Friday 9 October 2009

CÂY THÁNH GIÁ GIẢ

Nguyễn Đức Thông, CssR

Trời đã nhá nhem. Dân cư chung quanh Đan Viện Thiên Ân đang vội vã kéo nhau từ ruộng đồng về. Tiếng cười nói lúc nhỏ, lúc to, cộng với tiếng trâu bò, tiếng bước chân lép xép, huỳnh huỵch làm huyên náo cả một vùng trời. Trong Đan Viện, cuộc họp của ban quản trị cũng đang đi dần tới hồi kết thúc. Tiếng chuông chiều nỉ non, ai oán, ngân nga như tiếng ông lão ăn xin đầu làng, rên rỉ mỗi khi nghe tiếng bước chân người qua lại. Nghe chuông, bốn con chó châu đầu vào nhau tru tréo, mỗi con một giọng, hệt như một bản hợp xuớng lạc điệu.

Chuông nhà thờ rồi. Cha Hùng, đan viện phụ nói. “Thưa anh em, ta đã bàn xong những chuyện chính, còn một chuyện nữa, khá tế nhị, ta cũng phải bàn nốt cho xong”.

Nghe vậy, những khuôn mặt bải hoải, những ánh mắt mệt mỏi, hướng về phía cha Hùng, thắc mắc: “Chuyện gì thế?

Cụ Ngữ muốn về Việt Nam ở luôn, không biết anh em nghĩ sao?
- Nhà rộng, cụ muốn về thì ta đón cụ về. Cha Long nói cho qua chuyện.
- Tôi lại nghĩ khác. Cha Hòa nghiêm mặt nói. “Cụ đã già, lại ở ngoại quốc bốn mươi năm, về Việt Nam không thích nghi được, mình phải thích nghi với cụ thì khốn. Vả lại, giới trẻ bây giờ, ta còn không chịu nổi huống chi cụ”,
- Cha Hòa nói đúng. Cha Luyến chen vào. “Về Việt Nam cụ sẽ chết sớm thôi”.
- Thì cụ muốn về đây để chết mà! Viện phụ nói.
- Không nên để cụ về. Cha Hòa nói chắc như đinh đóng cột.
- Không được đâu. Cha Hùng nói.
- Sao lại không được. Cha Hòa giận dữ nói: “Quyền trong tay ta!
- Đất này cụ mua. Nhà này cụ xây. Cha Hùng nhẹ nhàng giải thích. “Nhờ cụ mà hôm nay ta mới được thế này. Vả lại, cụ không phải là người bị buộc phải đi lưu vong. Cụ đi xây dựng các cộng đoàn, đi làm nhiệm vụ quốc tế. Nay cụ muốn về chết ở quê hương, ta không cho cụ về, thì bất nhân quá, người ta sẽ chửi cho thối mặt ra, các em trẻ sẽ không còn tin ta nữa, vì ta chỉ biết nói mà không làm. Ta sẽ không thể mở miệng giảng dạy về bác ái, yêu thương được nữa.
- Vậy thì để cụ về. Cha Luyến nói trong tiếng ngáp.
- Về bây giờ ở đâu. Cha Hòa gắt lên.
- Ở phòng cụ trước đây, chứ còn ở đâu nữa. Sau khi viện phụ Oánh qua đời, phòng vẫn để không, có ai ở đâu.
- Vấn đề không phải là ở đâu, mà phải ở thế nào. Cha Hòa nói giọng vẫn gay gắt.
- Cụ già đã gần tám mươi rồi, cụ muốn ở sao chẳng được. Vả lại, cụ là người quân bình, mẫu mực. Tôi nghĩ chẳng có chuyện gì phải lo đâu. Cha Hùng nói.
- Vấn đề không phải ở cụ mà ở ta. Cụ về, ta không thể sống thế này được, ta phải thay đổi, phải trở về với truyền thống, phải khiêm tốn, không được vênh vang, tự đắc, tự mãn, làm ít nói nhiều, làm bằng miệng hơn bằng chân tay, trí óc. Đó mới là vấn đề, phải không, thưa cha Hòa? Cha Phán vừa nói vừa nhìn cha Hòa bằng ánh mắt bực bội.

Mặt cha Hòa đỏ lên đến tận hai tai. Cha Hùng, Cha Luyến gật gù, đồng ý. Gió chiều Đông thổi nhẹ. Côn trùng bắt đầu rên rỉ. Chuông Nhật Một buông từng tiếng chắc nịch, phá vỡ bầu khí ngột ngạt, căng thẳng,
- Vậy ta nhất trí đón cụ về nhé! Cha Hùng nói.
- Đương nhiên rồi. Cha Phán nói.
- Khi nào về? Cha Luyến hỏi.
- Khoảng một tháng nữa. Ta nghỉ nhé. Cám ơn anh em.

Trời đã khuya. Bên ngoài, tuyết đã phủ trắng các cành cây trụi lá. Trong nhà, mọi người đã chìm sâu trong giấc ngủ từ lâu. Cụ Ngữ vẫn ngồi thờ thẫn trong ánh đèn ngủ mờ ảo, mơ hồ hồi tưởng lại những nơi cụ đã đi qua trong đời. Việt Nam
Thụy Sĩ, Tokyo, lần lượt hiện lên trong trí cụ. Cả tuần nay chẳng mấy đêm cụ được tròn giấc. Cụ sắp nói lời từ biệt xứ sở Phù Tang, nơi mỗi độ Xuân về hoa anh đào lung linh khắp phố. Những khuôn mặt thân thương cụ đã gắn bó suốt hơn mười năm qua đang khiến cụ bâng khuâng, do dự. “Về hay ở”. Càng gần tới ngày từ biệt, cụ càng băn khoăn hơn. Tình anh em thắm thiết trong cộng đoàn, những sinh hoạt đã thành tập quán, những tiếng kinh ngâm nga sáng, trưa, chiều, tối, những con đường trong nhà, ngoài ngõ, hương hoa, cỏ, lá… đã thành một phần xương thịt cụ, đang làm cho cuộc ra đi thành một nỗi đớn đau, sâu xé. “Về hay ở, ở hay về” đang trở thành một điệp khúc u hoài trong lòng cụ.

Đi ngang, thấy phòng cụ cửa còn he hé, cha Suzuki, đẩy cửa, bước vào, nhẹ hỏi: “Cha có làm sao không? Sao cha thức khuya thế?”
- Tôi không ngủ được cha ạ!
- Tại nôn nóng muốn về Việt Nam chứ gì!
- Có lẽ thế.
Suzuki nắm tay cụ nhỏ nhẹ: “Cha ạ. Cả nhà này khi nghe cha quyết định trở về Việt Nam đều ái ngại cho cha. Cha không còn làm viện phụ nữa, nhưng cả đan viện này ai cũng trân trọng, cũng mến thương cha. Cha vẫn là một chỗ dựa vững chắc của mọi người trong nhà này. Về Việt Nam là nơi cha đã bỏ đi bốn mươi năm rồi, xã hội đã thay đổi, con người cũng đã đổi thay. Nhà cửa, ruộng vườn không còn như xưa nữa. Đan Viện Thiên Ân do cha tạo lập thật nhưng dấu vết của cha chắc chắn đã nhạt nhòa theo thời gian, năm tháng. Những người đồng trang lứa với cha có còn ai nữa đâu. Học trò cha bây giờ ai cũng có nhiệm vụ riêng, ai có giờ đâu mà chăm sóc cha. Giới trẻ có biết cha là ai đâu, nên rất có thể buông ra những lời xúc phạm làm cha mất bình an trong những ngày chuẩn bị cho cuộc bình an vĩnh cửu. Cha sẽ cô đơn, sẽ lạc lõng giữa anh em…” Suzuki ngưng lại một lát chờ xem phản ứng của cụ. Một cơn gió nhẹ thoảng qua làm hai người run lên cầm cập. Cụ Ngữ vẫn thẫn thờ, đờ đẫn. Suzuki tiếp: “Cả tuần nay, con thấy cha trằn trọc suốt đêm. Chắc là cha băn khoăn lắm?”
- Phải. Tôi băn khoăn lắm. Tôi cố hình dung ra những khó khăn đang chờ đợi tôi ở Việt Nam. Về bây giờ là liều lĩnh nhưng Đan Viện Thiên Ân cứ như tiếng mẹ hiền tha thiết gọi con về, tôi không sao cưỡng lại được”.
- Con biết. Con rất thông cảm. Con chỉ mong cha hạnh phúc và bình an trong những ngày còn lại của đời cha thôi. Cám ơn cha. Xin cha cầu nguyện cho tôi để xem ý Chúa thế nào”.
Đã lên giường từ lâu, mà cha vẫn không sao chợp mắt được. Bên ngoài thỉnh thoảng gió vẫn rì rào, đẩy bay những hạt tuyết li ti đang lờ lững trên không. “Ở hay về, về hay ở” một thắc mắc chưa có lời giải đáp, cứ dằn vặt cha mãi. Cha cố quên đi mà không sao quên được. Có lúc cha buông tiếng thở dài, bất lực. “Hay thôi, không về nữa!” cha buột miệng. Nhưng lời cha vừa thốt ra đã vội ta chìm trong màn đêm dầy đặc tuyết sương.

Thưa quí khách. Máy bay đang hạ thất độ cao, để đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Xin quí khách trở về chỗ ngồi, bật thẳng lưng ghế, thắt dây an toàn…” Lời của một nữ tiếp viên hàng không, nhẹ nhàng, thánh thót làm cha tỉnh giấc. Cha mở choàng mắt, dáo dác ngó ra cửa sổ, háo hức muốn được nhìn lại thành phố cha đã xa cách bốn mươi năm. Thành phố lỏng chỏng những căn nhà trọc trời, ngất ngưởng dưới ánh hoàng hôn vàng chóe. “Sàigòn đây à!” Cha ngạc nhiên, thảng thốt. “Đâu có thua gì. Lòng cha trào lên một niềm tự hào khó tả. Bên ngoài, các nhân viên hàng không tha thướt trong bộ đồng phục, áo dài xanh, quần trắng, dáng khoan thai, bước nhẹ nhàng, nhởn nhơ như bướm, miệng e ấp, gật đầu chào duyên dáng. “Đẹp hơn kimono nhiều!” Cha tự nhủ.

Bước vào phi trường, tới chỗ làm thủ tục nhập cảnh, mọi vẻ lịch thiệp, duyên dáng cha vừa thấy, vụt tắt như ánh đèn thình lình cúp điện. Các nhân viên an ninh, mình mặc quân phục. Mặt đanh như tượng đá. Mắt sắc như dao. Thỉnh thoảng có kẻ còn nạt nộ du khách hệt như công an đang khảo cung tội phạm. Du khách, mặt ai cũng căng thẳng như tội nhân đang chờ giờ nghị án. Một nhân viên an ninh, đau đáu nhìn cha hồi lâu, mới cúi xuống đóng dấu vào hộ chiếu, lạnh lùng, lẳng lặng trả lại hộ chiếu cho cha, không một lời nói, không nụ cười. Bước chân đi bỗng nặng chình chịch, cha có cảm giác mơ hồ mình như cá vừa chui vào rọ. Đẩy hành lý ra khỏi cửa, cha thấy cả một rừng người nhấp nhô chen lấn. Tiếng cười nói, tiếng gọi nhau í ới vang lên giữa những bảng tên dập dình trông hệt như một cuộc đình công. Cha đang dáo dác thì cha Hùng chạy tới: “Chào cha”. Vừa nói cha Hùng vừa ôm choàng lấy cha thắm thiết. “Cha có mệt lắm không?” Cha chưa kịp trả lời, thì đằng sau nghe tiếng người bực bội: “Tránh ra cho người ta đi. Muốn ôm thì về nhà mà ôm!” Cha quay lại, giọng thành khẩn: “Tôi xin lỗi”.
- Lỗi phải gì. Người thanh niên trông rất trí thức; cặp kính trắng xệ xuống gần hai cánh mũi; áo quần tươm tất, chiếc cà vạt màu nâu đỏ lủng lẳng theo nhịp bước vội vàng, hất mặt về phía sau, khinh khỉnh nói: “Coi kìa!”, rồi lẳng lặng bỏ đi. Cha Hùng vừa đẩy xe hành lý, vừa nói: “Thôi, về cha ạ! Xe tới kia rồi”.
Tới chỗ xe, cha Hùng đưa tay giới thiệu: “Đây là cha Long, học trò của cha ngày trước. Còn đây là cha Phán, thầy Tuyên, thầy Hiệp”. Cha bắt tay mọi người thân thiện. Những vui buồn, đẹp xấu buổi đầu hội ngộ đang bùng vỡ trong cha tạo thành một nụ cười hơi héo hắt khiến cha trầm tư hơn.
- Từ đây về nhà còn bao xa?
- Dạ, còn bốn mươi cây số nữa, đi mất khoảng một giờ.
- Con thấy cha không khác trước bao nhiêu, chỉ hơi già hơn, tóc hơi bạc hơn một chút. Mắt vẫn sáng, vẫn nhanh nhẹn như xưa. Cha Long nói.
- Cha thấy Việt Nam bây giờ thế nào? Cha Phán hỏi.
- Khác quá! Khác quá! Mọi sự đều khác. Đẹp cũng có mà xấu cũng nhiều.
- An tượng nhất đối với cha là chuyện gì? Hiệp hỏi.
- Những chiếc áo dài thướt tha trong chiều tím. Kimono thua áo dài Việt nam xa. Và một điều không nên có, đó là an ninh sân bay. Mặt thì đanh như tượng đá. Mắt thì sắc như dao, nhìn cứ như thể sắp ăn tươi, nuốt sống người ta vậy. Những khuôn mắt ấy đang làm méo mó đặc tính hiền lành, tế nhị của dân ta.
Cha còn đang nói thì xe thắng phịch lại, làm cha chúi đầu về phía trước. “Chuyện gì thế?” Cha hỏi.
- Có lẽ tai nạn, cha ạ. Vì ở chỗ này có khi nào kẹt xe đâu. Hiệp nói.
- Đúng rồi, nhưng là tai nạn giả. Tuyên chen vào.
Mắt cha Ngữ trợn tròn, miệng há hốc ngạc nhiên. “Sao lại gọi là tai nạn giả?
- Thưa cha. Cha Hùng giải thích: “Tai nạn giả nghĩa là bọn côn đồ tạo ra tai nạn để ăn cướp”. Thấy cha Ngữ còn ngơ ngác, cha Hùng tiếp: “Tuần trước cũng ở đoạn đường này. Một cô đi chiếc Nouvo mới cáo. Và một anh khác đi chiếc cub 81 xập xệ, phóng tới, quẹt nhẹ vào xe cô ta, rồi làm bộ lăn đùng ra. Cô này vội vã dừng lại, chống xe, không kịp tắt máy, đỡ anh ta lên và một anh khác, đi xe đạp phóng tới, vứt xe đạp, nhảy lên xe cô ta vọt mất”. Cha Ngữ phá ra cười tê tái: “Ai chà! Thủ đọan ghê gớm!
-Có bắt được hắn không?”
- Chắc không, thưa cha. Dù ai cũng biết chúng là đồng bọn, nhưng không có bằng chứng, không bắt được.
Cha Ngữ gật gù: “Như thế gọi là tai nạn giả à!
- Vâng thưa cha.
- Tai nạn mà cũng giả được, hay thật.
- Bắt giả còn hay hơn cha ạ! Cha Long hào hứng nói.
- Bắt giả là làm sao?
- Nghĩa là bắt y như thật vậy: cũng còng tay, xích chân, cũng môtô kèn hụ, cũng đưa vào đồn thật. Nhưng khi những người hiếu kỳ, hay dân chúng không để ý nữa là tháo còng, mở xích để mặc nó tha hồ trốn.
- Sao lại thế nhỉ? Không đưa ra tòa à? Cha Ngữ sững sờ hỏi.
- Đưa ra tòa làm gì, cha. Tốn tiền nuôi nó trong những ngày tạm giam, rồi tiền luật sư, tiền bồi thẩm, chánh thẩm, đủ mọi thứ án phí khác nữa. Nó có bị tù thì nhà nước cũng lại phải nuôi. Mãn hạn tù, nó vẫn chứng nào, tật nấy, có khi còn tệ hơn trước nữa, thì bắt thật làm gì cho mệt, cứ bắt giả như thế để dân khỏi kêu.

Mặt cha Ngữ đuỗn ra, thờ thẫn. “Đã tai nạn giả lại còn bắt giả nữa. Tôi chịu thôi, không thể hiểu được”.
- Thưa cha, cái gì chứ những thứ giả ấy ở Việt Nam đầy. Cha Hùng tê tái nói.
- Thưa cha, bên ấy có hàng nhái không ạ? Tuyên hỏi.
- Có. Cha Ngữ hào hứng kể. “Nhiều lắm. Hầu như phố nào cũng bán. Hàng tốt lắm. Các bình oxy, kính đeo, cả chân ếch nữa… cha có biết lặn đâu mà mặc đồ ấy vào lặn ngon lành lắm”. Cha càng kể, mọi người trong xe càng cười to. Thấy hố, cha hỏi: “Ở đây có thứ hàng nhái khác hả?”
Cha Hùng hích cha Long, nói nhỏ: “Cụ còn nhanh nhạy lắm. Thế này thì còn lâu mới chết”.
- Hàng nhái ở bên này khác, cha ạ. Tuyên trả lời.
- Thế thì cha chịu thôi.
- Hàng nhái ở bên này có nghĩa là, hàng của cha đang bán chạy, người ta làm mẫu mã giống y như thế, tìm một thương hiệu y hệt, chỉ khác một chút thôi, để cũng bán được như hàng của cha, như Seiko đổi thành Senko, Biti’s đổi thành Bisti… chẳng hạn. Khách hàng đâu biết đấy vào đâu, khi biết thì đã hố rồi.
- Ở bên ấy làm vậy không được đâu. Nguời ta kiện cho chỉ có nước sạt nghiệp. Vả lại, con người còn có lương tâm chứ!
- Không biết ở bên ấy thế nào chứ, ở bên này lương tâm không bằng lương tháng. Tuyên nói.
- Sắp tới nhà rồi, cha ạ. Cha Hùng nói.
- Vậy hả? Cha Ngữ hỏi. Cha nhìn vào con đường ngoằn ngoèo trước mặt, đang nhuộm đỏ ánh hoàng hôn. “Không còn gì là dấu vết của ngày xưa nữa cả”, vừa nói, cha vừa lắc đầu.

Cha Hùng chỉ ngôi nhà thờ cổ kính, ánh hoàng hôn đỏ rực vẫn không che khuất được những đám rêu phong loang lổ, nói: “Đây là nhà thờ Long Thuận, cha có còn nhận ra không?
Cha Ngữ lắc đầu, nói: “Vậy thì sắp đến nhà mình rồi
- Vâng chỉ còn vài trăm mét nữa thôi. Mặt cha Ngữ bỗng ửng lên, hai má bừng bừng, trông e thẹn như người đang háo hức, hồi hộp gặp lại người tình sau nhiều năm xa cách.

Đường gồ ghề. Xe lắc lư, dập dềnh. Cha mở mắt thật to, dán chặt vào cây cối bên đường. “Hàng gõ bốn mươi năm nay chắc là lớn lắm rồi! Bán đi cũng được khối của”, cha tự nhủ.
- Ua! Cha buột miệng. “Nhà mình kia rồi, thế hàng gõ đâu?
- Thưa cha, bão quật ngã hết rồi.
Mặt cha Ngữ bệch ra, ngậm ngùi, tiếc nuối. Nỗi cay đắng, nghèn nghẹn trào lên khóe mắt. “Từ hồi tôi bắt đầu ở đây cho tới lúc đi, gần hai mươi năm trời, làm gì có bão đâu. Nếu có thì cũng không thể quật ngã hàng gõ này được. Sở dĩ tôi chọn mua khu đất này là vì hàng gõ”. Cha nói giọng tiếc nuối pha chút đắng cay.
- Vâng, cha nói đúng. Bão thật không thể quật ngã được hàng gõ này, bão này là bão giả ạ. Cha Hùng nói.
- Sao lại bão giả. Cha Ngữ nói, hơi có vẻ mất bình tĩnh.
- Thưa cha. Cha Hùng giải thích. “Cách đây năm năm, khi cả nhà đang ăn tối, thì có thông báo là đêm ấy bão sẽ đổ bộ vào làng. Mọi người không trừ ai đều phải đi sơ tán. Rồi họ đem xe, chở hết cả nhà đi. Họ nhốt hết vào một trường học trên thị trấn, không cho ai ra vào. Không mưa, không gió gì cả, trời chỉ hơi ui ui một chút, xin về, họ không cho. Hai ngày sau trở về, thì hàng gõ chỉ còn lại những cành ngổn ngang, khô héo.
- Như vậy là lừa đảo, là ăn cắp rồi còn gì. Sao mình không kiện. Cha Ngữ bực bội nói.
- Mình có biết ai đâu mà kiện. Vả lại, ở đây có kiện thì cũng chỉ là con kiến kiện củ khoai thôi. Mình đây còn đỡ, các dòng khác còn mất hết cả đất đai, nhà cửa. Nghe đâu nhà thờ Thủ Thiêm và Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm đang bị đe dọa giải tỏa, các bà cương quyết không đi, không biết có trụ lại được không. Cha Hùng kể.
- Nhà của người ta đã có gần hai trăm năm nay rồi, sao lại đuổi người ta đi. Cha Ngữ ngạc nhiên hỏi. “Muốn xây đô thị, xây chỗ nào chẳng được, đất còn thiếu gì. Sao bất nhân thế!
- Nghe đâu họ bán cho nước ngoài.
- Sao lại lấy đất của dân mình mà bán cho nước ngoài? Khi còn ở bên ấy, cha đã nghe nhiều chuyện như thế, cha không tin. Bởi không thể tưởng tượng, ai lại có thể trơ trẽn như thế được. Bây giờ được mắt thấy, tai nghe, cha vẫn chưa dám tin, vẫn cứ ngờ ngợ làm sao ấy.
- Cha ơi, tới nhà rồi. Cha xuống đi bộ cho khỏe.

Bước vào Đan Viện Thiên An, cha có cảm giác vừa quen, vừa lạ. Trong các bồn, cỏ xơ xác, chỉ còn lơ thơ vài cọng mảnh mai, luồn bên dưới những cọng khô quắt, chiếc còn, chiếc gãy trông nham nhở. Cây cối trật tự, lớp lang nhưng gốc nào gốc nấy bầy hầy như một bãi rác. Đường lát gạch tàu cáu bẩn, trông hệt như đường đất. Phía bên trái là một biệt thự sừng sững, nguy nga, ánh chiều tàn vẫn không thể che khuất vẻ huy hoàng của nó.
- Đây là nhà gì? Cha Ngữ hỏi.
- Thưa cha, trước đây là nhà kho và chuồng heo. Còn bây giờ là nhà ở của anh em. Cha Hùng giải thích.
- Oi! Sang trọng quá! Cha Ngữ trầm trồ giọng pha chút mỉa mai. “Đẹp hơn nhiều.”
- Thưa cha, tiền cha gửi về đấy ạ. Chứ ở nhà làm gì có tiền mà xây… Cha có tạt qua một chút không?
- Thôi, vào đấy không khéo ta lại đánh mất căn tính của ta thì khốn. Cha nói giọng bôi bác.
Cha Ngữ lững thững đi. Mọi người lẽo đẽo theo. Trời chiều. Muỗi thỉnh thoảng vo ve. Các chú dơi con lượn lờ qua lại. Con Tumi đang cuộn tròn mình trước nhà nguyện, nghe tiếng bước chân, ngóc đầu lên, thấy người lạ, sủa bâng quơ vài tiếng, rồi uể oải đứng dậy, rón rén bước tới gần cha Ngữ, hếch mũi ngửi.
- Thưa cha. Đây là nhà nguyện ạ. Vừa nói, cha Hùng vừa chỉ. Cha Ngữ bỏ nón xuống, bước vào, quì gối, cầu nguyện hồi lâu.
- Nhà nguyện này xây lại hồi nào? Cha hỏi
- Thưa cha, nhà nguyện cũ, con chỉ cho cơi mái lên, và trang trí lại một chút thôi.
- Ngày xưa cột sắt, tường gạch, mái tôn, còn bây giờ mọi thứ toàn bê tông cả mà! Cha Ngữ nhìn thẳng vào mặt cha Hùng nói, giọng ngạc nhiên.
- Thưa không ạ. Bêtông giả ạ. Mọi thứ đều giả. Vừa nói, cha Hùng vừa gõ vào cây cột trước mặt. “Tòan ván ép không thôi, cha ạ”.
- Ô lạ nhỉ! Trông, tôi lại cứ tưởng là bê tông cơ chứ.
- Con sửa lại thế cho đồng bộ với những ngôi nhà mới xây sau này.

Bước ra gần tới cửa, đụng phải một cây cột, cha Ngữ đưa tay gõ. Tiếng lóc cóc vang lên. Cửa nhà nguyện hé mở. Cha đẩy cửa bước ra, bần thần như người vừa rơi vào cõi hoang mang. Con Tumi rụt rè bước theo, vừa muốn làm quen, vừa như canh chừng, cảnh giác. Mọi sự như đang chìm dần vào tăm tối. Côn trùng bắt đầu rên rỉ. Tiếng dế kêu reng réc. Lá ngả màu đen xậm. Xa xa, bên hàng rào dâm bụt, đom đóm vài con lập lòe. “Ơ, đom đóm kìa”. Cha Ngữ reo lên. “Mấy chục năm nay rồi, hôm nay mới lại được thấy”.

- Ở bên đó không có à, cha?
- Không, chẳng ở đâu có cả. Hồi còn bé, cha bắt có khi cả lọ, để trong phòng thay đèn ngủ. Bây giờ chắc không còn nhiều như vậy đâu.
- Dạ, còn ạ. Tuyên kể: “Ở nghĩa trang nhà mình nhiều lắm, bám đầy các cây dành dành trụi lá, lập lòe, chớp tắt, y như các cây Noel vậy. Mùa này ít, mua mưa mới nhiều. Đom đóm, côn trùng làm cho màn đêm thêm rùng rợn, ma quái. Tuyên rùng mình, nhột nhạt như thể đang tiếp xúc với những người thuộc cõi âm. Mặt tái đi, nhợt nhạt.
- Con sợ à? Mặt tái đi rồi kìa. Vừa nói cha Ngữ vừa cười trêu chọc.
- Con sợ người chết lắm. Thỉnh thoảng đi ngang qua nghĩa trang giáo xứ ban đêm, lần nào con cũng nghe những tiếng rên, tiếng hét, sợ lắm. Vừa nói Tuyên vừa lắc đầu, lè lưỡi.
- Nhưng đó có phải là tiếng thật hay tiếng giả, tiếng nhái. Cha Ngữ cười hóm hỉnh.
- Thưa cha, gần tới giờ cơm rồi, mời cha về phòng tắm rửa rồi dùng cơm với cộng đoàn luôn. Cha Hùng nói.
- Về phòng thì về, nhưng dùng cơm thì không, vì tôi vẫn còn no.
- Vâng, vậy tùy cha.

Đi ngang qua ngọn đồi nhỏ hiện chỉ còn loang loáng các đốm mờ trong vùng tối, cha Long hỏi: “Cha có còn nhớ chỗ này không?
Cha Ngữ nheo mắt, gật đầu nói: “Còn, núi đức mẹ sầu bi. Tượng bằng cẩm thạch đỏ, thánh giá bằng bạc, nặng 50 kg, cha đặt ít hôm trước khi sang Thụy Sĩ. Có còn nguyên như xưa không?”

Nghe tiếng động, con chim lợn đang ngủ trên cành, thức giấc, đập cánh phành phạch, bay vút đi, miệng kêu eng éc. Các loài chim khác cũng vỗ cánh bay theo. Chỉ còn lũ chim sâu, nhảy hết cành này sang cành khác, miệng liên hồi chiêm chiếp.
- Phòng cha đây ạ. Cha Hùng nói. “Cha có nhớ chỗ này là chỗ nào không?
- Có. Tôi ở đây từ đầu cho tới lúc đi. Đầu tiên, lúc mới di cư vào, đây chỉ là một dẫy nhà lá, vách tre, nền đất. Rồi sau đó là nhà tôn, tường gạch xi măng, nền gạch tàu. Tôi chọn chỗ này vì gần nghĩa trang, để dễ hướng về cái chết, gần núi Đức Mẹ Sầu Bi, để xin Đức Mẹ bồng bế tôi khi chết, như mẹ đang bồng Chúa Giêsu…. Vậy là sau bốn mươi năm, ta lại được trở về nhà ta. Mặt cha toát lên niềm mãn nguyện.
- Tới giờ cơm rồi, xin phép cha. Thầy Tuyên sẽ ở lại với cha. Cha cần gì, cứ bảo thầy ấy.
- Cám ơn quí cha. Chúc ăn khỏe để có sức phụng thờ Thiên Chúa.

Bước vào phòng, thấy hoa phong lan các loại trưng đầy phòng, cha ngạc nhiên hỏi: “Hoa ở đâu mà nhiều thế?”
- Người ta cho đấy cha ạ.
- Ở đây, người ta trồng được loại này à?
- Thưa, người ta không trồng mà làm ạ. Thấy cha còn ngơ ngác, Tuyên giải thích: “Trồng thì phải chăm bón, mà chỉ nở được một lần, bền lắm là được một tháng. Còn làm thì cũng chỉ nở một lần, nhưng hết thế hệ này đến thế hệ kia vẫn còn nở.
- Họ làm bằng gì?
- Con chẳng biết. Tuyên chỉ cây lan hai màu trên bàn, nói: “Cây này làm bằng đất, cha ạ”.
- Thật không? Bằng đất à? Khéo nhỉ, trông y như thật vậy.
- Cha có thích không?
- Cha rất thích hoa, nhất là loại hoa này nhưng đây có phải là hoa đâu, chỉ là những miếng nylon và đất sét mang hình hoa thôi. Nếu đây là hoa thật thì còn gì bằng. Vì ta không mất công chăm bón, nên ta cũng không có được niềm vui được thấy hoa nở. Được thấy cây kết nụ, rồi nụ hé thành hoa, tuyệt lắm Tuyên ạ. Đúng là một kỳ công của Thiên Chúa. Hoa nở ta vui, hoa tàn cũng để lại trong lòng ta một niềm luyến tiếc. Thế mới là hoa chứ lị!
- Vậy cha có muốn giữlại những bình hoa này không?
- Để lại cũng được mà ném đi cũng chẳng sao. Cha thích một cái gì là thật cơ, dù đó chỉ là một đóa mười giờ xoàng xĩnh.
- Ở bên ấy có đồ giả không, cha?
- Có chứ! Nhưng những thứ giả này không phải để trang trí, làm đẹp mà để phục vụ cho sự sống con người, như răng giả, chân giả, tay giả, tim giả, xương sống giả… mắt giả để người ta khỏi mặc cảm.
- Ở Việt Nam những thứ giả ấy cũng có, mà còn có cả mũi giả, cằm giả, ngực giả, lúm đồng tiền giả, mụn ruồi giả nữa cơ cha ạ.
- Con đi ăn cơm đi, cần gì cha sẽ gọi. Cám ơn con nhiều.

Hôm ấy tại bàn ăn, cha Hùng nhỏ nhẹ. “Hình như cụ không hài lòng lắm thì phải”.
- Tôi đã bảo rồi, không nên đưa cụ về. Bây giờ cụ đã về rồi, đẩy đi thế nào được nữa. Cha Hòa sừng sộ.
- Cụ không hài lòng là vì ta đã đánh mất căn tính đời đan tu của ta. Cha Phán nhìn thẳng vào mặt cha Hòa nói. “Nhà cửa sang trọng quá, làm mất đi tính lữ hành của đời tu và của Hội Thánh, tạo nên hố ngăn cách giữa ta với người nghèo. Bêtông giả trong nhà nguyện, ta bảo để đồng bộ với khu nhà mới, trước mắt cụ và trước mắt nhiều người đã lột mất tính chân thật của đời ta. Nhiều năm nay, ta đã luồn lách, bảo rằng để sống còn, nhưng ta đâu có ngờ là chính sự luồn lách ấy đã phá vỡ tính đơn sơ của chim bồ câu nơi ta. Ta đang đánh mất chính mình, đang bị xã hội bên ngoài đồng hóa, biến ta thành gian dối, huênh hoang, vênh váo như nó. Các cuộc họp của ta không phải là lúc ta chiêm ngắm Chúa Giêsu để điều chỉnh cuộc đời ta cho phù hợp với Người mà chỉ là những lúc ta tâng bốc nhau, khoe thành tích với nhau. Người này, người kia có thành tích, ta không có không được, nên cũng phịa đại ra một thành tích nào đó cho có với người ta. Ta thành gian dối. Nếu không dẹp bỏ ngay tình trạng chạy theo thành tích này, thì một ngày nào đó, Chúa Giêsu chỉ còn là một bình phong để ta che đậy những mưu đồ của ta thôi. Chúa sẽ mất chỗ đứng ngay trong nhà của Người và trong lòng của những kẻ thuộc về Người.
- Cụ mới về làm sao cụ biết được chuyện ấy? Cha Hòa cự lại.
- Cụ chưa biết rõ nhưng cụ đã đánh hơi thấy. Một đan viện đúng nghĩa thì chỉ cần nhìn vào bên ngoài thôi cũng có thể thấy ngay. Là đan sĩ mà cứ thoáng cái lại xách xe chạy rông bên ngoài, ai mà chẳng thấy. Mà xe nào có phải là loại xoàng. Mấy chiếc cub 81 còn tốt vẫn cứ để mốc meo không ai đụng tới.

Ai cũng chỉ muốn chạy tay ga. Bề trên nào mua xe ấy phải chịu trách nhiệm trước Thiên Chúa và lịch sử. Cha Phán giận dữ nói.
- Cha Phán ạ. Cha nói tới trách nhiệm nghe mà xấu hổ. Cha Long nói. “Thiên Chúa người ta còn chẳng coi ra gì, thì nói tới trách nhiệm làm gì cơ chứ. Nếu người ta chỉ để ý một chút tới Thiên Chúa thôi, thì ta đâu đến nỗi này. Thiên Chúa bây giờ là một thứ xa xỉ, nếu không muốn nói là một công cụ trong tay người ta.
- Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng. Cha Hùng nói, giọng tê tái: “Vì tôi kiêu căng quá. An không nói có, có một nói hai. Chỉ có bằng thạc sĩ mà đi đâu cũng khoe mình là tiến sĩ”. Cha ngưng lại một chút, mặt đượm vẻ xót xa, tiếp: “Tôi sai lầm, cứ nghĩ rằng được bầu làm viện phụ, tôi phải hơn anh em một cái đầu. Nên tôi ôm hết mọi sự, chuyện gì cũng xía vào. Tôi loại trừ những anh em có khả năng hơn mình, sử dụng những anh em dưới cơ để dễ bề thao túng. Vô tình tôi đã tạo ra cả một thế đối lập. Không dám đụng những người ấy, tôi thị uy trên anh em trẻ, nạt nộ, quát tháo. Những anh em có chức nhỏ cũng làm y như thế. Tôi bất lực nhìn đan viện rã ra thành từng mảng. Đáng lẽ tôi phải từ chức để cứu vãn đan viện, nhưng tôi lại không có can đảm. Loại Thiên Chúa đi rồi, tôi chênh vênh như người không có điểm tựa. Tôi tìm mọi cách xuất hiện ở những nơi công cộng để củng cố chỗ đứng của tôi, nhưng tôi chỉ thấy ngả nghiêng hơn. Tôi không còn được ai nâng đỡ, vì những cột chống đỡ, tôi đã chặt gẫy từ lâu. Cụ Ngữ có thể là người chống đỡ tôi, hy vọng khi cụ về, cụ sẽ giúp tôi tìm lại Thiên Chúa, và chính bản thân tôi. Xin anh em cầu nguyện cho tôi…”. Cha Hùng còn đang nói, thì cha Hòa mặt đỏ lên, sừng sộ:
- Này viện phụ. Cụ đang nói về ai đấy? Đừng đấm ngực mình mà giật cùi chỏ vào mặt tôi chứ! Có chửi thì cứ chửi thẳng, đừng chửi xéo như thế.
- Anh Hòa này tức cười thật. Cha Long nói. “Nếu viện phụ nói mà có đụng đến ta, thì ta cũng phải sám hối. Mọi người đều có thời để sa ngã và có thời để sám hối mà”.
- Anh Hòa, bình tĩnh lại nào! Cha Hùng nhỏ nhẹ. “Anh cùng lớp với tôi. Anh biết tôi từ bé. Có bao giờ tôi nói xéo ai đâu. Thú thật với anh là, tất cả những gì vừa nói, đều là những điều tôi đang sám hối thật. Thượng bất chính, hạ tắc loạn. Thượng công chính như viện phụ Oanh kia, mà hạ còn loạn nữa, huống hồ, tôi chỉ là một kẻ vô tài, bất lực.”
- Có lẽ đã đến lúc ta phải trở về với sự thật rồi. Cha Phán nói, mặt hằn lên nỗi đớn đau. “Chỉ vì không sống thật, không nói thật, ta đã phá vỡ đi nền tảng của mọi mối tương quan, của mọi tình huynh đệ. Chỉ vì đã nhiều lần không nói thật mà hôm nay lời thú tội của cha Hùng đã bị cha Hòa cho là một lời chửi xéo, một cú giật cùi chỏ. Ngay cả tôi cũng có cảm giác như thế”. Ngưng lại một chút, cha Phán tiếp, giọng buồn bã như một lời tự thú: “Xin lỗi viện phụ. Tôi thú thật với viện phụ là tất cả những gì trước kia viện phụ nói, tôi đều không tin. Viện phụ bảo viện phụ gặp đại sứ này, đại sứ khác, bàn bạc với viện phụ Pháp này, viện phụ Canada khác, đi dự hội nghị quốc tế này, hội nghị quốc tế khác, tôi đều không tin. Đến như cụ Ngữ ở ngoại quốc bao nhiêu năm, đi hội nghị quốc tế cụ bảo, chỉ nắm bắt được tám mươi phần trăm những gì đang bàn thảo. Trình độ ngọai ngữ của viện phụ không đủ để đi các hội nghị quốc tế. Dù ngoại quốc có tới dạy viện phụ hằng ngày đi nữa, thì viện phụ cũng không có đủ từ ngữ cơ mà! Vì vậy, khi khoe mẽ, viện phụ có nói được một chút nào nội dung các cuộc họp đâu… Tôi không tin viện phụ, anh em trẻ cũng không tin. Không tin nhau mà người nói vẫn cứ phải nói, người nghe vẫn cứ phải nghe, nên mỗi lần viện phụ lên tiếng là mỗi lần ta lại tra tấn nhau, ghét bỏ, khinh miệt nhau. Vì người nói không thật, người nghe cũng không nghe thật. Thủ phạm của thảm họa này chính là vì ta đã gian dối, đã không thật với nhau. Hôm nay viện phụ đã biết chấp nhận những giới hạn của mình, nên tôi thấy tôi cũng bắt đầu có thể chấp nhận viện phụ. Cầu mong cho mọi người biết bắt đầu lại từ hôm nay”. Cha Phán thở dài nhẹ nhõm như vừa quăng được gánh nặng đã nhiều năm chồng chất trên vai.

Chuông nhà thờ đổ chậm. Chó lại châu đầu tru tréo. Trước mặt mọi người là nồi niêu, chén bát, cái còn, cái hết. Nồi canh rau lỏng chỏng, nước đã đóng thành váng. Những vết mắm trên chén, bát loang lổ, bết lại thành những vệt nâu đỏ. Bên ngoài, ánh trăng nhạt nhòa, không đủ sức xuyên thủng những cành cây, kẽ lá. Không gian chìm sâu trong tĩnh mịch, chỉ còn lại những bước chân chậm rãi tiến vào nhà thờ cho giờ kinh đêm.

Suốt đêm ấy, cụ Ngữ không sao nhắm mắt được. Mọi sự cụ chứng kiến chỉ trong ngày đầu tiên về Việt Nam, cứ như những đợt sóng bạc đầu mùa gió chướng, quất túi bụi lên đời đan tu vốn trầm lặng của cụ. “Tai nạn giả, bắt giả, nhà giả, hoa giả, mũi giả, ngực giả… trước đây đâu có thế.” Cụ nheo mắt tự nhủ. “Mà nếu có, thì cũng không bao giờ xảy ra trong đan viện, nơi các đan sĩ được.” Cụ lại trầm tư. Bên ngoài, mọi sự đã chìm sâu trong cô tịch như nghĩa trang đêm. Thỉnh thoảng mới nghe tiếng chó mèo xục xạo. Con cú ăn đêm cứ đều đều nhả ra những tiếng u buồn não nuột. Cụ vẫn ngồi đờ đẫn. Muỗi vẫn vo ve. “Nhà nguyện bê tông giả cho đồng bộ với các khu nhà mới”. Cụ lắc đầu nguây nguẩy. “Một điều chưa từng xảy ra trong tu viện. Ngay đến cả nhà nguyện mà người ta còn giả dối đến thế, thì còn gì mà họ không giả được! Giới tu sĩ Việt Nam chả lẽ lại xuống cấp nhanh chóng đến thế sao? Nếu còn tin vào Thiên Chúa, người ta không thể tuột dốc không phanh như thế được. Chả lẽ Thiên Chúa không còn chỗ trong lòng người ta nữa rồi sao?” Rồi cụ gật gù. “Có lẽ đúng thế thật. Hèn chi chiều nay Tuyên bảo, ở đây lương tâm không bằng lương tháng. Vậy là Thiên Chúa không bằng tiền bạc. Và khi đồng tiền lên ngôi chúa, thì sẽ không còn Hội Thánh, không còn tu viện, không còn những con người biết được ý nghĩa và cùng đích của đời mình nữa. Mọi nấc thang giá trị sẽ bị đảo lộn hết, sẽ không còn đồng nghiệp mà chỉ còn đối thủ, không còn anh em mà chỉ còn những kẻ gây phiền toái”. Mặt cụ đanh lại. Đêm tối càng thêm tối. Côn trùng vẫn rên rỉ. Gió trên cành xáo xác. Cụ có cảm giác như người vừa rơi xuống vực sâu không đáy.

Cả tháng nay, kể từ hôm về, cha Ngữ không đi đâu, cứ quẩn quanh trong nhà. Sáng nào cụ cũng lủi thủi một mình, quét dọn, lau rửa đường vào nhà nguyện. Các viên gạch tàu sáng bóng, ánh lên một màu nâu đỏ. Các bồn cỏ mượt mà, mơn mởn. Các gốc cây không còn nhếch nhác như xưa. Thấy cụ làm, anh em trẻ cũng nhập bọn làm theo. Vừa làm, cụ vừa kể cho anh em truyền thống đời đan tu. Chen lẫn với những tiếng chổi loét quét, tiếng xô chậu loảng xoảng, tiếng đào bới loạt xoạt, thỉnh thoảng lại vang lên những tiếng cười dòn dã. Nụ cười luôn rạng rỡ trên những khuôn mặt mồ hôi nhễ nhãi. Lâu lắm rồi Đan Viện Thiên Ân mới có được bầu khí ân sủng này. Cha Hòa lúc đầu thấy cha Ngữ làm, nhếch mép cười khinh khỉnh, bây giờ thỉnh thoảng cũng có mặt. Nụ cười hiếm hoi đang đẩy dần những nét nhăn căng thẳng, bất mãn, trông cha bình thản, thanh thoát hơn. Cha Hùng ít huênh hoang, khoe mẽ, bắt đầu để ý tới anh em hơn. Mọi người như đang tìm thấy đan viện là nhà, và những người đang cùng mình chung sống là anh em, nên ít nhìn nhau bằng ánh mắt nghi kỵ, cạnh tranh hơn.

Một sáng nọ, khi đã làm xong mọi sự, một anh em băn khoăn hỏi: “Hôm nay mình làm hết mọi sự rồi, ngày mai làm gì nữa, thưa cha?”.

- Còn khối việc phải làm.
- Mai ra nghĩa trang đi, cha. Tuyên đề nghị. Cha Ngữ bình tĩnh giải thích: “Ta vừa mới khai hoang xong, còn phải bảo trì nữa. Từ nay anh em phải tỉnh táo, cỏ lụa là cỏ thật, còn mọi thứ cỏ khác, kể cả những cây hoa chen vào cỏ không đúng chỗ đều phải nhổ tận gốc. Đó là cỏ dại hay cỏ “giả”, nếu không chỉ một thời gian ngắn thôi, ta sẽ chỉ còn bồn thật, cỏ giả. Các gốc cây cũng vậy, thấy lá, hay giấy, rác là phải lượm đi ngay, nếu không chẳng mấy chốc gốc cây sẽ thành bãi rác. Trước đây vì không để ý, ta đã đánh mất vẻ mỹ quan của đan viện. Cây cối nhiều, toàn cây già, bóng cả, mà không ai dám bước vào che nắng, vì nhơ nhớp quá. Đời đan tu của ta cũng vậy đấy, không tỉnh thức, thì những cái bên ngoài sẽ lẻn vào, phá vỡ vẻ đẹp của đời ta ngay. - Xét về cơ sở vật chất thì không bằng Việt Nam. Họ ở đơn sơ lắm. Tường chỉ quét xi măng, không quét vôi, ốp đá. Nhưng xét về đời tu thì họ hơn ta xa, dù số đan sĩ không bằng ta và chẳng đâu bằng Việt nam. Họ biết cái gì là chính, cái gì là phụ. Cái gì thật, cái gì giả. Cái gì không thật, họ dứt khoát loại trừ bằng mọi giá. Cái gì họ nói có là có, không là không, một là một, hai là hai. Nên mối tương quan trong cộng đoàn không hề có một gợn mây nghi kỵ, sống thích lắm.
- Thanh niên Nhật thì sao, thưa cha?
- Thanh niên Nhật thì lại khác hẳn. Họ không biết mình là ai, nên không biết cái gì là tốt, cái gì xấu. Họ sống hời hợt, bỏ mặc cuộc đời trôi theo những xu hướng của thời đại. Họ không có chiều sâu, không dám im lặng. Vì im lặng, họ phải đối diện với mình mà mình có gì đâu mà đối với lại diện, chính vì thế, về tới nhà là họ mở tivi, bật cassette, không nghe cũng bật. Họ cần tiếng động. Nhưng tiếng động bên ngoài không thể lấp đầy khoảng trống bên trong, đụng chuyện là họ như mắc vào ổ nhền nhện, không tìm được lối thoát, nếu không thì lại có cảm giác như rơi vào vực thẳm, nên tuyệt vọng, tự tử. Họ tự tử nhiều kinh khủng, toàn vì những chuyện không đâu: thi rớt, bồ bỏ, bạn chửi, thất nghiệp…
- Hội Thánh không cứu vãn được tình trạng ấy à, thưa cha?
- Được chứ! Nhưng họ có cần Hội Thánh đâu. Hội Thánh là nơi nói cho ta biết ta là ai, phải không nào? Ta là hình ảnh, là tác phẩm, là người tình, là con Thiên Chúa và là thân mình của Đức Kitô. Đó là phẩm giá cao cả nhất và cũng là căn tính của ta. Đánh mất căn tính này, ta sẽ thấy đời mình vô nghĩa ngay. Ta sẽ bỏ mồi bắt bóng, sẽ chạy theo đủ mọi thứ giả, khi nắm được những thứ ấy rồi, mới thấy mình hớ nhưng đã muộn.

Trời đã xế trưa mà mặt trời mùa Đông như vẫn còn ngái ngủ. Từng tia nắng yếu ớt, hờ hững phả nhẹ lên những tàn cây còn ướt sũng đang cần sưởi ấm. Sương đêm vẫn đọng thành giọt trên các lá cây, ngọn cỏ. Cha Ngữ nhìn những khuôn mặt trẻ trung, mồ hôi bết tóc, bằng ánh mắt thân thương, trìu mến: “Thôi nghỉ, chiều làm tiếp nhé!”.
- Thưa cha. Tuyên nói. “Chiều nay cha đi kiểm tra dự án gì đó ở Dòng Con Đức Mẹ Sầu Bi mà!
- Ừ nhỉ. Cha quên mất. Chiều nay ai chở cha đi đấy?
- Thưa con ạ. Tuyên nói.
- Mai mốt cha đi một mình cho khỏe, khỏi phiền tụi con nữa.
- Cha còn chạy được xe không? Hà hỏi.
- Được chứ! Bên ấy cha vẫn lái xe 250 phân khối đi nông trại mà!
- Vậy thì tốt rồi, không có vấn đề. Thành nói.
- Nhưng ở Việt Nam, đi xe phân khối lớn phải có bằng.
- Vậy hả? Cha Ngữ hỏi. Học bằng lái xe môtô ở đây có khó lắm không?
- Cha khỏi phải học, chỉ cần đưa tên tuổi, hình ảnh cho họ, một tuần sau là người ta đem bằng tới tận nhà. Tuyên nói, vẻ rất sành sõi.
- Không phải thi à? Cha Ngữ hỏi.
- Không cha ạ. Học giả, thi giả mà bằng thật mới hay chứ!
- Thế thì thôi. Cha chẳng chơi với những thứ giả ấy đâu. Quê lắm.
- Đấy là chuyện nhỏ, cha ạ. Người ta còn học giả mà bằng tiến sĩ thật nữa cơ!
- Lấy luận án đâu ra mà bảo vệ?
- Chuyện nhỏ, cha ạ. Vào văn khố nhà trường lấy bừa một luận án của ai đó, về nhà sửa tên, đổi đề tài, rồi bảo vệ. Ai biết đấy vào đâu. Vả lại giám khảo phe ta mà! Thỉnh thoảng có người cũng bị phát hiện, bị báo chí phanh phui nhưng ai dám thu hồi bằng của họ nào? Gốc họ bự hơn cả gốc gõ nhà ta nữa kìa.
- Vậy thì còn gì là trí thức nữa. Giới trí thức đòi hỏi sự liêm chính cao lắm. Trích dẫn của ai, phải nói rõ, không nói, bị phát hiện, coi như rớt.
- Con thấy ở Việt Nam ta chẳng có liêm chính, sự thật hay công bằng gì đâu, cha ạ. Thủy chau mày nói. “Các nhà sách Công Giáo lớn ở ta, bán đầy các sách photo của người ta, trong đó có cả sách luân lý nữa, bán tự nhiên y như bản quyền là của mình vậy”
- Thế thì còn gì là luân lý nữa, và còn gì là lương tâm Công Giáo nữa! Cha Ngữ thảng thốt.
- Vậy còn nhẹ đó, cha ạ. Bằng kể: “Năm vừa rồi, một cha Dòng Chúa Cứu Thế, dạy luân lý cho lớp thần học hè của các nữ tu, mang giáo trình đến, bán giá hữu nghị giảm hơn 20% so với giá bìa. Vậy mà một số nữ tu lấy sách ấy đi photo, hiên ngang sử dụng như không có chuyện gì xảy ra vậy.
- Bảo gì nữa mà bảo, thưa cha. Bằng tiếp: “Còn một cha nữa, đi dạy phụng vụ ở một nơi xa lắm, khệ nệ bê hai thùng sách giáo trình. Tới nơi, không một sinh viên nào mua. Ngài hỏi, họ bảo họ đã photo cho mỗi người một quyển rồi. Tội nghiệp, vác đi lại khệ nệ khuân về”.
- Buồn nhỉ! Cha Ngữ thẫn thờ nói. Mắt xa vắng. Mặt trầm tư, bệch bạc. Trời bỗng tối sầm lại. Gió hây hây lạnh.
- Trời sắp mưa rồi, cha ạ!
- Mùa này làm gì có mưa. Thủy nói.
- Bây giờ lúc nào mà chẳng mưa được. Mồng một tết, còn mưa được cơ mà.
- Mưa thật hả? Cha Ngữ hỏi. “Vậy thôi, nghỉ nhá. Tụi con nhớ để ý, cái gì giả thì phải nhổ cho bằng sạch nhá! Đau cũng phải nhổ. Chỉ có thế ta mới có được vẻ mỹ quan của đời đan tu.
- Nếu nó mọc ở chỗ không nhổ được thì sao, thưa cha? Minh trăn trở nói.
- Có không?
- Dạ có! Cả bọn đồng thanh đáp.
- Nó mọc ở cao lắm, ở tận trên nóc nhà ấy. Thủy nói, giọng chanh chua. “Tụi con ai cũng thấy. Nó trơ trẽn làm sao ấy mà chẳng hiểu sao chỗ ấy không biết ngượng. Tất cả những thứ giả tụi con vừa nói với cha đều mọc hết ở đó. Có cái còn hở hang đến độ cả nước này biết. Vậy thì phải làm sao, hả cha? Thủy vốn hiền lành, ít nói, chẳng hiểu sao hôm nay lại nói nhiều như thế. Giọng the thé, chua ngoa, như con gái, nghe đến lạnh cả xương sống.
- Cái này thì phải quì gối nhổ, con ạ! Cha Ngữ nói.
- Nó mọc cao thế, quì gối sao nhổ được, thưa cha?
- Nó càng cao, càng phải quì gối xuống. Từ mai, ai đồng ý quì gối nhổ cỏ với cha nào, giơ tay lên.
- Tốt. Sau giờ cơm tối có mặt trong nhà nguyện nhá!

Hai giờ rưỡi chiều. Trời vẫn ủ ê. Gió thổi nhẹ. Mưa thưa thớt, lất phất theo chiều gió. Sân chỗ ướt, chỗ khô loang lổ. Cỏ giả bị nhổ chất thành đống, thấy mưa, như đang cố ngóc đầu, vươn dậy. Cửa phòng cha Ngữ vẫn đóng im ỉm. “Không hiểu cụ có sao không mà tới giờ hẹn vẫn chưa thấy mở cửa”. Tuyên bối rối, tự hỏi, rồi đưa tay gõ lóc cóc.
- Con tới chở cha đi đấy ạ. Hai giờ rưỡi rồi.
Cha Ngữ mở cửa ra. “Mưa hả?” Cha ngơ ngác.
- Hèn chi cha thấy người khó chịu. Con điện thoại cho họ báo là ngày mai phái đoàn kiểm tra mới tới nhá. Số điện thoại đây.
- Vâng, thưa cha. Con cám ơn cha.
- Cám ơn con.
- Mai mấy giờ, cha?
- Bảy giờ. Đi sớm chút cho mát.

Ra khỏi đan viện, vừa rẽ ra đường lớn, cha Ngữ bỗng vỗ vai Tuyên: “Chầm chậm lại, con!
- Có chuyện gì, thưa cha?
- Có cái gì giông giống như tiền đô ai làm rơi ấy.
- Không phải đâu, cha. Tiền giả đấy. Tiền âm phủ ấy mà. Một ngàn đồng Việt Nam đổi được cả mấy trăm ngàn đô ấy.
- Am phủ Việt Nam cũng biết xài tiền đô cơ à. Tiến bộ nhỉ. Cha Ngữ cười hóm hỉnh.
- Gần đây, có nghĩa trang của người Hoa, nên tiền này nhiều lắm. Con nghe người ta bảo đấy là tiền mãi lộ. Chẳng biết có mãi được gì không, chỉ thấy vãi tung tóe ra đường. Nói ra không được, vì đụng tới tín ngưỡng của người ta. Ở bên Nhật có vậy không, cha?
- Cha nghe nói trươc đây cũng có, sau chính phủ cấm. Bây giờ đường xá của người ta sạch sẽ lắm.
- Còn ở bên ta thì hết tiền âm phủ lại tới những tờ rơi quảng cáo, rồi rác rến bừa bãi. Không biết bao giờ dân ta mới khá được… Đó là chưa kể họ còn nuôi heo ngay trong thành phố. Dòng Con Đức Mẹ Sầu Bi, lúc nào cũng ngột ngạt mùi heo. Vì bên cạnh họ là trại heo giống cấp I. Còn Dòng Biển Đức Nữ, Dòng Đức Bà Truyền Giáo ở Thủ Đức, đêm nào cũng bị nhà văn hóa tra tấn. Nhạc xập xình suốt đêm, mở Volume hết cỡ. Con không hiểu người ta có biết thế nào là văn hóa không.
- Sao họ không kiện?
- Kiện ai bây giờ. Có kiện thì chỉ kiện lên tới quận mà nhà văn hóa lại do quận quản lý, thì còn kiện làm gì, vô ích…
- Không phải là văn hóa giả mà là phản văn hóa, phi văn hóa…. Ơ coi kìa, Tuyên, cha Ngữ gọi: “Sao có mấy người cứ dứng úp mặt vào tường làm gì thế? Họ bị phạt à?
- Thưa không, họ tiểu đấy.
- Thế à. Lạ nhỉ. Sao lại ra đường mà tiểu thế không biết.
Ngày xưa khi cha mới chịu chức, các cha không được tiểu ở nơi công cộng, phải tiểu vào bình, rồi đem đi đổ.
- Còn bây giờ, Tuyên chép miệng. Con đường Tú Xương có hai dòng nữ, Saint Paul và Nữ Tử Bác Ai, từ lâu đã trở thành một nhà tiểu công cộng vĩ đại, dài cả hơn trăm mét, lúc nào cũng nồng nặc mùi khai. Ngày nào các chị Saint Paul cũng phải xả nước mà vẫn không tẩy được mùi. Hiện đã có nhà vệ sinh công cộng bên cạnh, không biết có đỡ hơn không.
- Sắp tới chưa, con?
- Được hơn nửa đường rồi.
Trời vẫn ủ ê. Gió hây hây lạnh. Trời không mưa nhưng ẩm thấp. Phố xá bụi mịt mù. Đi đường, nữ giới chẳng mấy ai mà không bịt mồm, bịt mặt, chỉ trừ hai con mắt.
- Ua! Sao Việt Nam kỳ này nhiều người theo Hồi Giáo thế?
- Ai ạ! Thưa cha?

Cha Ngữ chỉ những phụ nữ bịt mặt, nói: “Kia kìa”.
Tuyên phì cười, nói: “Thưa cha, đó là Hồi Giáo “giả” ạ.
- Sao lại giả?
- Tại bụi quá, người ta bịt mặt chứ không phải là Hồi Giáo ạ!
- À, thì ra thế, trông y như Hồi Giáo vậy.
Đi được một quãng, cha Ngữ lại vỗ vai Tuyên: “Chầm chậm lại, con nhìn ba ông sư trước mặt kìa. Con thấy chưa?
- Dạ, con thấy rồi ạ.
- Sư này chắc chắn là sư giả.
- Cha cũng nhận ra à?
- Nhà sư thật không bao giờ đi như đi chợ, mắt láo liên, đảo điên như thế kia cả. Nhà sư thật đi khất thực có kiểu, nhìn vào là biết ngay. Mắt lúc nào cũng đăm đăm nhìn về phía trước. Im lặng một lát, cha hỏi: “Người ta làm sư giả làm gì không biết?
- Để không phải làm mà vẫn có ăn, có khi lại còn ăn ngon nữa là khác. Việt Nam mình tuy nghèo nhưng rộng rãi với các nhà tu hành lắm cha ạ, cả lương lẫn giáo.
- Vậy hả?
- Cha ơi, sắp tới rồi đấy!

Tuyên rẽ vào một con hẻm rộng chừng tám mét. Ngay đầu hẻm, người ta treo một tấm bảng lớn bắt ngang hết cả hẻm, với hàng chữ: Trại heo giống cấp I.
- Sao con lại vào trại heo. Cha Ngữ ngạc nhiên hỏi.
- Trại heo nằm ở bên hông, thế mà họ lại dám hiên ngang treo bảng ngay giữa hẻm, làm như mọi người trong khu vực này toàn là heo cả vậy. Còn Dòng Con Đức Mẹ Sầu Bi nằm trực diện với hẻm, lại phải treo bảng ở bên hông. Chéo cẳng ngỗng như thế đấy, cha ạ.
Cổng vào Dòng Con Đức Mẹ Sầu Bi màu xanh lá đậm, mở hé, chỉ vừa cho một chiếc xe gắn máy ra vào.
- Cổng hẹp thế này, cha có phải xuống đi bộ không?
- Không, cha cứ ngồi yên nhá.

Ngay giữa cổng, cách chừng hai mươi mét là tượng Đức Mẹ Sầu Bi bằng cẩm thạch màu đà, dạn dày sương gió. Chếch sang bên trái chừng một mét là một cây đào tiên cổ thụ, bị chặt hết một phần ba, chỉ còn một cành lớn, tán gọn như chiếc dù mở. Lá xác xơ. Quả lác đác. Dưới gốc một vài chiếc hoa màu xám vàng, quắt quéo. Miệng xoắn lại, sũng sương đêm.
- Thưa bác, bác tìm ai ạ? Chị giữ cổng lễ phép hỏi.
- Tôi đi kiểm tra nhà cô nhi. Tôi muốn gặp chị bề trên.
- Xin mời bác. Vừa nói, chị vừa dẫn khách vào phòng, rót nước mời khách xong, chị nói: “Xin bác chờ một xíu ạ!”.

Bên ngoài phòng khách khá xập xệ là một ngôi nhà nguyện, kiểu Á Đông, ngạo nghễ, ngất ngưởng giữa những ngôi biệt thự còn mới vây quanh. Hai bên lối vào nhà nguyện là những cây hoa kỳ lân, trơ trụi, chỉ còn lơ thơ vài chiếc lá vàng sắp rụng. Bên hông nhà nguyện là một cụm thông, lá xanh biếc, vẫn nhởn nhơ, du dương trong gió sớm đầu Đông.
- Chào bác. Kiều Thu, mặt hơi ngơ ngác, tiếp: “Tôi là bề trên tu viện, bác… muốn gặp ai ạ? Chị nhìn cha ngờ ngợ. “Bác có phải là…”.
- Phải. Tôi muốn đi thăm các em mồ côi.
- Bác là phái đoàn kiểm tra ạ? Không đợi cha Ngữ trả lời, chị tiếp: “Phái đoàn có còn ai nữa không ạ?
- Không, chỉ có mình tôi.
- Thế ạ. Mọi lần phái đoàn thanh tra đi đông lắm cơ, bác ạ. Trông bác lạ quá, chắc là bác mới về.
- Tôi mới về được hơn tháng nay, tôi muốn đi thăm các em từ lâu mà hôm nay mới đi được.

Kiều Thu nhìn cha Ngữ, nét băn khoăn, bối rối hiện rõ trên mặt.
- Ay chết. Chị buột miệng. “Mải nói chuyện quá quên mất. Mời bác xơi nước ạ!

Nghe tiếng lép xép ngoài cửa, Kiều Thu ngó ra, thấy thầy Tuyên, vui vẻ nói: “Chào thầy Tuyên. Thầy đi đâu đấy? Lâu lắm rồi hôm nay mới gặp thầy…. Thầy đi với bác này hả?” Kiều Thu hỏi bừa.
- Viện phụ Ngữ đấy chứ bác gì mà bác! Tuyên mỉm cười nói.

Vẻ âu lo tan biến. Đôi mắt linh lợi trở lại. Đôi môi duyên dáng, chín mọng . Kiều Thu nhìn cha Ngữ bằng ánh mắt kinh ngạc đầy trìu mến. “Lạy Chúa tôi, con xin lỗi cha. Từ hôm qua tới giờ con cứ nghĩ là phái đoàn nhà nước cơ. Khi thấy cha, con đã ngờ ngợ nhưng lại không dám tin vào mắt mình. Cha ngồi chờ chút, con đi tìm bề trên.
- Vậy chị không phải là bề trên à?
‑ Thưa phải, nhưng chỉ là bề trên trước mặt người ngoài thôi. Còn trong nhà là người khác.
- Đây là bề trên theo “vụ”, cha ạ. Nghĩa là bề trên theo từng vụ. Tuyên cười hóm hỉnh. “Hay nói như cha con mình mấy bữa nay, đây là bề trên giả”.
- Sao lại có chuyện này, hả Tuyên? Cha cau mày hỏi.
- Vì mỗi lần có bề trên mới phức tạp lắm, cha ạ. Như nhà mình viện phụ Hòa mãi mới xuống được đấy! Nên ai họ đồng ý thì cứ để người ấy tiếp xúc với họ.
- Người ta thọc tay sâu thế vào trong Hội Thánh à! Làm như thế thì có khác gì kiểm soát cả việc chăn gối của vợ chồng người ta, cả những việc trong phòng kín của người ta.
- Cha không biết đấy. Người ta còn huấn đức cả các thầy đại chủng viện, các tu sĩ dòng nữa đấy cha ạ!
- Chuyện ấy là chuyện của giám đốc, ngoài giám đốc ra, không ai làm chuyện ấy cả. Viện phụ cũng không nên làm, trừ phi giám đốc mời, mà lâu lâu mới làm một lần thôi. Mình không có chuyên môn, phải nhờ những người có chuyên môn họ đỡ cho chứ! Nhà nước làm sao đào tạo linh mục Công Giáo được mà đòi huấn đức.
- Thưa cha, Kiều Thu vui vẻ nói: “Đây là chị Vân Yến, bề trên tu viện ạ. Còn đây là viện phụ Ngữ mới từ Tokyo về.
- Chào cha. Con nghe tiếng cha lâu lắm rồi, hôm nay mới hân hạnh được giáp mặt. Cha về lâu chưa ạ?
- Một tháng rồi. Dòng các chị ở Việt Nam có đông không?
- Thưa trên dưới một trăm chị khấn.
- Được bao nhiêu nhà tất cả?
- Được sáu ạ. Nhưng chỉ có nhà này là lớn thôi, còn các nhà khác lụp xụp lắm.
- Lụp xụp có khi lại hay đấy, đúng tinh thần tu trì hơn. Nhà sang quá thế này, ta lại bám vào nhà mà quên cả Chúa thì chết. Mục đích của dòng là gì?
- Thưa chăm sóc cho trẻ mồ côi và con em của những gia đình nghèo ạ.
- Dòng nào cũng chăm sóc người nghèo mà vẫn còn không biết bao nhiêu người bị bỏ rơi. Ơ bên Phi, mục đích của một dòng kia là giáo dục thanh thiếu niên nghèo, thế nhưng người nghèo không bao giờ có thể chen chân vào trường ấy được, toàn con em nhà giàu. Cuối cùng họ phải giải thích là nhận con nhà giàu để có tiền giúp người nghèo… nỗi u hoài hằn trên khuôn mặt, cha hỏi tiếp: “Trại mồ côi của các chị đông không?”
- Thưa được trên dưới một trăm nhưng hết gần một nửa là mồ côi giả. Vì các em có cha mẹ, nhưng nghèo quá.
- Cha đi thăm các em được không?
- Dạ, xin mời cha ạ.

Trại mồ côi là một ngôi nhà hai tầng, tách biệt hẳn với tu viện. Bốn góc sân là bốn cây sakê um tùm. Mùa Đông vẫn chằng chịt lá. Dưới là văn phòng, hội trường, và phòng ăn. Trên là các lớp học và phòng ngủ. Hai cánh là nhà tắm và vệ sinh.
- Xin mời cha vào hội trường, các em đang chờ cha.

Vừa thấy cha bước vào, các em hát vang bài chào mừng. Em nào em nấy áo quần tươm tất, vẫn còn nguyên nếp gấp. Mặt mũi tiều tụy, xanh xao, nhìn xuống chỉ thấy toàn là mắt. Hỏi thăm từng em, cha có cảm giác như các em trả bài thuộc lòng, hơn là trả lời phỏng vấn. Có em vừa trả lời vừa lấm lét ngó các nữ tu. Sau đó Vân Yến dẫn cha đi thăm nhà.
- Chị bảo hơn một trăm cơ mà, đây đâu tới một trăm.
- Thưa những em giả tụi con cho ở nhà hết, vì thành tra.
- Vậy hả? Hèn chi.

Đi ngang nhà cơm, thấy người đang dọn dẹp bia, cam cho vào két, cha Ngữ hỏi: “Sao dẹp những thứ này đi, mang đi cất à?
- Thưa mang đi trả đấy ạ.
- Cha, con nói thật. Mỗi lần có đoàn thanh tra đến, tụi con lại phải sang nhà hàng bên cạnh thuê bia cam, thuê cả thức ăn về bày lên bàn, cho người ta thấy là tụi con lo cho các em chu đáo. Đến giờ ăn, các em vẫn cứ ăn, nhưng không được ăn những thức ấy, chỉ được ngó thôi. Cha thấy tội nghiệp các em như thế đấy.
- Vậy hả? An mà cũng không được ăn thật, phải ăn giả như thế nữa à! Mặt cha hằn lên một buồn mênh mang. “Sao các chị không nói thật để tôi liệu?
- Cha coi. Vân Yến giải thích. “Mỗi suất cha cho, chúng con phải chia ra thành ba suất. Mỗi tháng tụi con phải bù cho mỗi em cả hơn trăm ngàn mới đủ. Tại nhiều em giả quá cha ạ”.
- Trẻ con mà đã phải tiếp xúc với những cái giả dối thế này của người lớn, thì mai mốt chúng nó sẽ chỉ còn bên ngoài là người thật thôi, bên trong là giả hết. Cha Ngữ buột miệng xót xa. Mắt cay xè. Mày cau lại. Môi mím chặt. Mặt đuỗn ra. “Hôm nay, cha cho các em ăn thật. Chị bảo người ta đừng dẹp đi nữa, cứ để nguyên đấy, hết bao nhiêu cha chịu”.
- Vâng, con cám ơn cha. Mặt Vân Yến sáng lên. “Chắc các em thích lắm đấy!
- Chị cho gọi cả các em giả vào nữa nhá.
- Vâng thưa cha… Cha về chơi bao giờ đi?
- Tôi về luôn.
- Vậy… Nét hân hoan trên khuôn mặt Vân Yến như vụt tắt, hằn lên nét âu lo bâng quơ. - Không sao. Tôi đã liệu hết rồi. Trợ cấp của chị vẫn còn nguyên không mất gì đâu mà sợ. Đây là năm trăm ngàn yên, tiền trợ cấp của tháng này và tiền bữa ăn trưa nay. Thôi, chào chị, tôi về kẻo nắng.

Ra khỏi nhà mồ côi, lòng cha Ngữ như chùng xuống. Cha cố tìm mọi cách để biện hộ cho những gì đã chứng kiến mà vẫn không khỏi hoang mang. Chiều hôm ấy, cha ngồi trầm tư suốt buổi trong nhà nguyện. “Nhiều thứ giả quá Chúa ơi. Tai nạn giả, bắt giả, nhà nguyện giả, ngực giả, mũi giả, học giả, bằng giả, tiền giả, Hồi Giáo giả, nhà sư giả, bề trên giả, cô nhi giả đến cả ăn cũng giả nữa. Không biết có còn gì là thật trên đất nước này nữa chăng. Thật giả lẫn lộn thế này thì còn ai tin ai được nữa”. Cha giật mình, hốt hoảng: “Không biết hôm nay các em có được ăn thật không, thật được bao nhiêu phần trăm?

Cả tuần nay, anh em trong đan viện cứ gặp nhau lại xầm xì, bàn tán về chuyện lễ tạ ơn tại nhà tĩnh tâm đan viện. Bức xúc qua, cha Phán đặt thẳng vấn đề với viện phụ Hùng: “Cha có biết chuyện cha Hòa đồng ý cho cha Sơn xứ Long Thuận dâng lễ tạ ơn tại nhà tĩnh tâm đan viện không?”
- Tôi có nghe. Hình như có một anh Việt kiều nào đó, về làm đám cưới giả với một cô thuộc giáo xứ Long Thuận để bảo lãnh cô ta sang Mỹ. Sang được, cô ta sẽ trả cho anh ta hai mươi ngàn đô hay sao ấy. Có đám cưới ở nhà thờ, thì Mỹ dễ tin hơn mà vì không làm đám cưới được nên anh ta mặc đồ chú rể, cô ta mặc đồ cô dâu, đến tham dự thánh lễ, gọi là lễ tạ ơn, rồi chụp hình đưa vào hồ sơ.
- Đúng, cha nghĩ sao?
- Tôi chưa biết phải nghĩ sao.
- Tôi thấy không thể chấp nhận được. Lấy phụng vụ ra để che đậy sự gian dối của mình, lấy Thiên Chúa ra để phỉnh gạt người ta là phạm thượng. Cha Sơn có nhà thờ, sao không làm lễ tạ ơn ở đó mà phải mượn nhà mình. Ong ta sợ tai tiếng nên mượn nhà mình để khỏi tai tiếng. Cha thấy không?
- Bây giờ phải làm sao nhỉ?
- Bảo cha Hòa nói với cha Sơn là viện phụ không đồng ý. Lễ tạ ơn thì được, nhưng không phải là cô dâu, chú rể thì đừng mặc đồ dâu, rể.
- Chuyện tế nhị lắm, cha Phán ạ. Cha Hùng đăm chiêu, suy nghĩ. “Hay đổ thừa cho cụ Ngữ”. Mắt cha Hùng sáng lên, lấp lánh niềm hy vọng.
- Đổ thừa cũng được nhưng phải hỏi ý cụ xem sao.
- Hỏi thì cụ đồng ý là cái chắc rồi, nhưng chỉ sợ cụ hoang mang thêm thôi.

Trưa hôm ấy, nghe cha Hùng nói, tai cha Ngữ lùng bùng. Mắt tối sầm lại, thảng thốt: “Thế à. Thế à”. Một lúc sau, cụ mới bình tĩnh nói: “Dẹp đi thì cũng khó cho cha, nhưng cha nên hỏi họ xem tạ ơn về chuyện gì, và không được để cho họ mặc đồ cưới vào nhà thờ. Không thể lấy Chúa ra chứng giám cho sự gian dối của họ và ta không thể đồng lõa với họ được”.
- Vâng, con cám ơn cha. Đang tính quay đi, như chợt nhớ ra điều gì đó, cha Hùng hỏi tiếp: “Còn chuyện này nữa, thưa cha”.
- Anh em trong nhà mình cứ xin mỗi tuần cho họ dâng lễ bằng tiếng Anh một lần. Con vẫn đang ngần ngại, cha nghĩ sao?
- Lễ tiếng Anh cho ai mới được chứ.
- Cho anh em trong nhà.
- Cha đừng cho. Vì muốn cho ta tham dự trọn vẹn vào phụng vụ thánh, Công Đồng Vatican II đã chấp nhận bị la lối, chống đối, dẹp bỏ tiếng Latinh đã thịnh hành trong Hội Thánh suốt mười lăm thế kỷ. Bây giờ ta lại muốn cử hành phụng vụ bằng một thứ ngôn ngữ lạ hoắc. Không được đâu. Tiếng Anh, tiếng Nhật đã thành như tiếng mẹ đẻ thứ hai của tôi, mà tôi vẫn không thích dâng lễ bằng các thứ tiếng ấy. Tiếng Việt mới là xương, thịt, là máu, là linh hồn tôi. Tôi đến với Thiên Chúa bằng mọi thứ của tôi, chứ không phải bằng những thứ ở ngoài tôi. Nhưng sao họ lại muốn lễ bằng tiếng Anh?
- Họ bảo để anh em tập quen tiếng Anh.
- Như thế là đã lấy cái phụ làm chính rồi, lấy việc gặp gỡ, tiếp xúc và sống với Thiên Chúa để thành phương tiện thực tập tiếng Anh rồi. Tiếng Anh thành mục đích, Thiên Chúa thành phương tiện và một lúc nào đó, không cần phương tiện này nữa, họ sẽ dẹp bỏ luôn. Và hình như hôm này người ta đã đối xử với Thiên Chúa như thế rồi thì phải.
- Hình như vậy. Cha Hùng nói theo cách yếu ớt. Thôi con chào cha.

Cha Ngữ nhìn theo. Hình ảnh cha Hùng nhạt nhòa trước mắt cha. Rồi mọi thứ cũng nhạt nhòa theo. Không gian trước mắt cha chỉ còn là một cõi mơ hồ, không tưởng sâu hun hút. Đầu óc cha như đang bốc thành mây khói. Đất dưới chân cha như đang loãng thành nước. “Đây là thật, hay đây chỉ là giả dối”, tựa hồ như một âm thanh ảo, vọng về từ cõi hư vô.

Cả tháng nay, dù sáng nào cha cũng vẫn đi làm chung với anh em trẻ, nhưng cha vẫn cứ như người mất hồn. Những lúc ngồi một mình trong phòng hay trước Thánh Thể là những lúc cha bị giằng xé nhất. “Ở hay về lại Nhật” đang là vấn đề đòi cha phải quyết định. “Ở lại thì có lợi cho anh em trẻ thật, nhưng những thứ giả dối đang đổ ập xuống trên đầu, không biết mình có đứng vững được chăng”. Cha tự hỏi. “Về lại Nhật thì bình an, nhưng không biết anh em có bảo mình già rồi, làm viện phụ quốc tế bao nhiêu khóa rồi mà vẫn không có lập trường, vẫn nông nổi, bốc đồng chăng. Vả lại, tình anh em bên ấy tuy mặn mà thắm thiết thật nhưng ngôn ngữ, thức ăn, đồ uống, nhà cửa … không phải là Việt Nam, không phải là của mình”. Cha bần thần nhớ bầu khí chân thật trong đan viện Tokyo đến độ có lúc như ngẩn ngơ.

Viện phụ Hùng cũng hoang mang không kém. Từ khi cụ Ngữ về, ông đã điều chỉnh hết chuyện này đến chuyện khác mà vẫn chưa đâu vào đâu cả. Hơn ba mươi năm nay, đời sống Đan Viện Thiên Ân đã mục ruỗng, hệt như một ngôi nhà lá lâu năm, đụng đâu, đổ đó. Bây giờ muốn tái thiết lại đan viện thì phải phá đi làm lại từ đầu. Trong số hơn một trăm anh em khấn, những người sống đời đan tu đúng nghĩa chỉ có thể đếm được trên đầu ngón tay. “Nếu có một cuộc thanh lọc thực sự thì mình chắc chắn nằm trong số những người bị sa thải đầu tiên”, ông tự nhủ. Mặt ông đỏ lên. Tai nóng bừng bừng. Môi mím chặt. Ong bực bội với chính mình. “Cây cột chính của đan viện này lại là một cây cột rỗng. Lòng không có Chúa, chỉ có tiền và quyền”. Ong chua chát thốt lên. “Thế mà lại còn muốn làm tiếp khóa nữa!” Ong tự mai mỉa mình. “Nhưng bây giờ mà nghỉ thì biết làm gì?” Rồi, như một bản năng tự vệ, ông nhắm chặt mắt, cố quên đi những day dứt trong lòng. Ong mở choàng mắt ra, kiêu hãnh nói: “Không có tôi, ai xây được nhà này. Không có tôi, ai mời được các chuyên gia ngoại quốc về thường huấn cho anh em. Anh em phải thấy tôi có khả năng mới bầu làm viện phụ chứ… tôi không có khả năng, sao lại được mời vào các ủy ban của hội đồng giám mục…”. Im lặng một lát để nhìn lại những thành tích đã đạt được mấy năm qua, ông nói chắc như đinh đóng cột: “Không, không phải điều chỉnh gì hết cả. Cụ Ngữ muốn ở lại Việt Nam, thì phải thích nghi với Việt Nam, không thích nghi được thì mời cụ về lại Nhật”.

Trời đã nhá nhem. Con chim quốc bắt đầu kêu như khóc. Gió lạnh. Cây lao xao. Từng đàn đom đóm lập lòe trước ngõ. Đan viện hệt như một bãi tha ma.
- Viện phụ đâu rồi. Cha Phán hỏi. “Đi đâu mà phòng vẫn tối thui thế này?
- Tôi đây, có chuyện gì đấy, anh Phán?
- Có tin vui. Cha Phán nói lớn cố ý cho cả nhà cùng nghe. “Thầy Tâm được chịu chức đợt này cùng với một anh Phanxicô và hai mươi lăm anh em chủng sinh khác”.
- Vậy hả? Cha Hùng hỏi hờ hững. “Có chắc không hay lại như những lần trước?”
- Chắc. Quyết định đây.
- Khi nào phong chức?
- Nghe đâu đức cha định sau Noel và trước tết tây.
- Thế cũng tiện, còn gần tháng nữa, lo liệu kịp.

Gần đến ngày phong chức, Tuyên hỏi: “Cha ơi. Ngày mai lễ phong chức của anh Tâm nhà mình đấy, cha có đi không? Anh này tội nghiệp lắm, chờ 18 năm, nay mới được.
- Già rồi bây giờ đi đâu ngại lắm nhưng phải đi để cầu nguyện cho anh em mình chứ. - Cha đi với ai?
- Cha không biết, nhà mình có xe đi không?
- Con nghe nói viện phụ thuê hai chiếc xe cho anh em đi hay sao ấy.
- Vậy hả?

Trời cuối Đông, đã gần chính ngọ mà nắng vẫn nhợt nhạt như mới tàn cơn mưa. Cây cối ủ rũ, như còn ngái ngủ. Chỉ mỗi cây sầu đông, gốc sần sùi, nhăn nheo như một lão ông đã gần trăm tuổi, nhưng lá vẫn đỏ rực, nhụy vàng chóe, thỉnh thoảng lại dập dềnh, đong đưa, nhộn nhạo như lũ trẻ giờ tan học. Vài con chim chích đuổi nhau, ríu rít trên cành cây lá lơ thơ, lác đác. Con Tumi vẫn quấn quít bên chân cha Ngữ, bỗng phóng vụt đi, đuổi theo một con chuột nhắt, đang rụt rè cửa hang. Cha Ngữ vẫn đăm chiêu nhìn hàng mộ thẳng tắp, nằm dưới rặng phi lao, lúc nào cũng du dương. “Đây đúng là cõi bình an, chân thật”, cha tự nhủ.

Sáng hôm ấy, nhà thờ chính tòa, cờ xí rợp trời. Người người tấp nập. Ao quần tươm tất, bảnh bao. Các thiếu nữ, áo dài tha thướt, xếp thành hai hàng làm hàng rào từ cổng vào đến tận cuối nhà thờ nơi khởi hành cuộc rước. Các linh mục đồng tế, tay cầm áo lễ, tụm năm, tụm ba, nói cười rôm rả. Các tiến chức, áo alba mới tinh, trắng muốt, đầu láng bóng, mặt rạng rỡ, đã xếp thành hàng sẵn, chờ đức giám mục. Đội kèn đồng cuối nhà thờ trổi vang bài chào mừng, báo hiệu đức giám mục đã tới. Các linh mục lật đật giở áo ra, choàng vội vào, rồi chen nhau lên phía trước, chẳng ai muốn đứng gần vị chủ tế. Cha Ngữ lững tha lững thững, chẳng biết đứng vào đâu, bị đẩy xuống tận phía sau. Đức giám mục giáo phận, tuổi ngoài năm mươi, miệng luôn mỉm cười, giơ tay chào mọi người giữa những tiếng vỗ tay dài như bất tận, mặt vẫn hằn lên nỗi âu lo.
- Con chào đức cha.
- Ơ. Viện phụ Ngữ. Ngài về Việt Nam hồi nào?
- Con về được hai tháng rồi, muốn lên thăm đức cha mà chẳng biết phải đi bằng cách nào…

Con chúc mừng đức cha. Ở Tokyo, vài năm mới được một linh mục, còn ở đây, năm nào cũng được, năm nay lại được tới hai mươi lăm vị.
- Hai mươi lăm ngọn gió này, nếu là gió lành thì đúng là đại phúc, nhưng nếu chỉ cần một, hai ngọn gió chướng thôi thì có khi phá sập cả một lâu đài đấy, viện phụ ạ. Cầu nguyện nhiều cho các thầy.

Từ ngàn xưa, cha đã yêu con, cha gọi con giữa muôn người…”, bài ca nhập lễ vang lên thánh thót nhịp nhàng đang đưa cha Ngữ trở về lại với kỷ niệm của bốn mươi tám năm về trước, cũng tại đây, giờ này, cha sắp được thụ phong linh mục. Những tâm tình ngày xưa ấy đang sống lại, khiến cha nghẹn ngào, xúc động. Cha có cảm giác lâng lâng như mình đang được ngụp lặn trong biển tình bao la của Thiên Chúa. Suốt bốn mươi tám năm qua, cha đã cảm nghiệm cách rõ ràng mãnh liệt, Thiên Chúa đúng là một Thiên Chúa chỉ biết yêu thương và tha thứ, sẵn sàng chịu thiệt thòi, chịu mất tất cả, kể cả mạng sống để được ta, là những kẻ phản bội. Cha đang đi trên đất nhưng lại có cảm giác như đang bay lượn trên trời, đang ở nơi dương thế nhưng lại thấy như mình đã vào chốn thiên cung. Cha đã gần tám mươi, đã từng bươn chải, ngược xuôi đây đó, nhưng lúc này lại có cảm giác như một em bé đang được bồng ẵm trên tay. Mọi sự như đang mờ dần đi trong mắt cha, tạo nên một bức tranh thủy mạc huyền hoặc, nửa thật, nửa hư. Cha thấy như có một sức mạnh vô hình đang nhấc bổng cha lên, thấy mình nhẹ tênh như một chùm bóng bay. Thình lình, tiếng đôi co, xô xát của một cặp vợ chồng nào đó ở ngay cuối nhà thờ, ném cha trở về lại nơi dương thế.
- Tôi đã bảo, ông muốn đi, thì cứ đi một mình, kéo tôi đi với ông làm gì thế này, để bây giờ chỗ cũng không có mà ngồi.
- Có chỗ chứ sao lại không. Người chồng vẫn nhẹ nhàng, giọng như dỗ dành.
- Nhưng chỗ ấy không phải là của mình. Giọng bà nghèn nghẹn, thỉnh thoảng lại nấc lên: “Tôi cưu mang nó chín tháng trong dạ, ba năm bồng ẵm trên tay cho bú mớm, tã lót, cứt đái một tay này dọn. Ba mươi năm nay, cái ngon không dám ăn, cái đẹp không dám mặc, chắt chịu từng đồng để nó có được ngày hôm nay. Thế mà…”. Bà nói trong tiếng nghẹn ngào, cay đắng. “Nó đã hất bụng dạ đã cưu mang nó, vú đã cho nó bú, bàn tay đã bồng ẵm nó. Bây giờ nó có người khác rồi, nó cần gì mình nữa, đến đây chỉ làm cho nó thêm khó xử thôi. Đi về ông ạ!” Giọt nước mắt tràn mi, lăn dài trên gò má nhăn nheo, khắc khổ.
- Bà nói bé thôi, người ta nghe thấy tội nghiệp nó. Người chồng nói trong nước mắt. “Vì nó có ân, có oán với người ta, nên nó đã phải xin vợ chồng mình cho phép nó để cho người ta mang áo lễ lên mặc cho nó ngày hôm nay. Bà đã đồng ý rồi đấy thây. Sao bây giờ bà lại hờn dỗi thế này”. Ong nắm tay bà. Mắt khép hờ, để rơi giọt nước mắt tủi hờn.
- Mặc áo lễ cho nó là quyền của kẻ đẻ ra nó, không ai được đụng vào quyền thiêng liêng bất khả xân phạm này. Cả đến Thiên Chúa cũng không làm thế. Giọng bà nhẹ lại, ngập ngừng, thì thầm trong từng tiếng nấc. “Thế mà con tôi đã…” Bà giơ tay quệt hàng nước mắt đang trào tuôn lai láng. “Thôi, ông vào một mình đi, tôi đi về đây. Tôi nhục lắm. Con làm linh mục kiểu này không ham!”. Bà mai mỉa.
- Bà không sợ nó buồn à?
- Nó có sợ tôi buồn đâu!
- Bà là mẹ nó, dù sao nó vẫn là con bà, là một phần của thân thể bà. Về bây giờ, bà sẽ vĩnh viễn mất nó, mất cả bản thân bà.
- Tôi đã mất nó từ hôm nó xin cho người ta mặc áo lễ cho nó cơ! Mặt bà đanh lại, mắt ráo hoảnh, bà tiếp: “Bây giờ mất luôn để chỉ phải đau một lần, chứ lúc còn lúc mất thế này, sẽ đau suốt đời”.
- Tôi năn nỉ bà. Con mình xấu, tôi biết, tôi không bênh nó đâu. Tôi cũng đau mà còn đau hơn bà nữa… Ong ngập ngừng: “Nhưng không cầu nguyện cho nó lúc này, thì còn cầu lúc nào nữa. Lời cầu nguyện cùng với nỗi đau này, hy vọng Chúa sẽ biến đổi nó, bà ạ”.

Tai cha Ngữ lùng bùng. Mắt tối sầm. Lòng thắt lại. “Không biết đức giám mục có biết chuyện này không? Không biết ông tiến chức ấy có thấy cảnh này không? Đến cha mẹ ruột mà còn đối xử như thế, thì chắc chắn Thiên Chúa người ta cũng sẽ xử như thế thôi”. Hằng trăm câu hỏi cứ lần lượt hiện lên trong đầu óc cha. Nhìn hai mươi bảy anh em tiến chức, trong những chiếc áo alba trắng tinh, không một nếp nhăn mà cha chỉ thấy thân thể Chúa lõa lồ, trần trụi, đang rỉ máu.

Thánh lễ đã hết phần phụng vụ Lời Chúa mà cha vẫn chưa hết lo ra. Hình ảnh của cặp vợ chồng ban sáng như đang tạo nên một ung nhọt trong lòng cha. “Sau đây là nghi thức phong chức”. Lời của vị dẫn lễ đã kéo cha trở lại với thực tế. Hai mươi bảy tiến chức lần lượt xếp thành hàng ngang trước mặt đức giám mục. Cha nhìn mặt từng người, không sao cưỡng lại cơn cám dỗ tìm xem ai là người đã tước mất của cha mẹ ruột mình quyền được làm cha mẹ trong ngày thụ phong. Hai mươi lăm chủng sinh, người nào, mặt cũng hân hoan xen lẫn với những nét âu lo, căng thẳng. Cha Ngữ bỗng giật mình, khi nghe xướng danh: “Thầy Tôma Nguyễn Công Tâm, Đan Viện Thiên An. “Ong này quen quá”, cha buột miệng. “Sao cả mấy tháng nay mình không gặp ông ta ở đan viện nhỉ… chắc chắn mình đã gặp ông này ở đâu rồi đó”. Cha bắt đầu quay về với ký ức, xục xạo khắp nơi, cố tìm xem cha đã gặp người này ở đâu, mà không sao tìm được.
- Con có hứa vâng phục giám mục giáo phận và bề trên hợp pháp của con không? Đức giám mục chất vấn Tâm.
- Thưa, con hứa.
“Giọng Vinh”. Cha Ngữ chau mày, thốt lên như thể sắp lần ra manh mối. Nghi thức phong chức kéo dài cả tiếng đồng hồ đã sắp kết thúc mà đầu óc cha vẫn rối như một mớ bòng bong. Khi chúc bình an cho Tâm, cha phát hiện một nốt ruồi to nằm ngay giữa lông mày phải. “À. Đúng rồi!” cha buột miệng. Rồi quá khứ của mười năm về trước hiện về trong trí cha. Có lần Tâm sang Tokyo, tự xưng là linh mục, và ngày nào cũng đồng tế với anh em trong cộng đoàn. “Nếu chưa là linh mục mà đã làm lễ, thì không bao giờ được làm linh mục nữa. Đó là luật”. Cha băn khoăn nhắc lại. “Như thế nghĩa là lễ phong chức hôm nay không thành sự”. Cha lại bâng khuâng tự hỏi: “Mà không biết anh này có phải là anh Tâm ấy không. Nếu có một anh Tâm nào đó, trùng tên và trông giống anh ta thì sao? Lỡ anh Tâm sang Tokyo không phải là anh này thì sao?” Hàng loạt những thắc mắc như thế cứ lởn vởn trong đầu cha.

Lễ xong, trời đã quá trưa. Nắng vẫn nhạt nhòa. Khi các tân chức đang tất ba, tất bật với việc chụp hình lưu niệm. Cha Ngữ lẳng lặng đi nhanh về phía giáo dân, cố tìm cặp vợ chồng ban sáng mà không tìm được. “Chắc buồn quá, họ về mất rồi!” cha tự nhủ.

Thấy cha đang dáo dác như thể tìm ai, Tuyên chạy tới: “Cha ơi, cha có dự tiệc không hay về. Ở đây có tục cứ lễ xong, mỗi người được một tô phở và một lon bia thôi”.
- Thế à? Vậy thôi, ta đi về.
- Xe mình cũng đang chờ cha.
- Thế à. Cha vừa đi, vừa như đang cố tìm một cái gì đó. Một tân linh mục đang ôm một bà cụ hom hem. Mặt không son phấn. Ao quần nghèo khổ. Nước mắt dàn dụa. Chỗ khác, các cô gái áo dài tha thướt, phấn son lòe loẹt, đang chen lấn nhau chụp hình chung với các tân chức. Mặt tươi rói.

Vừa thấy cha lên xe, Tấn hỏi: “Lễ hôm nay thế nào, thưa cha?”
- Long trọng quá làm cha nhớ lại 48 năm về trước. Cha cũng chịu chức ở đây, các bài hát cũng gần giống như năm ấy.
- Cha có để ý ông thầy đứng thứ ba từ trái sang không, đứng phía bên cha ấy? Tuyên hỏi. Không đợi cha Ngữ trả lời, Tuyên tiếp: “Ong bà đưa áo lễ lên mặc cho ông ấy không phải là ông bà cố thật”.
- Thế à? Cha Ngữ ngạc nhiên hỏi.
- Ong không biết gì, toàn ăn ốc nói mò không hà! Tấn nhìn Tuyên bực bội nói.
- Thật mà. Nhà ông ấy ở sát bên nhà con mà.
- Sao lạ thế nhỉ? Cha Ngữ làm bộ hỏi. Hình ảnh cặp vợ chồng ban sáng hiện về trong đầu cha. Những lời của họ vang lên trong lòng cha: “Tôi cưu mang nó chín tháng trong dạ, ba năm bồng ẵm trên tay cho bú mớm, tã lót một tay này giặt, cứt đái một tay này dọn. Ba mươi năm nay, cái ngon không dám ăn, cái đẹp không dám mặc, chắt chiu từng đồng để nó có được ngày hôm nay. Thế mà nó đã hất bụng dạ đã cưu mang nó, vú đã cho nó bú, bàn tay đã nâng niu nó đi. Bây giờ nó có người khác rồi, nó cần gì mình nữa, mình đến đây chỉ làm cho nó thêm khó xử thôi. Đi về ông ạ!”
- Ong ấy tên là Như. Từ khi sắp chịu chức, thấy nhà mình nghèo, sợ cha mẹ tổ chức lễ tạ ơn không chu đáo, nên đã nhận cha mẹ nuôi để đỡ gánh nặng cho cha mẹ mình. Mà cha mẹ nuôi này đòi phải để họ mặc áo lễ cho, họ mới chịu… Nghe đâu ông bà cố buồn lắm, không biết hôm nay có đi dự lễ không nữa chứ!
- Có, cha thấy. Nghèo đâu phải là một tội. Lễ tạ ơn đâu phải là lúc để phô trương mà cần phải bày biện làm gì cho khổ cơ chứ.
- Nghe đâu ông cố thì chịu vậy, còn bà cố thì dứt khoát không chịu. Không biết bây giờ thế nào.
- Từ nay, ông này sẽ bắt đầu khốn khổ, sẽ không còn được tự do lo việc Chúa nữa, sẽ thành nô lệ cho gia đình người ta. Gia đình họ có chuyện gì mình cũng phải có mặt. Đi tu không có gia đình để tự do lo việc Chúa, thế mà chỉ vì tiền, người ta đã tự biến mình thành nô lệ cho người khác. Thật buồn. Cha Ngữ lắc đầu nguây nguẩy.
- Đời bây giờ đều thế cả, cha ạ. Có người nhận hai, ba bố mẹ nuôi, để vừa có xe hơi đi, vừa có vi tính xài…
Mặt Tấn đỏ lên, bực bội, nói: “Ong chỉ khéo thêu dệt”.
- Có tật giật mình. Tôi có nhắm ai đâu. Cả trong đan viện mình cũng đầy người như thế.

Cha Ngữ im lặng. Mặt hằn lên nỗi xót xa. Trời vẫn ủ ê. Gió vẫn hây lạnh. Suốt cả chiều hôm ấy, cha thấy bần thần như người đang lên cơn sốt. Hai lần cha định đi gõ cửa phòng viện phụ hỏi cho ra lẽ về chuyện Tâm, nhưng lại thôi. “Đàng nào chuyện cũng đã xong rồi, từ từ nói cũng được” cha tự nhủ.
Sau giờ kinh chiều hôm ấy, cha đang lần chuỗi trước tượng Đức Mẹ Sầu Bi thì viện phụ tới: “Chào cha”.
- Chào viện phụ. Không cầm được những bức xúc trong lòng, cha cầm tay, kéo viện phụ ra đằng sau tượng Đức Mẹ, hỏi nhỏ: “Từ sáng tới giờ, tôi bức xúc lắm. Đã hai lần tôi định tới gặp cha, nhưng lại thôi. Tôi hỏi thật cha, ông Tâm hôm nay chịu chức có phải là ông đã sang Tokyo cách đây mười năm không?”
- Thưa phải ạ.
- Thôi chết rồi. Cha Ngữ la lên. “Khi sang bên ấy, ông ta đã làm lễ rồi, sao bây giờ mới chịu chức?
- Thưa cha. Xin cha giữ kín cho. Trong nhà này không ai biết, trừ con và cha. Ong ấy đã chịu chức “chui” cách đây mười hai năm rồi, nay nhà nước mới cho phép, nên con ghép ông vào số những người được chịu chức hôm nay để hợp thức hóa cho ông luôn.
- Vậy ra ta đánh lừa cả Thiên Chúa và Hội Thánh à? Bí tích đã thành sự rồi, thì không bao giờ được cử hành lại cả, cha có biết không? Cha Ngữ dằn từng tiếng một, giọng chát chúa.
- Con biết, nhưng …
- Đức cha có biết không?
- Con không trình đức cha.
- Hóa ra hôm nay tôi đi dự lễ phong chức giả của một người anh em mình. Cha đứng chết lặng một lúc thật lâu. Trời đã nhá nhem. Gió lao xao. Tuyên cũng đứng chết lặng đằng sau mà cha Ngữ không biết. Rồi bất thần, cha Ngữ nắm lấy tay cha Hùng hỏi: “Vậy cha là thật hay giả?”

Cha Hùng im lặng, không nói. Thấy cha bước đi loạng choạng, Tuyên chạy vội tới, dìu cha đi.
- Ai đây?
- Con, Tuyên đây ạ
Cha Ngữ nắm lấy cánh tay Tuyên hồi lâu, hỏi: “Con là thật hay giả?
- Dạ. Tuyên nhanh nhẩu. “Lúc thật, lúc giả ạ!”
- Thế à. Cha Ngữ buông tay Tuyên ra, ôm chầm lấy cây thánh giá trước mặt, nói: “Chắc chỉ còn mỗi cây thánh giá này là thật thôi, Chúa ạ”. Nói xong, cha quỵ xuống. Tuyên đỡ cha lên, nói nhỏ: “Cả cây thánh giá ấy cũng không thật ạ. Cây thánh giá nặng năm mươi kg bạc của cha đã bị lấy cắp từ lâu rồi, từ thời bao cấp cơ. Đây là cây thánh giá giả”.
- Hả? Cái gì? Cha Ngữ la lên.

Mắt cha hoa lên. Mọi sự như tối sầm lại. Cha buột miệng: “Tất cả những thứ giả dối này đang làm nên một vết thương thật trong thân mình Chúa”. Nói xong, cha ngã vào tay Tuyên.

Trong tăm tối dầy đặc, cha mơ hồ nghe như có người đang hát: “Cận thân Chúa khiến lìa xa. Chung quanh bầu bạn chỉ là bóng đêm”.

Nguyễn Đức Thông, CssR

No comments: