cũng gần giống như năm trước”. Rồi đến năm tiếp theo chúng ta cũng đọc thấy rằng: “Đạo giáo tiến rất chậm ở đây” (38). Tóm lại từ năm 1791 đến 1798 số người lớn đi theo đạo chỉ đạt được trung bình 300 người mỗi năm.

Lý do của tình trạnh trì trệ này, theo sự đánh giá của giáo sĩ Liot, người đã hoạt động đương thời, là vì “việc chuẩn bị liên tục cho chiến tranh khiến người ngoài đạo ít nghĩ đến chuyện linh hồn, do đó có ít người đi theo đạo” (39). Nhưng đối với giáo sĩ Lelabousse, một người cũng hoạt động cùng thời, thì nguyên nhân của tình trạnh trên là sự sợ sệt, sự lười biếng hoặc sự nể nang (40). Sợ sệt ở đây là sợ quân Tây Sơn có thể chiếm lại Gia Định và ra tay trả thù các thừa sai Tây phương và những ai theo họ. Bởi vì việc các giáo sĩ người Pháp giúp Nguyễn Ánh đã quá hiển nhiên, nhưng việc cộng đồng giáo dân Thiên Chúa giáo Nam Bộ ủng hộ Nguyễn Ánh cũng không phải là chuyện bí mật gì. Thực vậy, trong một trang ký sự, giáo sĩ Letondal đã ghi lại như sau: “Trong lúc ở Đồng Nai người ta biết được việc bảo vệ vị trí Nha Trang, tất cả mọi người ở Sài Gòn đều nói là nếu không có người công giáo, không có giám mục và ông Olivier thì quân Tây Sơn rất có thể đã chiếm lại tất cả những gì nhà vua có được từ 6 năm nay” (41). Do đó, nếu đi theo đạo của các ông giáo sĩ này thì có nguy cơ bị trả thù. Mà việc Tây Sơn trở lại không phải không thể xảy đến trong giai đoạn này. Chính giám mục Adran cũng nhìn thấy khả năng đó khi ông viết: “Nhà vua đã đề nặng lên dân chúng những thuế má và tạp dịch, và trong giai đoạn này, người dân quá khổ sở đến nỗi họ muốn sự trở lại của quân Tây Sơn” (42). Giáo sĩ Lababousse còn viết rõ hơn: “Dân chúng bất mãn với nhà vua và dọa kêu gọi quân Tây Sơn trở lại đây, với hy vọng được đối xử tốt hơn” (43).

Tuy nhiên có một thành quả khá rõ rệt của giáo hội Nam Bộ trong giai đoạn này là việc đào tạo các chủng sinh bản xứ để trở thành linh mục. Vào tháng 8 năm 1791, theo lời đề nghị của Nguyễn Ánh, chủng viện đặt tại Chantabun trong những ngày trốn tránh quân Tây Sơn, được dời về lại Tân Triều ở Đồng Nai. Nguyễn Ánh đã giúp tiền bạc và lương thực để nuôi chủng sinh, ngoài ra còn ký sắc lệnh cho phép 30 chủng sinh khỏi phải đi lính và làm tạp dịch. Vào năm 1789, giám mục Adran lại cho xây dựng một cơ sở khác tại Lái Thiêu để làm Đại Chủng Viện gồm 34 người, còn cơ sở tại Tân Triều trở thành Tiểu Chủng Viện gồm 20 em. Đến năm 1799, Đại Chủng Viện còn 24 người, số kia trở thành linh mục, và tiểu chủng viện tăng lên 50 em.

Tóm lại, trong giai đoạn thứ ba này, tuy hoàn cảnh chính trị có phần thuận lợi với sự ủng hộ của Nguyễn Ánh, nhưng giáo hội Thiên Chúa giáo Nam Bộ tiến triển chậm vì lý do chiến tranh. Tuy nhiên về mặt định cư tại đồng bằng Nam Bộ, nếu chúng ta lấy danh sách các họ đạo được thiết lập vào những năm giữa thế kỷ XVIII (xem chú thích số 14) và đối chiếu với danh sách các họ đạo được thiết lập vào năm 1813 (xem chú thích số 44), tức 13 năm sau thời điểm của chúng ta đang đề cập, tuy nó không chính xác lắm vì có những họ đạo lúc đó chưa được hình thành, thì chung ta cũng có được một ý niệm khá rõ rệt về tình hình định cư của các giáo dân Thiên Chúa giáo tại đây. Vào lúc này giáo hội Thiên Chúa giáo có được 16.000 giáo dân sống rải rác trong các họ đạo được phân bổ như sau: tỉnh Tam Lạch: 58 họ đạo, tỉnh Đồng Nai: 69 họ đạo và tỉnh sông sâu tức Hậu Giang: 21 họ đạo (44). Trong khi đó vào năm 1744, người tín đồ Thiên Chúa giáo chỉ tập trung trong 57 họ đạo và chỉ có mặt tại các vùng chung quanh Sài Gòn, Đồng Nai, Mỹ Tho như đã nói ở trên.

Con số giáo dân và họ đạo ở trên là kết quả của hai thế kỷ du nhập và phát triển của đạo Thiên Chúa giáo tại đồng bằng Nam Bộ, một kết quả rất giới hạn so với tình hình ở đàng Ngoài. Ngay tại giai đoạn đầu tiên từ 1624 – 1648 trong khi đàng Ngoài có 195.777 người theo đạo thì ở Đàng Trong chỉ có 5.000 người. Đó là chưa nói tới chất lượng hoặc tinh thần của người đi theo đạo ở Nam Bộ. Giáo sĩ Lavoué, một người đã hoạt động tại đây đã viết: “Họ không gắn bó với đạo giáo như những người công giáo ở các tỉnh phía trong (Trung kỳ)” (45). Sở dĩ có tình trạng như vậy là do quá trình du nhập và phát triển của đạo Thiên Chúa giáo ở Nam Bộ bắt nguồn từ những động lực ngoài niềm tin tôn giáo. Thực vậy, như chúng ta đã thấy, giáo hội Thiên Chúa giáo ở Nam Bộ được khởi đầu bằng những lưu dân đi kiếm sống, nhưng con người của họ như thế nào về mặt tôn giáo? Họ là những nông dân nghèo khổ mà lý do theo đạo được thâu tóm vào ba điểm: “Để được khỏi quỷ ám, để cưới vợ hoặc chồng đã là người công giáo và để được giúp đỡ về tài chính” (46). Do đó, “họ rất yếu kém trong lòng tin và khi gặp khó khăn đầu tiên là họ sa ngã ngay, không cần phải bắt bớ cấm đạo họ mới sa ngã: một tư lợi, một sự ham muốn đổi vợ hay lấy chống khác, một lời quở mắng của cha mẹ, một sự chế nhạo của người ngoài cũng đủ để họ bỏ ngay tôn giáo” (47). Với một căn bản đạo như thế, đương nhiên khi vào Nam Bộ, phải sống lẻ tẻ giữa những nhóm người khác tôn giáo, lại không có linh mục, thầy giảng giúp đỡ, củng cố lòng tin của họ, họ không gắn bó với tôn giáo là phải. Rồi khi có thừa sai đến giúp thì số lượng thừa sai không bao giờ lên quá 5 người trong suốt thời gian từ 1696 – 1747 là thời điểm các thừa sai Pháp đến phụ trách tại khu vực Bến Gỗ. Công việc của các thừa sai cũng chỉ là quy tụ người giáo dân Thiên Chúa giáo sống rải rác khắp vùng thành những nhóm nhỏ. Các thừa sai lâu lâu mới đến thăm viếng họ, có khi vị thừa sai đến thì họ đã dời đi chỗ khác làm ăn, như một giáo sĩ đã mô tả: “Bởi vì chúng tôi ít thừa sai, lại hầu như luôn luôn phải di chuyển, và hơn nữa người Việt ở đây sống trong một tình trạng biến động liên tục, thay đổi nơi ăn chốn ở với bất cứ lý do gì… nên hầu như không thể làm khác hơn những gì chúng tôi đã làm, chúng tôi buộc phải rửa tội họ như là người ta bắt cá, nghĩa là ngay khi họ xuất hiện, với hy vọng nếu số đông này mất đi thì ít ra chúng tôi cũng cứu được vài người” (48). Những điều trên đây mô tả tình hình ở tỉnh địa đầu của xứ Đàng Trong vào năm 1713, nhưng lại càng thích hợp hơn cho tình hình Nam Bộ trong giai đoạn mới khẩn hoang. Thực vậy, người lưu dân ở đây di chuyển không ngừng, vì đất còn rộng, người còn thưa. Điều kiện không gian này đã tạo cho con người vốn dĩ đã có tính phiêu lưu một tinh thần tự do rất lớn. Một giáo sĩ hoạt động trong vùng đã viết: “Thực khó lòng bó buộc họ giữ các điều răn của giáo hội, bởi vì buộc họ làm bất cứ điều gì là chuyện vô phương thực hiện” (49). Hơn nữa, cũng vì điều kiện không gian không thể quy tụ họ vào phạm vi nhỏ hẹp và có nề nếp của một thôn xóm có lũy tre bao bọc như ở đàng Ngoài, tính tự do này không có gì cản trở lại càng được phát triển. Thêm vào đó, các cuộc chiến tranh giữa tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn với phong kiến Chân Lạp vào nững năm 1731 – 1733, với phong kiến Xiêm vào những năm 1752 – 1759 và cuộc nội chiến giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh, đã phá vỡ tất cả những tổ chức hay nề nếp đã có thể có được.

Với tình trạng tổ chức và tình hình người tín đồ như thế, công việc chủ yếu của giáo hội Nam Bộ khi hòa bình được lập lại vào đầu thế kỷ XIX là xây dựng và củng cố trên cơ sở dựa vào sức mạnh tiềm tàng của đế quốc Pháp, sự nhân nhượng của Nguyễn Ánh, đồng thời phải đối phó với ngọn lửa chống đối âm ỉ của các quan lại.

CHÚ THÍCH

(1) “Letter de gaspar luis sur la Cochinchine”, tạp chí Bulletin des Amis du Vieux Hue số 3 – 4 – 1931, tr.130.

(2) Christofer Borri, “Relation de la nouvelle mission des pères de la compagnie de jésus au royaume de la Cochinchina”, Rome 1831, in lại trong Bulletin des Amis du Vieux Hue, Juillet – Déc 1931 No. 3-4, tr.340.

(3) Đỗ Quang Chính, giáo trình Lịch sử Xã hội Việt Nam, thế kỷ XVII – XVIII, bản viết tay của tác giả, Sài Gòn 1973 – 1974, tr.297.

(4) A. Launay, Historie de la Mission de Cochinchine 1658-1823, Documents Historiques, Maisonneuve Frères, Paris 1924, tome I, tr.396. Thư M. Labbé gửi De Brisacier ngày 15-6-1693.

(5) “Relation des missions des Evêques Francais au Royaume de Siam”, Paris 167, trích lại trong A. Launay, sách đã dẫn, tone I, tr.67.

(6) Thư của M. Labbé gửi De Brisacier ngày 15-5-1693 trong A. Laynay, sách đã dẫn, tome I, tr.396.

(7) Thư của D. Févet viết cho Ban Giám Đốc chủng viện thánh gia ngày 29-2-1692, trích trong A. Launay, sách đã dẫn, tome I, tr.414.

(8) Thư của M. Labbé gửi Ban Giám Đốc Hội Truyền giáo Paris ngày 4-9-1710 trong A. Launay, sách đã dẫn, tome I, tr.541.

(9) Như trên.

(10) Trần Phổ, Dòng Phanxicô trên đất Việt, Sài Gòn 1975, ronéo, tr.55.

(11) Thư của M. Heutte gửi Giám mục Cicé năm 1711, trích trong A. Launay, sách đã dẫn, tome I, tr.470.

(12) Trần Phổ, sách đã dẫn, tr.56.

(13) Trần Phổ, sách đã dẫn, tr.52-53.

(14) Toàn bộ danh sách các họ đạo như sau:

Trong tỉnh Đồng Nai (In Provincia Đou-nai) 1747 (Misssions Etrangères).

Bến Gỗ: 200

Jésuites

R. Đou-nai: 400Dou-mon: 40

Da Lua: 500R. Moi-xoai: 100

Ben Go: 250Baris: 140

Lai Hưu: 400Nui-nua: 50

Ke Tat: 70Dat-dơ: 380

Moi-thom: 40

In Provincia Raigon

Rai-gon thong: 1,000, Rai-gon hạ: 1,500, Lai-tjieu, Ca-hong, Cai-nhum, Cai-mung, Rach tla, Ben-ghe, Eu-lao, Ba-tan, Ba-vay, Tam-bui, Cay-nam, Bung-dung, Tan-lap, Go-ven, Ray-cal, Ke-chuoi, Mi-lao, Ben-me, Ke-coc, Giang-cies, Ba-lum, Te-nay, Columpe, Cay-gia, Lueu-xa-huong, Bun-han, Rach-canh, Rach-canh, Cau-dua, Nha-ram, Cau-duoc, Rach-duoc, Thu-rang, Ban-tam, Go-vua, Rach-mieu, Mi-tho, Ke-be, Ruot-ngua, Rach-lá, Ta-loat, Lamung, Lan-loc, Quang-ruong, E. Halieu vel Pontouras A. Launay, sách đã dẫn, tome II. 190-191.

(15) A. Launay, sách đã dẫn, tome 2, tr.436.

(16) Thư của M. Artaud gửi cho M. Hody ngày 24-11-1768. A. Launay, sách đã dẫn, tom ”, tr. 409.

(17) A. Launay, sách đã dẫn, tome III, tr.55.

(18) Thư của giáo sĩ Julilla, ngày 9-8-1774 gửi P. Jeau Salguers trong Taboulet, “La Révolte et la guerre des Tayson D’après les Franciscains Espagnols”, tạp chí B.S.E.I. tome XV-1940, tr.79.

(19) Đặng Phương Nghi “Triều đại Quang Trung dưới mắt các nhà truyền giáo Tây phương”, sử địa, số 13-1969, tr.169, 151.

(20) Xem bản văn dụ cấm đạo cảu Tây Sơn, trích lại trong Louvet, la Cochinchine Religneuse, tome I, tr.517.

(21) A. Launay, sách đã dẫn, tome III, tr.66.

(22) Thư của Ô. Ginestar năm 1784, trích lại trong Taboulet, “la Revolte et la guerre des Tayson d’après les Franciscains Espagnols” tạp chí B.S.E.I tome XV-1940, tr.77.

(23) Nguyễn Văn Hầu “Sự thôn thuộc và khai thác đất Tầm Phong Long”. Sử địa 19-20, 1970, tr.14.

(24) Louvet, sách đã dẫn, tome I, tr.404.

(25) Thư của A. Tôn gửi M. Descourvìeres, trích trong A. Launay, sách đã dẫn, tome III, tr.83.

(26) Thư của Giáo sĩ Ginestar năm 1784, trích trong Taboulet, bài đã dẫn, B.S.E.I XV-1940, tr.94.

(27) Như trên, tr.96.

(28) Thư của Lebabousse ngày 13-5-1995. – A. Launay, sách đã dẫn, tome III, tr.273.

(29) Như trên, tr.221.

(30) Louvet sách đã dẫn, tome I, tr.248.

(31) Như trên, tr.441

(32) Thư của Lelabousse, trích trong A. Launay, sách đã dẫn, tome III, tr. 221.

(33) Như trên, tr. 284.

(34) A. Launay, sách đã dẫn, tome III, tr. 309.

(35) Thư của Adran gửi ông Boiret ngày 30-5-1795, A. Launay, sách đ4 dẫn, tome III, tr. 394.

(36) Taboulet, “La vie fourmentée de I’Evêque d’ Adran”, tạp chí B.S.E.I. XV (1940), tr. 18.

(37 - 38) A. Launay, sách đã dẫn, tome III, tr.223, 262.

(39 - 40) A. Launay, sách đã dẫn, tome III, tr.264.

(41) Ký sự Ô. Letondal, A. Launay, sách đã dẫn, tome III, tr.300.

(42) A. Launay, sách đã dẫn, tome III, tr. 294.

(43) Như trên, tr. 296.

(44) Danh sách các họ được thiết lập vào năm 1813 do các giáo sĩ dòng Phansicô, được tác giả Trần Phổ trích lại trong tác phẩm của ông, “Dòng Phansicô trên đất Việt” tr. 94-95 chú thích của tác giả Trần Phổ.

(45) Thư của ông Lavoué gửi ông Borvet ngày 13-5-1795, A. Launay, sách đã dẫn, tome III, tr. 274.

(46 - 47) Thư của ông De Flory gửi Ban giám đốc Hội truyền giáo Paris ngày 10-1-1717. A. Launay, sách đã dẫn, tome I, tr. 614.

(48) Thư của ông Heutte gửi Ban giám đốc Hội truyền giáo Paris năm 1713. A. Launay, sách đã dẫn, tome I, tr. 614.

(49) Thư của ông De Cafopony gửi ông Basset, ngày 22-3-1700, A. Launay, sách đã dẫn, tome I, tr.615.

No comments: