Thursday, 31 December 2009

Một vài cảm nghĩ về Thánh Ca Vào Đời



bài của Nguyên An

Nhờ phương tiện truyền thông dễ dàng hiện đại, rất nhiều bản nhạc thánh ca đã được các nhà sản xuất nhạc phát hành tại hải ngoại, đặc biệt tại Mỹ, với lối hoà âm và sự xử dụng những nhạc khí hiện đại, cũng như sự tham gia của nhiều ca sĩ chuyên nghiệp nổi tiếng hoặc các ca sĩ xuất thân từ các ca đoàn. Dù thích hay không thích, sự thưởng thức âm nhạc mang nhiều nét chủ quan, tùy theo sự nhậy cảm và ngay cả tâm trạng mỗi lúc của từng cá nhân mỗi người. Nhưng một điều khách quan không thể phủ nhận là nhờ CD và cassettes, Lời Chúa qua thánh nhạc đã đi vào đời sống gia đình của người tín hữu và ngay cả những người ngoài công giáo một cách rộng rãi hơn, gần gũi hơn với đời sống hằng ngày.

Ý tưởng dùng âm nhạc hiện đại để mang Lời Chúa vào đời sống xã hội hằng ngày bắt nguồn từ giữa thập niên 60. Đó là thời điểm của tinh thần canh tân đổi mới trong Giáo Hội Công Giáo qua Công Đồng Vaticanô II và cũng là lúc phát triển mạnh mẽ của âm nhạc trẻ Rock-Pop tây phương và những giai điệu Nam Mỹ trên toàn thế giới và tại miền Nam Việt Nam... Những người đi tiên phong lập nên phong trào Thánh Ca Vào Đời Việt Nam lúc đó là nhóm Alléluia của các thầy sinh viên Học Viện Dòng Chúa Cứu Thế ĐàLạt (xin xem bài Nhóm Alléluia). Không những nhóm này qui tụ một số nhạc sĩ có khả năng sáng tác hay và phong phú, mà họ còn là những người chơi nhạc điêu luyện, và nhất là đã thực hiện trên băng nhựa thời đó những sáng tác này. Cuốn băng «Vào Đời 1» của nhóm Alléluia đã được các tu sĩ cũng như giáo dân đón tiếp một cách nồng hậu; cuốn «Vào Đời 2» ít được biết đến hơn, phẩm chất cũng không kém mặc dù cách trình diễn nhạc và ca khác với cuốn băng nhạc đầu. Linh mục nhạc sĩ Thành Tâm, nhạc sĩ nòng cốt của nhóm Alléluia, sau đó vẫn tiếp tục sáng tác nhiều bài Thánh Ca Vào Đời nổi tiếng cũng như những bài Thánh Ca Phụng Vụ thường được xử dụng trong những nghi thức như thánh lễ, chầu...


Một số nhạc sĩ đi sau đã tham gia củng cố nền nhạc Thánh Ca Vào Đời, nhất là những tu sĩ trong các giáo phận miền nam, nhưng những sáng tác này rải rác đây đó, ít được phổ biến hơn. Linh mục nhạc sĩ Văn Chi là người có công tiếp tục sự phát triển của nền nhạc này, với một số lượng tác phẩm phong phú. Ngày nay ranh giới giữa Thánh Ca Phụng Vụ và Thánh Ca Vào Đời ít còn rõ rệt như trong quá khứ. Rất nhiều bản Thánh Ca Phụng Vụ đã được hoà âm theo nhạc hiện đại. Và ngược lại, hát Thánh Ca Vào Đời trong phụng vụ ít gây chỉ trích hơn. Nhưng chú trọng nhiều đến hình thức mà quên nội dung bài ca là một sai lầm đáng tiếc về ý nghĩa của Thánh Ca Vào Đời.

Nhóm Alléluia có một chỗ đứng đặc biệt trong nền Thánh Ca Vào Đời Việt Nam. Không những đó là nhóm tiên phong của nền thánh ca này, mà còn là nhóm đã đóng góp những bài ca vừa có giá trị âm nhạc vừa có giá trị tinh thần rất sâu xa qua phương cách xử dụng ngôn ngữ mới lạ để diễn tả những ý tưởng của Phúc Âm.

Về mặt âm nhạc, những nhạc sĩ của nhóm này có cách viết nhạc phù hợp với nhịp điệu trẻ thời đó như rock, pop, boléro, tango, valse… nhưng không quá ồn ào (những người trẻ thời đó nay đã tóc hoa tiêu hay trắng, cho nên Thánh Ca Vào Đời ngày nay không nên gọi là Thánh Ca Nhạc Trẻ nữa, mà nên gọi là Thánh Ca Vào Đời cho mọi người !) . Những bài nhạc của họ rất trong sáng thích hợp với Thánh Nhạc, nhưng đồng thời cũng rất phong phú giúp người đệm nhạc có thể dùng nhiều cách hoà âm khác nhau.

Nhưng một bài nhạc hay chưa đủ để tạo nên một bài thánh ca. Lời quan trọng không kém nhạc. Lời chuyên chở sứ điệp tinh thần của đạo. Đó cũng là nét nổi bật của nhóm Alléluia. Thánh nhạc dùng trong phụng vụ thường được xử dụng như lời cầu nguyện trực tiếp giữa người tham dự nghi lễ và Thiên Chúa. Lời nguyện cầu trong những bài nhạc của nhóm Alléluia được thể hiện qua những câu chuyện hằng ngày của cuộc sống : một buổi tối ngắm bầu trời đầy sao lấp lánh, sự nhọc nhằn của người phu xe gầy vai, sự khốn cùng của người ăn xin hèn yếu, nỗi đau khổ của người mẹ mất con, nỗi thất vọng của người mất tình yêu, sự âm thầm của những người đang bị bất công giầy xéo, sự bất mãn cũng như lòng nhiệt thành của tuổi trẻ… Nhìn Thiên Chúa qua con người trong cuộc sống, dấn thân xã hội cùng đồng hành với tha nhân để mang Tin Mừng cho những người khao khát tình yêu linh thiêng là điểm độc đáo nổi bật trong những bài ca của họ. Những ý tưởng này không gì khác hơn là sự nối tiếp tấm gương của Chúa Giêsu trong Phúc Âm:

Đi vào mừng đám cưới

Đến giường người hấp hối

Đến cùng người thu thuế

Đến cùng người đánh cá

Vì xưa Ngài đã phán

Rằng ai nghèo và đau yếu

Ngài yêu cho vào ăn tiệc thánh

(Vào Đời)

Cũng từ cuộc sống hằng ngày, mặc những nghi vấn về niềm tin trước những thử thách của đau khổ hay bất công, lời ca của họ vẫn mang vẻ lạc quan sáng suốt :


Tôi tin, tôi tin Chúa vẫn thương tôi

Cho dù đời tôi bao phen giông tố

Mãi mãi Chúa là giòng nước trong

Dạt dào lòng xót thương

Muôn đời chẳng hề vơi

(Tôi Tin)

Nếu Chúa Giêsu sinh ra ngày hôm nay thì Ngài sẽ sinh ra ở đâu ? Bài ca của nhóm Alléluia trả lời : chắc Ngài sẽ sinh ra trong một thôn xóm nghèo và những người tới chiêm ngưỡng Ngài sẽ là vài người dân nghèo khiên nhượng. Đó là một ý tưởng kỳ lạ như muốn khuyến khích người nghe suy tìm ý nghĩa đích thực bên kia hình ảnh:

Một đêm, Chúa sinh ra, bên rìa làng

Cỏ rơm, dấu thân gầy, ngăn cơn gió

Và có, mấy anh, dân nghèo, tới nghiêng nhìn

Trẻ thơ, trong khăn, đặt trên máng

Và có, tiếng ca, âm vang, muôn thiên thần

Hò reo, hân hoan, câu bình an

(Quê Hương Thượng Đế)

Hoặc nói về Chúa Giêsu như một lời tâm sự với bạn bè, vừa thân mật nhưng lại vừa hàm chứa một suy nghĩ sâu xa hiện đại:

Thế có lần nào, bạn mong nghe bước Người đến

Thế có lần nào, bạn mong xem bóng dáng Người

Thế có lần nào, thế có lần nào, ngàn năm qua bao ngàn năm

Người đã đến nhưng Người phải ra đi.

(Bước Người Đi Qua)

Với khả năng và phương tiện giới hạn, mục Thánh Ca Vào Đời Midi này là một đóng góp nhỏ vào việc bảo tồn những tác phẩm có giá trị nghệ thuật và tinh thần. Internet là môi trường rất thích hợp với nhạc Thánh Ca Vào Đời, đó là sự nối dài của phụng vụ, của sự tiếp cận hằng ngày với Thiên Chúa. Nếu bạn nghe những bản nhạc midi này, bạn đừng quên đọc những lời ca. Biết đâu một lúc nào đó, những lời ca này sẽ giúp bạn có một cái nhìn đổi mới về nhiều điều trong cuộc sống. Đó mới là ý nghĩa đích thực và là giá trị của Thánh Ca Vào Đời.

Nguyên An

(xem thêm các bài cùng một dạng, xin mời vào:

www.suyniemloingai.blogspot.com

www.chuyenphiemdaodoi.blogspot.com )

Tuesday, 29 December 2009

Gs Nguyễn Ngọc Lan: Chúa Thánh Thần Đấng thường trực


[Cv 2,1-11]


“ Thoạt tiếng ấy vang ra, thì cả đám đông cùng nhau tuôn đến (…). Mọi người đều chưng hửng, ngơ ngác, người này nói với người nọ : “thế nghĩa là gì ?” (Cv 2, 6-12).

Hôm nay cùng với toàn thể Hội Thánh mừng Mầu nhiệm Hiện xuống có lẽ mỗi Kitô hữu cũng cần tự hỏi lòng tin như vậy : “thế nghĩa là gì ?”

Chúa Thánh Thần có lẽ còn là một kẻ xa lạ trong tâm tư chúng ta, hay có khi trong não trạng của cả một giáo đoàn. Chúng ta đã học quá vội vàng một chương sách giáo lý về Chúa Thánh Thần ngày chúng ta chịu phép Thêm Sức. Rồi từ đó có lẽ Chúa Thánh Thần đã thành một ông khách quý ghé thăm một lần xa xưa mà không để lại địa chỉ. Thậm chí còn có thể tưởng tượng là Chúa Thánh Thần đã đến có một lần rồi đi trong Hội Thánh. (Ngoài những kinh phụng vụ, mấy khi lời giảng dạy nhắc tới Chúa Thánh Thần ?!).

Nhưng lịch sử Hội Thánh từ những ngày đầu đời Chúa Yêsu cho đến những tháng năm hào hứng nhất của các tín hữu buổi sơ khai là một chuỗi dài những tác động Chúa Thánh Thần.

Dưới ngòi bút thánh sử Luca chẳng hạn, mấy chữ “đầy Thánh Thần” đã thành như một điệp khúc trở đi trở lại mãi từ đầu Tin Mừng cho đến Cuối Công Vụ Các Tông Đồ.

Ngay từ trong lòng mẹ, Yoan Tẩy Giả đã nhảy mừng vì con được đầy Thánh Thần mà mẹ cũng được đầy Thánh Thần (Lc 1,15; 1,41). Zacharia, thân phụ của Yoan cũng vì bỗng chốc được đầy Thánh Thần, nên đang câm mà cất tiếng ca chuyện ngàn đời của Thiên Chúa (Lc 1,67). Trinh Nữ Maria thụ thai cách nhiệm lạ cũng là bởi “Thánh Thần sẽ đến trên người và quyền năng Đấng Tối Cao trên Người rợp bóng” (Lc 1,35). Về sau, khi bước lên đường rao giảng Tin Mừng, chính Chúa Yêsu cũng đã đầy Thánh Thần (Lc 4,1).

Sau khi về Trời, Ngài đã thực hiện lời hứa trọng đại nhất, nên ngày Hiện Xuống cũng như vào một dịp họp kinh khác, tất cả các Tông Đồ đã được đầy Thánh Thần (Cv 2,4 và 4,31). Khi cần chọn các phụ tế, Hội Thánh lúc bấy giờ đã tìm được bảy người “đầy Thánh Thần” (Cv 6,4). Phêro, “vô học thức và thuộc lê dân” (Cv 4,13) nhưng “được đầy Thánh Thần” (Cv 4,8) đã lên tiếng trước công nghị, tuyên xưng Chúa Kitô rồi bất chấp mọi lời đe dọa, quả quyết là sẽ tiếp tục vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời ai khác : “Chúng tôi không thể không nói!” (Cv 4,16-20). Đến lượt Stêphanô, một trong bảy phụ tế kia cũng là vị tử đạo đầu tiên, đã được đầy Thánh Thần, trự thị nhìn lên trời, làm chứng về vinh quang Chúa Kitô để rồi bị lôi ra ngoài thánh ném đá đến chết (Cv 7,55-60). Ở Đama, Hananya được sai đến với Phaolô là để Phaolô “lại được thấy và được đầy Thánh Thần” (Cv 9,17). Rồi “người ta đã sai Barnaba đi Antinôkia… ông là một người tốt lành, đầy Thánh Thần và lòng tin” (Cv 11,24). Nhưng lòng tin, niềm vui không ai giật mất được (Ga 16,22) cũng gắn liền với ơn được đầy Thánh Thần. Trong công cuộc rao giảng Tin Mừng tại Antiôkia, khi Phaolô và Barnaba bị trục xuất do âm mưu sách động của người Do Thái, hai ông đã “rũ bụi phủi chân trả lại, rồi đi đến Ikonium” mà vẫn cứ “đầy niềm vui và Thánh Thần” (Cv 13,52).

Đầy Thánh Thần phải kể là toàn thể Hội Thánh như khi Công Vụ ghi nhận : “Hội Thánh đã được bình an trong toàn cõi Giuđê, Galilê và Samari, được tài bồi thêm mãi, được tiến đi trong sự kính sợ Chúa và tràn trề sự an ủi của Thánh Thần” (Cv 13,52).

Thậm chí Thánh Thần còn bất chấp mọi thứ qui định thói quen, thủ tục, lễ nghi mà tràn cả ra… lòng lề đường của Hội Thánh : “Phêrô còn đang nói các điều ấy, thì Thánh Thần đã xuống trên mọi kẻ đang nghe lời” (lần đầu tiên !). “Các tín hữu thuộc giới cắt bì, những người đã đến làm một với Phêrô đều kinh ngạc, vì ơn Thánh Thần đã đổ xuống trên cả dân ngoại : bởi họ nghe những điều ấy nói bằng các thứ tiếng. : “Nào ai có thể ngăn cấm những người này chịu thanh tẩy, những kẻ đã chịu lấy Thánh Thần một thể như chúng ta ? và ông ra lệnh thanh tẩy họ nhân danh Đức Yêsu Kitô” (Cv 10,44-88).

Như vậy Thánh Thần đã luôn có mặt và tác động trong cuộc đời Chúa Yêsu rồi trong đời sống Hội Thánh. Ngài là Đấng thường trực. Là Đấng quá quen thuộc trong sinh hoạt của Hội Thánh. Là sức sống của Hội Thánh. Ngày Hiện Xuống hôm nay, Ngài đến, ai có quyền hỏi tên hỏi tuổi của Ngài? Có phải hỏi, có phải ngạc nhiên là phải tự hỏi tại sao lần này Ngài lại đến như cuồng phong, như lửa cháy, như động đất động trời và phi thường như thế ? Và tại sao thánh sử Luca rồi Hội Thánh đã đề cao cách đặc biệt tầm quan trọng như có một không hai của lần Thánh Thần hiện xuống này?

Phải chăng vì hôm nay là ngày Thánh Thần công khai đảm trách đoàn người theo Chúa Kitô, ban cho họ quyền năng, sức mạnh của Ngài để họ làm thành Hội Thánh và tung Hội Thánh ra giữa loài người?

Có chiêm ngưỡng mầu nhiệm hôm nay, mới thấy được chân tướng của Hội Thánh như Thánh Thần đã và vẫn còn muốn đưa ra giữa lòng đời chứ không như sự thiếu lòng tin và óc thế gian của các Tông Đồ trước đó và của các Kitô hữu về sau vẫn dễ bề uốn quanh, bẻ ngược lúc này, lúc khác.

Ngài đến công khai đảm trách đoàn người tin ở Chúa Kitô, để thực hiện lời hứa : “Ta ra đi thì ích lợi hơn cho các ngươi; và nếu ta không trẩy đi, thì Đấng bầu chữa không đến cùng các ngươi. Còn nếu Ta đi, Ta sẽ sai Ngài đến cùng các ngươi” (Ga 16, 7)

Chúa Yêsu cần phải ra đi, Thánh Thần mới đến được, đó là một điều kỳ lạ, một trong những mầu nhiệm của lịch trình Cứu rỗi. Chúa Yêsu lại rõ rang muốn nhấn mạnh điều đó : Ta đi “thì ưu phiền tràn ngập lòng các ngươi. Song Ta nói thật với các ngươi …”

Điều đó thật lạ lùng, nhưng một phần nào có thể hiểu được là Chúa Yêsu có ra đi thì mới rảnh chỗ cho Thánh Thần, rảnh chỗ trong lòng Hội Thánh. Vì thật mỉa mai, bao lâu còn thầy được Chúa Yêsu, đoàn người theo Ngài đã còn tiếp tục mân mê, nuôi dưỡng cái mộng quyền hành thế lực chính trị, làm vua làm chúa thiên hạ. Trong đoạn Công vụ đọc trong lễ Chúa Yêsu lên Trời, vẫn lại có cái câu hỏi khốn khổ cho đến phút cuối cùng kia còn trở lại đầu môi các Tông đồ như bởi một chứng ngứa miệng kinh niên : “Lạy Chúa, có phải thời này là lúc Ngài khôi phục lại vương quyền cho Israel không?” (Cv 1,6). Các ông quả là phi thường : sau bao nhiêu chuyện các ông đã nghe, đã thấy, đã tham dự, nhất là sau khi Chúa sống lại, cho đến phút cuối cùng ấy các ông vẫn tỏ ra sẵn ham muốn làm quan hơn là đủ lòng tin vào Chúa Kitô. (Như thế thì ai còn dám tự hào là không bao giờ bị cám dỗ như các Tông Đồ mà lạm dụng danh Chúa, đầu cơ đạo để cũng cố địa vị, để ăn to làm lớn?). Dẫu sao để đáp lại câu hỏi khốn khổ kia, Chúa Yêsu đã rất dứt khoát : không phải quyền thế trần gian sẽ được ban cho họ mà là “quyền năng Thánh Thần đến trên” họ.

Chính quyền năng ấy là quyền năng ngày hôm nay, ngày Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần đã đem đến cho Hội Thánh và chỉ đem đến quyền năng duy nhất ấy, với sức lay động và chuyển thông.

Sức lay động vì Chúa Thánh Thần đã đến “như thể cuồng phong thổi đến, vang dậy đầy cả nhà”. Ghế bàn không bay bổng, tường mái vẫn nằm yên, nhưng lòng người đã được lay động. Người tín hữu đầy Thánh Thần không nhất thiết phải hoàn hảo trong một lúc như thánh nhân đã thành tượng trên bàn thờ. Bảo là các Tông Đồ ngày Hiện Xuống được thay đổi từ đâu đến chân là một chuyện hoang đường. Năm ba năm sau ngày Hiện Xuống, Thánh Phêrô vẫn chứng nào tật nấy, còn có dịp tỏ ra hèn nhát sợ dư luận, khiến Thánh Phaolô đã phải nặng lời chê trách “trước mặt mọi ngươi” (và còn kể lại trong GL 2,14) : “Nếu ông, một người Do Thái, ông còn sống như người ngoại…”. Quyền năng Thánh Thần không phải là để phân phát hào quang trên đầu chúng ta. Quyền năng ấy như cuồng phong đã lay chuyển, xô đổ được thái độ cố thủ của các Tông Đồ, cái óc ăn trên ngồi trước của họ, cái mộng thế lục chính trị của họ. Quyền năng ấy như cuồng phong đã làm bật các ổ khóa, các cửa to cửa nhỏ của ngôi nhà các Tông Đồ ẩn náu, tung họ ra ngoài cái thứ lô cốt hay pháo đài ấy, để họ hai tay không, không gươm giáo (không cả máy khuếch âm, loa phóng thanh) đi vào giữa đại chúng loài người.

Ngày nay vẫn thế, tín hữu đầy Thánh Thần là con người được lay động. Họ có thể mang nặng những thành kiến, yếu đuối, ngờ vực và cả những hèn nhát nữa. Nhưng họ sẽ làm chứng cho quyền năng Chúa Thánh Thần tùy theo mức độ họ chịu để Ngài lay động mà không tự mãn nằm ỳ trong những thành kiến, yếu đuối, ngờ vực, hèn nhát kia.

Họ để lòng mình được Thánh Thần lay động, cảnh tỉnh ngay trong Đức Tin để không thỏa mãn với một Đức Tin hình thức, tiện lợi, làm bằng nhiều công thức, danh từ kêu vang hơn là bằng những mầu nhiệm ăn nhập vào trong đời sống, nhào trộn với mồ hôi nước mắt. Ngay cả trong Đức Cậy để biết cắn răn mà trông cậy vào cuộc đời, khi thời cuộc dồn vào những cảnh tuyệt vọng. Ngay cả trong Đức Mến để không tự ru ngủ mình bằng một thứ tình thương có lề lối công tác vạch sẵn và tính giờ được.

Sức chuyển thông vì như lửa nổ tung tóe trong ngày Hiện Xuống. Lủa không bao giờ thành một món đầu cơ hay độc quyền. Lửa tự phân phát, tự hiến bao nhiêu cũng được mà không phải thiệt thòi gì. Trái lại lửa có lan ra, có tự hiến, tự phân phát mới khỏi tắc nghẹt. Vì thế ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn, đóng hộp Đức Tin không phải là thượng sách để bảo vệ Đức Tin. Đã mang lấy lửa Ngày Hiện Xuống thì bất kỳ giáo đoàn nào, cũ hay mới, đông hay ít, hễ cứ đóng chặt cửa lại, làm thành khối ở trong lô cốt là chỉ có việc chờ ngày tắt thở nếu không phải là đã phản bội bản chất Tin Mừng ngay từ đầu rồi. Chẳng cần đợi bị ai bắt bớ. Vì nói cho ngay, chỉ từ khi Hội Thánh sơ khởi được Chúa Thánh Thần đẩy ra ngoài đường (sống giữa lòng đời, “trong thế giới ngày nay” như được khẳng định từ đầu Hiến chế Mục vụ của Công đồng Vatican II, chứ không phải chỉ giữa lòng Đế quốc Rôma hay giữa lòng dân tộc Do Thái) thì Hội Thánh mới thực sự khiến cho quyền lực thế gian từ công nghị Do Thái đến đế quốc Rôma nghi kỵ và bách hại.

Mãi mãi Hội Thánh vẫn sống động như Ngày Hiện Xuống, và còn làm chứng cho quyền năng Chúa Thánh Thần bao lâu còn có người tín hữu biết rằng mình chỉ được cứu rỗi bằng cách được cứu rỗi với người khác, họ đạo mình chỉ được cứu rỗi bằng cách được cứu rỗi với các làng mạc khu phố xung quanh, cả một Giáo Hội chỉ được cứu rỗi khi nào thoát ra khỏi thái độ tự vệ của một khối, một phe đảng để hòa mình vào đại đồng nhân loại, đón nhận, mời gọi tha nhân không trừ một ai, một hạng người nào vì Nước Chúa giữa trần gian không hề chấp nhận một biên giới nào ngoài não trạng biệt phái của chính những người gọi là có đạo.

Chính vì sức lay động và chuyển thông vô hạn ấy mà Ngày Hiện Xuống đã có cảnh chân thật, đẹp đẽ nhất của Hội Thánh : các Tông đồ, chị một nhúm người vô nghĩa mà đã dám ra đứng giữa “cả đám đông cùng nhau tuôn đến” để làm chứng cho Tin Mừng Chúa Kitô. Được lay động, được đầy lửa Thánh Thần , Phêrô, Yoan, Yacôbê, Anrê, Philip, Tôma, Mát-thêu… tất cả cùng lên tiếng “cao rào những kỳ công của Thiên Chúa”. Đã trở thành cỗ lỗ, đã xa rồi cái cảnh Phêrô tưởng bảo vệ Chúa, bảo vệ nước trời bằng cách hùng hùng hổ hổ rút gươm “chặt phăng mất tai” một tên trong bọn người đến bắt Chúa Yêsu (Mt 26,51 ; Ga 18,10)

Ngày nay Hội Thánh vẫn chỉ có một sức mạnh đặc biệt ấy của mình, tức là “quyền năng Thánh Thần”, vẫn còn được ban từng ngày và mãi mãi cho Hội Thánh. Những cá nhân Kitô hữu cần bảo vệ miếng đất, mảnh vườn của mình, quyền lợi nọ quyền lợi kia của mình, thậm chí mạng sống của mình bằng những phương tiện chính trị, bằng thế lực, lực lượng chính trị đó là chuyện riêng của họ. Nhưng đừng ai nỡ hạ giá Hội Thánh xuống hàng một công ty, một đồn điền cao su và đòi bảo vệ Hội Thánh bằng một sức mạnh nào ngoài quyền năng của Thánh Thần. Ngày mừng Mầu Nhiệm Hiện Xuống hôm nay, lòng tin phải chọn lựa giữa Lời của Chúa, tinh thần Tin Mừng của Chúa và những tính toán của con người, cái chứng ngứa ngáy “vương quyền trên Israel”.

Quyền năng Chúa Thánh Thần là giữa một trần gian điêu đứng vì tội lỗi, chia năm sẻ bảy vì những tư lợi ích kỷ, có một dân vô biên giới đứng lên tuyên xưng hồng ân tha thứ của Thiên Chúa và sống chết trong ơn huệ ấy. Quyền năng Chúa Thánh Thần là giữa thế gian đầy tranh chấp hận thù làm nặng gánh tuyệt vọng của loài người, có một dân vô biên giới đứng lên tuyên xưng Thiên Chúa là Cha và làm chứng cho tình thương của Ngài đối với tất cả mọi người.

Quyền năng của Thánh Thần là một Hội Thánh không bao giờ chịu đóng chặt cửa lại để an hưởng hay cố thủ nhưng ra khỏi mọi tháp ngà, mọi lô cốt để rao truyền Tin Mừng trong tất cả ngôn ngữ Anh, Nga, Trung Hoa, Pháp, Nhật, cho tất cả mọi người. Là một Hội Thánh có thể bị ghét bỏ mà không ghét bỏ ai, có thể bị coi là kẻ thù mà không coi ai là kẻ thù, và nhất là một Hôi Thánh biết tin cậy ở Chúa Thánh Thần, không rụt rè trùm chăn mà dám lăn xả vào giữa cuộc sống muôn mặt của thời đại và thích ứng, tiến tới với thời đại, sống thực sự “trong thế giới ngày nay”.

Quyền năng Chúa Thánh Thần, ngày hôm nay, giờ phút này, vẫn còn được ban cho Hội Thánh, vẫn còn làm sức sống của Hội Thánh. Với những điềm thiêng, dâu lạ, những kỳ công mới mẻ mãi của Thiên Chúa. Không phải là chuyện chuyển núi dời song. Chuyện này từ xưa các Pha-ra-ông của Ai-cập chẳng hạn đã làm được khi trưng dụng hàng vạn nô lệ vào việc phá núi, chuyển đá, dựng lên các Kim tự tháp. Và ngày nay mìn nổ, máy xúc đất, máy hút bùn, cần trục thừa sức làm hơn các Pha-ra-ông. Nhưng không một sức mạnh nào của khoa học kỹ thuật, của quyền lực thế gian làm mềm được trái tim con người đã thành sắt đá, chuyển dời lòng dạ con người từ cõi âm u lạnh nhạt hay hận thù qua miền ánh sang của tình nghĩa, của yêu thương.

Chỉ quyền năng Chúa Thánh Thần, chỉ sức mạnh của lòng tin bằng hạt cát ngày hôm qua cũng như ngày hôm nay có thể khiến một Pha-xi-cô sau khi trút bỏ tất cả chạy nhảy tung tăng khắp các đường phố. Có thể đẩy một cha Kolbe bước lên được mấy bước để lãnh cái chết thay cho một người bạn tù. Có thể đưa một bà cụ trên 80 tuổi như mẹ Tê-rê-sa Calcutta tiếp tục đi hết nước này đến nước khác kể cả Việt Nam, Tp, Hồ Chí Minh này như hồi đầu tháng Tư 1994 để phục vụ những con người khốn khổ nhất. Có thể khiến một Dì Hai Bến Sắn chỉ nắm lấy tay nói một lời là đưa được anh người phong nào đó, “dữ lắm, không vừa ý ai anh cắn, ngay cả đến cảnh sát cũng chịu thua anh” từ chợ Bến Thành trở về trại Bến Sắn. Sau ngày Hiện Xuống, Phêrô “cầm lấy tay phải (người nọ què từ lòng mẹ sinh ra), cho nó chỗi dậy nhảy vùng lên và đi lại được” (Cv 3,1-9) thì cũng đã không làm phép lạ lớn hơn!

Chỉ quyền năng Chúa Thánh Thần, chỉ sức mạnh của lòng tin bằng hạt cát, ngày hôm nay mới có thể khiến từng em bé bẻ đôi chiếc bánh ngọt chia cho bạn mình ở sân trường, từng người hàng xóm vượt qua được khoảng đường hẻm, có khi chỉ rộng một hai mét nhưng sẵn tỵ hiềm cao hơn núi nghi kỵ sâu hơn song, để chào hỏi người hàng xóm ở căn nhà đối diện mình. v.v…

Chúa Thánh Thần cũng là ngày hôm qua, hôm nay và ngày mai.

Không chỉ là khách quý một Ngày Hiện Xuống mà là đấng thường trực trong Hội Thánh, điều kiện cần và đủ để Hội Thánh mãi mãi còn là Hội Thánh Chúa Kitô :

“Nếu không được Thánh Thần giúp sức cho, không ai có thể nòi rằng : Đức Yêsu là Đức Chúa. Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thánh Thần… Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thánh Thần duy nhất” (1Cr 12,3b-13).

Gs Nguyễn Ngọc Lan

(Xem thêm các bài cùng một dạng, xin mời vào:

www.suyniemloingai.blogspot.com

www.chuyenphiemdaodoi.blogspot.com )

Sunday, 27 December 2009

Lm Vũ Khởi Phụng CSsR: “KHÔNG CƯỠNG LẠI, CŨNG CHẲNG THÁO LUI”



( Is 50, 5 )

Chuyến về thăm quê hương Bavaria của Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI đã kết thúc không được bình an như dự kiến. Lời nói của vị hoàng đế thế kỷ XIV mà Đức Thánh Cha trích dẫn trong khi diễn thuyết ở đại học đã làm cho thế giới Hồi Giáo phẫn nộ. Vài hôm nay ngày nào cũng thấy những bộ mặt giận dữ xuất hiện trên các chương trình thời sự truyền hình với những lời lẽ rất miệt thị đối với Đức Thánh Cha. Vô tình một lời trích dẫn có tính cách rất hàn lâm lại phát động một cơn bão táp lớn trong tương quan giữa Hồi Giáo và Công Giáo. Có thể nói đây là cuộc khủng hoảng lớn đầu tiên trong triều đại Giáo Hoàng của Đức Benedicto XVI.


Người ta có thể bàn cãi xem khi trích dẫn lời của vị hoàng đế ngày xưa, con người giáo sư đại học Joseph Ratzinger có làm hại ngôi vị Giáo Hoàng của Đức Benedicto XVI hay không ? Nhưng có 3 điều chắc chắn:


1. Đức Thánh Cha cho thấy rõ đó là tư tưởng của vị hoàng đề ấy, chứ không phải tư tưởng của ngài.

2. Chắc chắn Đức Thánh Cha vẫn tôn trọng Hồi Giáo và không hề có ý bôi đen tôn giáo này.

3. Điều ngài kêu gọi mọi người là đừng để Đức Tin tôn giáo làm cớ cho việc sử dụng bạo lực.


Vậy tại sao nhiều tín đồ Hồi Giáo phản ứng dữ dội như vậy ? Ở đây có một vấn đề tế nhị về tâm lý của quần chúng Hồi Giáo ở nhiều nước. Có những điều chỉ là sự phân tích, nghiên cứu học thuật ở mọi nơi khác, thì trong những giới Hồi Giáo ấy lại là sự cấm kỵ, vì nó đụng chạm không chỉ đến một tình cảm tôn giáo, mà cả một cõi u uất sục sôi, được nung nấu bởi hoàn cảnh lịch sử, khiến cho biến thành một thứ chất nổ mà người ngoài không thể dùng những tiêu chuẩn mình cho là khách quan để lý giải được.


Nhìn nét mặt của những người biểu tình, tự nhiên ta cảm thấy mình mắc tội hoài nghi, không biết họ có hiểu Đức Thánh Cha nói gì hay không và mạch tư tưởng của ngài thế nào.


Điều đáng buồn là Đức Thánh Cha có chủ ý cổ võ cho hoà bình, đối thoại, tương thân tương ái, nhưng người ta lại hiểu đó là những lời lăng mạ. Thế mới biết hiểu nhau là chuyện khó đến mức nào. Và để xuyên thủng được trường thành hậm hực và uất hận thì phải trả giá đắt biết bao nhiêu. Ai đã đọc, đã nghe Đức Benedicto XVI, hẳn có ấn tượng về một thế giới tư tưởng cái gì cũng sáng, cũng rõ, cũng trong suốt. Ngày nay thế giới tư tưởng ấy đụng phải một hành tinh khác, không chỉ được cấu tạo bởi ánh sáng bình an của trí tuệ, mà còn ngùn ngụt những hoả nộ xung thiên.


Dĩ nhiên Đức Thánh Cha là người buồn nhất. Xét cho cùng, nếu vì một lời nói tình ngay mà tự ái của người ta bị xúc phạm, nhất là nếu tự ái ấy đã bị xát muối quá nhiều trên dòng lịch sử, thì đưa ra một lời xin lỗi cũng chẳng có gì là quá đáng. Nhưng quan trọng hơn là những hậu quả không đáng có trong một thế giới đã quá nhiều chia rẽ, hận thù, bạo lực và khủng bố.


Khi được bầu lên Tòa Phêrô, Đức Joseph Ratzinger đã chọn danh hiệu Benedicto XVI để kính nhớ Đức Giáo Hoàng Benedicto XV ( 1914 – 1921 ) vị Giáo Hoàng hồi Thế Chiến thứ nhất đã ra sức kêu gọi hoà bình, nhưng chỉ thu được toàn những lời đả kích của cả hai phe lâm chiến, vì phe nào cũng muốn đè bẹp phe kia cho đến cùng. Ngày ấy, các giới chính trị cũng như báo chí Pháp – Đức đã dùng những lời lẽ và luận điệu tệ hại để phỉ báng Đức Thánh Cha. Cả đến các giới Công Giáo của hai nước, thậm chí cả những vị Giáo Phẩm, cũng ra mặt chống đối. Chỉ đến khi cơn cuồng sát qua đi, nhìn lại lịch sử, người ta mới nhận ra chỉ có một Benedicto XV là người trước sau như một, kiên trì yêu mến và vận động hoà bình. Ngày nay, chắc chắn Đức Benedicto XVI nhớ đến thân phận của vị tiền nhiệm.


Sáng nay, Chúa Nhật 24 Quanh Năm B, hẳn là tâm trí Đức Thánh Cha bận bịu nhiều về vụ này. Ta có thể hình dung Đức Benedicto cử hành Phụng Vụ Chúa Nhật, và Lời Chúa trong sách Ngôn Sứ I-sai-a ( bài đọc thứ nhất ) vang lên trong tâm hồn ngài:


“Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi,
còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.
Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn,
giơ má cho người ta giật râu.
Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.
Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi,
vì thế, tôi đã không hổ thẹn,
vì thế, tôi trơ mặt ra như đá.
Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.
Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên.
Ai tranh tụng với tôi ? Cùng nhau ta hầu toà !
Ai muốn kiện cáo tôi ? Cứ thử đến đây coi !
Này, có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi,
ai còn dám kết tộI ?...”
( Is 50, 5 – 9a )


Thiên Chúa là Đấng có thể biến sự dữ thành sự lành. Đức Benedicto XVI chắc chắn sẽ còn nói nhiều về đức tin và hoà bình, nhân ái. Biết đâu những chuyện lộn xộn mấy ngày qua lại chẳng mở đầu cho một chặng đường có phần gian khổ, nhưng là đường đưa người ta đến hiểu nhau và bình an ?


Vũ Khởi Phụng, CSsR

(2006)

(Xem thêm các bài cùng một dạng, xin mời vào:

www.suyniemloingai.blogspot.com

www.chuyenphiemdaodoi.blogspot.com )

Saturday, 26 December 2009

Lm Richard Leonard, sj: Thánh Gia là gia đính thánh?

Mai Tá phỏng dịch


Ngược giòng lịch sử, ta thấy nghệ thuật dân gian tạo hình nơi nhà Đạo, ít quan tâm đến chi tiết của gia đình. Chí ít, là gia đình lành thánh. Rất hiển vinh.


Thời Trung cổ, người ta càng có thói quen tạo hình chạm khắc rất đẹp về gia đình lành thánh. Lý tưởng. Thánh Giuse, vị gia trưởng, trông như ông cố đạo, già đến tám mươi. Lụ khụ, đứng ngồi không vững chắc. Còn Đức Maria, trông như thiếu nữ trẻ. Đẹp mặn mà. Tuổi chừng mười tám. Và, Giêsu Đức Chúa, với mái tóc hoe vàng gợn sóng, ánh đăm chiêu nơi khoé mắt. Luôn mỉm cười hiền hậu, rất hiển vinh. Thế đó là gia đình lành thánh. Lý tưởng. Gương mẫu.


Lành thánh - lý tưởng, là đặc trưng đặc sủng của gia đình dân con đi Đạo. Tuy thế, Thánh kinh vẫn bộc lộ cho mọi người biết: các vị trong gia đình lành thánh thuộc lớp nghèo thị thành. Các ngài, từng biết thế nào là di tản. Từng trải nghiệm cảnh “ăn xổi ở thì”. Sống lang thang. Ở tuổi vị thành niên, Đức Chúa biến đi đâu mất, đến vài ngày. Khiến mẹ cha, “mất hồn” cứ loay hoay. Đi ra đi vào. Luôn kiếm tìm.


Nói chung, gia đình lành thánh – lý tưởng, lúc nào cũng dầy dạn kinh nghiệm xót xa. Đau thương. Bức xúc. Bởi thế nên, khi sắp đặt lớp hào quang rực sáng đặt lên đầu gia đình các Đấng bậc rất thánh, càng khó cho ta khi liên tưởng đến các gia đình lành thánh, ở thế trần. Chốn dân gian, ngoài đời.


Muốn được gọi là lành thánh, các gia đình nhà Đạo phải biết sống độ lượng. Biết yêu thương đùm bọc, hết mọi người. Bie61t sống vững niềm tin nơi Đấng Nhân Hiền. Bie61t, thờ phượng Chúa. Theo ngôn ngữ nhà Đạo, định nghĩa về gia đình an toàn lành mạnh phải có gốc gác tổ tiên, lý lịch. Thật trong sa1ng. Và, thế giới hôm nay, hơn khi nào hết. Rất cần gia đình sống theo gương gia đình rất thánh.


Tuy biết thế, các gia đình thời nay thường phải đấu tranh thi đua, lo sinh sống. Vẫn có nhiều rủi ro. Gãy đổ. Dù đã sống những năm dài, hạnh phúc. Ngày nay, hầu hết các gia đình phải chịu áp lực từ nhiều phía. Cả từ phía xã hội phức hợp. Lân bang. Họ hàng. Thân tộc. Cơ ngơi hạnh phúc của nhà nhà, vẫn có thể là chốn an sinh thường ngày, trong phạm vi gia đình. Vẫn có thể, xảy đến những lạm dụng thể xác, dục tình. Long đong. Trục trặc.


Hôm nay, với lối sống nối kết, ràng buộc. Giàu sang. Tạm bợ. Thương mại – kỹ thuật và truyền thông hiện đại, thật khó lòng giữ trọn nề nếp của gia đình lành thánh, có lý tưởng. Chẳng thế mà, khi trả lời các khảo sát về điều kiện cần có để trở thành một gia đình an vui lành mạnh, người người đều tỏ bày rằng: chìa khoá giải mã cho mọi khó khăn, chính là: sự tha thứ. Trong khi đó, kỹ nghệ quảng cáo, phim ảnh nghệ thuật vẫn dựa trên những biện luận của phim Love Story với thách đố, phân bua bảo rằng: “Đã yêu là không được nói đến thứ tha!”, hoặc: “xin lỗi”.


Với tín hữu Đạo Chúa, sự thật quả rất khác. Yêu là phải biết thân thưa: “Xin miễn lỗi!” Và, người nhà trong gia đình luôn thật tâm tha thứ. Tha thứ, cho những sơ xuất. Lỗi lầm. Quả là, trong cuộc sống thực tế ở gia đình, một trong những cụm từ khó thốt nên lời, trước tiên vẫn là câu: “Con yêu ba…” hoặc: “Bố rất thương con!” Sau đó, mới đến lời : “Bố xin lỗi!” “ Con xin lỗi ba”…


Về khuôn khổ gia đình, rất hiếm trường hợp mà người cha – người con, có thể trao đổi với nhau bằng những lời âu yếm thân thương. Càng hiềm hơn, khi đó là ngôn ngữ đối thoại giữa cha-con, không đồng phái tính. Với tuổi tác chênh lệch, lại càng khó. So với tình mẫu tử, tình thân thương phụ tử ít khi được biểu lộ cách công khai. Bằng lời. Nhất là, trong các gia đình Châu Á. Rất Việt Nam.


Với những vấn đề phức tạp, không ai đủ can đảm tự cho rằng: mình có thể dễ dàng nói lời tha thứ, hoặc bỏ qua mọi lỗi lầm, của người khác. Nhất thứ, khi có những va chạm về quan điểm lập trường, quanh lối sống. Hoặc, nơi có những ngăn cách giữa cách ngăn thế hệ. Trên thực tế, biết nói lời “xin lồi” hoặc: “thứ tha”, vẫn là những chuyện cần làm. Và, phải làm ngay không nên chậm trễ. Bởi trong gia đình người đi Đạo, việc tha thứ nhau trong tương quan cha/con – con/cha vẫn là chuyện cần làm. Nếu muốn theo bước chân mềm mẫu mực, của Đức Chúa. Là, Cha Nhân Hiền đối với người con, là loài người. Càng cần hơn, khi người tín hữu muốn sống đời gia đình có tương quan cha-con, thật lành thánh. Lý tưởng.


Ở xã hội tiên tiến hôm nay, hành vi trả đũa và chọc tức/xúc phạm lẫn nhau đã trở thành “chuyện thường ngày ở huyện”, thì đây chính là vấn đề. Vấn đề đối kháng với những gì Đức Chúa dạy dân con ngoan hiền phải cư xử với người cha, trong gia đình. Sống thứ tha. Sống biết yêu thương. Đùm bọc. Biết vui hưởng bầu khí thân thương như gia đình, lành mạnh. Rất thánh thiện.


Cầu mong sao, các gia đình dân con đi Đạo, có được lòng quả cảm. Dám đổi thay những gì còn tồn đọng. Cần chuyển biến. Cầu và mong sao ta có được sự thông minh sáng suốt, nhận ra được các đặc thù của tình Chúa là Cha với loài người là con, để làm đẹp hơn nhiều, tình phụ tử cha/con, trong gia đình. Chốn gian trần.


Lm Richard Leonard sj

Mai Ta phỏng dịch.

(Xem thêm các bài cùng một dạng,

Xin mời vào:

www.suyniemloingai.blogspot.com

www.chuyenphiemdaodoi.blogspot.com )

Friday, 25 December 2009

Gs Nguyễn Ngọc Lan: Dấu hiệu, biểu tượng rõ rệt nhất của tình thương Thiên Chúa



Nói đến Rất Thánh Trái Tim Chúa Yêsu thì có lẽ điều đầu tiên đáng nói lại là trái tim không nhất thiết là dấu hiệu, biểu tượng của yêu thương. Đã xưa rồi cái thời viết thư tình là cứ vẽ thêm một hay hai quả tim. Còn hiện giờ không gì rởm bằng câu hát… “một trái tim mùa đông” ồn ào nhất của nhạc kẹo kéo. Người ta chứng tỏ và bày tỏ tình thương bằng trăm ngàn cách đích thực hơn là đem trái tim ra bày hàng.


Người Việt Nam lại không quen gửi gắm gì cho tim vì tất cả đều nằm sẵn cả trong… bụng.


Bụng dạ. Bụng bảo dạ rằng : tốt xấu đều là tốt bụng hay xấu bụng, to gan lớn mật, cả gan, gan dạ, gan lì, gan sắt, gan đất hay nhát gan, rộng bụng hay hẹp bụng, bụng dạ nhỏ nhen, tất cả đều là bụng với dạ, cho nên bụng làm dạ chịu. Vui trong bụng hay phỉ dạ mà cũng buồn trong bụng hay xót dạ. Chắc dạ hay non dạ để cứ vững dạ hay dễ chột dạ. Tức mà không lộn ruột thì cũng lộn gan. Còn giận thì bầm gan tím ruột. Mát ruột, nóng ruột hay sốt ruột đến đâu đều không tính được bằng mấy độ C. Ruột gan rối bời hay ruột gan đau từng hồi như trong câu ca dao thì hoàn toàn không phải là chuyện cần đến thầy lang, bác sĩ. Thậm chí trí tuệ cũng không nằm trên đầu mà trong bụng luôn : sáng dạ, tối dạ, cho nên tính trong bụng mà cũng nghĩ trong bụng, nghĩ bụng và suy bụng ta ra bụng người. Yêu thầm nhớ trộm đều là giữ bụng, để bụng. Tất cả những thứ không cần đo đong đếm thì người Việt mình đều giữ bụng, để bụng được hết, đồ ăn thức uống thì lại không.


Từ ‘lòng’ ngày càng được dùng nhiều hơn, thay cho bụng và dạ. Được dùng mãi ‘lòng’ hóa ra thanh nhã hơn, có vẻ như không còn dính dấp gì đến bụng dạ, thể xác. Nhưng chỉ cần nghĩ đến ‘bộ đồ lòng’, chỉ sửa soạn thưởng thức một ‘tô cháo lòng’ là dễ nhớ ngay lòng với bụng dạ cứ là một. Không phải ở ngoài đường mà thôi, ngay cả trong nhà thờ cũng dễ nhớ như thế : “Cong lòng Bà gồm phúc lạ” (kinh Kính Mừng). Lc 1,42 : “hoa quả lòng người” [1976], “người con em đang cưu mang” [1995], “đứa con trong bụng” [1995]. Lòng, bụng, dạ quả là một. Cũng đáng chú ý là riêng trong trường hợp này, kinh Kính Mừng tiếng Pháp lại đặc biệt… gây ấn tượng : “le fruit de vos entrailles”!). Vừa bụng hay vừa lòng cũng vậy thôi. Có khác chăng chỉ là ở chỗ ‘lòng’ thường gồm cả tim nhưng vẫn không phải là phần đáng kể nhất của lòng. Cho nên có ngại nói đến ‘bụng dạ’ thì người ta vẫn vui vẻ nói về ‘lòng dạ’ hoặc cho ‘lòng’ đi đôi với ‘dạ’ mà vững lòng chắc dạ và ghi lòng tạc dạ. An lòng, bền lòng, cầm lòng, có lòng vv… rồi lòng sắt, lòng son, từ tấm lòng vàng cho đến vết thương lòng, từ lòng mẹ, lòng trinh đến lòng muông dạ thú, chữ nghĩa với ‘lòng’ thật khó kể ra hết được. Điều này chỉ càng chứng tỏ đời sống tâm linh, tình cảm, trí tuệ được người Việt mình tập trung hầu như cả vào trong bụng chứ không hẳn là trong tim hay trong đầu (cũng như người J’rai quy tất cả về tai ?).


Chúng ta có nói đến ‘tim’ như ‘nói trúng tim đen’ nhưng quả thật là rất hiếm khi và có khi lại là… theo tây : ‘tiếng nói con tim’ hoặc ‘chiếm được quả tim vàng của người đẹp’. Thường hơn một chút thì ‘tim’ không riêng lẻ mà phải là tim gan, tim lòng, ruột đau tim xót, tim cứ phải được kéo xuống bụng. Chữ ‘tâm’ thông dụng hơn hẳn nhưng lại là từ Hán Việt. Và thật ý nghĩa, thật thú vị khi thấy Việt Nam Tự điển của Lê Văn Đức – Lê Ngọc Trụ định nghĩ ‘tâm’ là tim rồi cho biết ‘nghĩa bóng’ lại là… ‘lòng dạ, bụng dạ’.


Khi Kinh Thánh nói đến ‘tim’


Tim vừa là cơ quan tập trung không chỉ riêng sức sống thể lý mà trọn cả con người (người Do Thái nhìn xác hồn một cách thống nhất hơn, không xé lẻ như Platon, nhất là trong Phédon). ‘Tim’ là nguồn gốc, cơ sở của mọi thái độ, cách cư xử của con người. Lối suy nghĩ Do Thái đặc biệt không chỉ quy về ‘tim’ đời sống tình cảm mà cả trí tuệ và ý chí nữa. Cho nên ‘tim’ là chỗ con người định đoạt về bản thân mình, đối thoại với chính mình, quan hệ vời tha nhân, đón tiếp Thiên Chúa. Chỉ ở trong tim mới phân định dứt khoát tính chất thực hư, chân thật hay giả dối của thái độ, hành động con người.


Như thế, trong ngôn ngữ Kinh Thánh, ‘tim’ không chỉ đơn thuần là hình ảnh, biểu tượng, càng không phải chỉ là hinh ảnh, biểu tượng của riêng tình cảm (như ‘tim’ trong lối suy nghĩ và diễn tả của người Âu Tây bây giờ chẳng hạn). Nói đến tim là “nói về chính con người trọn vẹn, con người từ căn cơ, cốt lõi hữu thể, nơi mà thực tại con người muôn mặt còn giữ được tính đơn nhất”. ‘Tim’, như Karl Rahner nói, là con người “ở chỗ chưa rõ nét những phân biệt xác hồn, hành động ý định, bề trong, bề ngoài” chính là trọng điểm thâm sâu này của mình mà con người còn có những quyết định, tự cởi mở hay tự khép kín”. Tim, như Karl Rahner còn nói, “chính là điểm ở đó con người, ngay tại nguồn mạch nhân cách của mình, tiếp cận với mầu nhiệm Thiên Chúa” (F. Hoffmann, Coeur, E1tude biblique, trong Encyclopedie de la Foi, 1967).


Xét chung người Do Thái khi nói đến ‘tim’ thì lại ăn ý với người Việt mình khi nói đến bụng, dạ, long, bụng dạ, lòng dạ, hơn là với người Pháp khi cũng nói đến tim. Hẳn chính vì thế mà Nguyễn Thế Tuấn đã dịch lòng hay lòng dạ hầu hết những chỗ các bản Kinh Thánh tiếng Pháp viết là Coeur, tim, mặc dù bản tiếng Việt Tân ước năm 1969 hay Kinh Thánh năm 1976 không cần phải tự xếp hạng là ‘tương đương năng động’ hay ‘tương đương hình thức’ gì hết. Tân Ước xuất bản năm 1995 cũng không làm khác. Trong cả hai bản tiếng Việt chỉ có vài ngoại lệ. Như Lc 1,66 : “mọi ngừoi nghe biết đều để tâm” [1976], “ai nghe cũng để tâm” [1995] thay vì “giữ bụng”. Hoặc Rm 8,27 : “Và Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can” [1995] thay vì “nhưng Đấng dò thấu lòng dạ” [1976]. Càng đáng chú ý là khi không viết lòng hay lòng dạ thì cả hai bản tiếng Việt vẫn không dùng từ Tim mà phải dùng từ Hán Việt tâm hoặc tâm cam (tim gan. Giả sử có viết : “Và Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tim gan” thì cũng ổn hơn là “Đấng thấu suốt trái tim”).


Kinh Thánh Cựu Ứơc và Tân Ước có hang sáu bảy trăm lần nói đến tim. Nhưng hầu hết là về con người.


Cựu Ước chỉ có vỏn vẹn 9 chỗ nói đến trái tim của Thiên Chúa : St 6,6 (“Ngài đã phải đau phiền trong lòng Ngài”); 8,21 (“Và Yavê đã nói trong lòng”); 2Sm 7,21; 1V 9,3; G 9,4; Hs 11,8 và 3 chỗ trong Gr : 15,1; 31,20 và 32,41 (Bible de Jérusalem chỉ giữ ‘coeur’ ở 32,41, diễn dịch bằng pitie ở 15,11 và đặc biệt lại thay thế bằng entrails bột lòng, lòng ở 31,20. Phải chăng nguyên cách dịch 3 chỗ này trong Gr đủ cho thấy các dịch giả pháp vẫn lúng túng với Coeur của họ? Sẵn tính khoa học từ Harvey hay giàu chất lãng mạng của thế kỷ XIX, Coeur không ăn nhằm gì mấu với tim của người Do Thái trong Kinh Thánh. Dùng từ Coeur là cứ phải giải thích rườm rà thêm.


Tân Ứơc không hề dùng từ trái tim để nói về Thiên Chúa. Có nói một lần duy nhất về Đức Maria (Lc 2,19 : “Còn Maria thì bà giữ kỹ mọi điều ấy và hằng suy đi nghĩ lại trong lòng”). Nhưng cũng tuyệt nhiên không chỗ nào nói đến ‘trái tim’ Chúa Yêsu. Kể cả trong Tin Mừng theo Thánh Yoan cũng vậy ngay trong biến cố có thể khiến nghĩ tới trái tim hơn cả. “Một ngừơi lính lấy dòng đâm cạnh sườn Ngài, và lập tức có nước và máu chảy ra”. Tác giả coi sự kiện này đặc biệt quan trọng nên mới nhấn mạnh một cách đặc biệt long trọng : “Người trông thấy đã làm chứng và chứng của người là chứng xác thực ngõ hầu cả anh em nữa cũng tin.” (Ga 19,34-35). Nhưng làm chứng và nhấn mạnh là về “nước và máu chảy ra” thế thôi, không phải chú ý đến gì khác. Vì như Nguyễn Thế Tuấn ghi chú cũng đặc biệt kỹ lưỡng : “Máu nhắc đến lễ tế của Chiên Thiên Chúa đã thi hành cách rất xác thực (Ga 1,29;6,51), có lẽ đáp lại những kẻ thông tin vào ơn cứu chuộc bằng sự chết của Chúa Yêsu. Nước chỉ sự phong phú thiêng liêng (4,7), tóm tắt trong ơn huệ của Thánh Thần (7,38t). Chúa Yêsu chết là Tảng đá Môsê đã đập và nước đã trào ra duy trì sự sống cho dân trong sa mạc. Tất cả nhiệm cục thiêng liêng mới đều xuất phát từ thân xác Chúa Yêsu đã chết và được tôn vinh. Các bí tích (cách riêng Thanh Tẩy và Thánh Thể) đều khơi nguồn từ Chúa Kitô chết thập giá (Rm 6,4; 1C 11,23).” Người “trông thấy và làm chứng” đã không chú ý đến gì khác thì người đọc Tin Mừng cũng không nên suy diễn hay tưởng tượng mà cho rằng lưỡi đòng kia đã phải đâm thâu trái tim, máu và nước mới chảy ra : “Theo truyền thống các Ráp-bi, nơi thân xác con người có máu và nước; hai yếu tố này trào ra khỏi con người : đó là dấu con người đã thực sự chết.” ([1995], t.480,s. Phần tiếp theo của ghi chú s này tương tự như ghi chú trên).


Tân Ước nói chung , các Tin Mừng nói riêng, đặc biệt Tin Mừng ‘theo’ Thánh Yoan, “người môn đồ Đức Yêsu yêu mến”, không cần phải chỉ riêng vào Trái Tim Chúa Yêsu để loan báo tình thương của Thiên Chúa. “Vì Thiên Chúa đã yêu mến thế gian như thế, đến nỗi đã ban Con Một của Người, ngõ hầu phàm ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi, nhưng được sự sống đời đời.” (Ga 3,16). Chính Chúa Yêsu, Con Một Thiên Chúa làm người , trọn cả bản thân Ngài với trọn cả cuộc đời Ngài là quà tặng có một không hai, đầy đủ nhất, dứt khoác nhất của Tình Thương Thiên Chúa.


Suốt thánh sử trước đó, thiên Chúa đã không ngớt ban cho thế gian, nhất là cho Dân Chúa những ơn huệ còn có thể gọi là dấu hiệu và biểu tượng của Tình Thương của Ngài. Nhưng chính Chúa Yêsu thì không phải chỉ là một ơn huệ trong hay như những ơn huệ khác, càng không phải chỉ là một dấu hiệu, một biểu tượng, một ‘hình ảnh’ nhưng là hiện thân của Tình Thương Thiên Chúa. Tin Mừng về Chúa Yêsu, về Cứu Thế Ngôn Hành (hồi các bản Tin mừng tiếng Việt chưa được phổ biến, một cuốn sách tóm lược cuộc đời Chúa Yêsu đã mang tựa đề như vậy) là Tin Mừng về chính Tình thương này. Toàn thân Chúa Yêsu đích thị là Tình thương này. Từng lời nói, từng thái độ, từng cử chỉ, từng hành động, trọn đời Chúa Yêsu đích thị là Tình Thương này, Lòng Thiên Chúa yêu mến thế gian, yêu mến loài người. Và “như Môsê giương cao con rằn trong sa mạc, con Người cũng phải bị giương cao như vậy, ngõ hầu kẻ nào tin thì nhờ Ngài mà được sự sống đời đời” (Ga 3,14-15). Chúa Yêsu chết trên thập giá, bị mà được giương cao cũng là sự mặc khải, tỏ bày Tình Thương Cứu Độ của Thiên Chúa trọn vẹn nhất, đầy đủ nhất, thấu đáo, triệt để nhất. Không còn có thể có sự mặc khải, tỏ bày nào hơn được nữa. Không còn có cách mặc khải, tỏ bày nào hơn được nữa.


Trong một hoàn cảnh, một giai đoạn nào đó của lịch sử Hội Thánh, Chúa Yêsu có hiện ra để tỏ bày Tình Thương của Thiên Chúa thì sự hiện tỏ này chỉ mang một ý nghĩa và giá trị nhất định nhưng không thể so sánh được với sự tỏ bày mặc khải trên thập giá, càng không thể thay thế được sự tỏ bày mặc khải trên thập giá.


Ai dám nghĩ rằng những Kitô hữu sống chui rúc dưới các hầm mộ xưa kia với hình ảnh người mục tử vác con chiên lạc trên vai được khắc, vẽ bằng những nét thô sơ, vụng về trên các vách đá đã không hiểu biết sâu đậm và thấm thía về Tin Mừng, về Chúa Yêsu, về Tình Thương của Thiên Chúa hơn những Kitô hữu thế kỷ thứ XVII (hay từ thế kỷ XVII) phải đợi Chúa Yêsu chỉ vào Rất Thánh Trái Tim mới biết, mới nhớ được rằng “Thiên Chúa là Lòng Mến” (1Ga 4,8)?


Mãi mãi quan trọng và thiết nhất vẫn là “Nơi điều này đã hiện tỏ giữa ta lòng mến của Thiên Chúa, là Thiên Chúa đã sai Con Một Người đến trong thế gian (…) làm hy sinh đền tạ tội lỗi ta.” (1Ga 4,9-10).


Cho đến ngày hôm nay


Chúa Yêsu, Con Một Thiên Chúa làm người là hiện thân của lòng Thiên Chúa thương yêu loài người. Ngài còn làm chứng và cho thấy Cha yêu mến Con : “Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy yêu mến anh em, Hãy lưu lại trong lòng yêu mến của Thầy.” và “Đây là lệnh truyền của Thầy : anh em hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến anh em.” (Ga 15,9.12). Kitô hữu sống và làm theo lệnh truyền của Chúa Yêsu mà yêu thương – với lòng mến “không có lòng mến nào lớn hơn” – được chừng nào thì đương nhiên cũng là tỏ bày được chừng ấy cho thế gian biết Ngài yêu mến mình như thế nào, Cha yêu mến Ngài như thế nào, Thiên Chúa đã yêu mến thế gian như thế nào.


Người ta nhìn vào một Kitô hữu thì cần được phúc thấy không phải mẫu ảnh Thánh Tâm Chúa Yêsu bằng vàng hay bằng bạc trên ngực họ nhưng là chính tấm lòng của họ yêu thương ít nhiều như Lòng Chúa. Người ta nhìn vào một gia đình công giáo thì không phải tìm xem tượng Thánh Tâm được đặt ở đâu nhưng cần thấy vợ chồng, cha mẹ con cái, anh chị em hòa thuận , thương yêu nhau và cùng nhau ‘có lòng’ với bạn bè, bà con lối xóm, với mọi người như thế nào. Người ta nhìn vào một họ đạo thì điều cho họ thấy hay thoáng thấy phần nào tình thương của Thiên Chúa không phải là những cuộc rước kiệu Rất Thánh Trái Tim Chúa Yêsu linh đình đến đâu mà là sự hiệp thông, tình huynh đệ đồng tâm nhất trí như những cộng đoàn tín hữu tiên khởi, khi mà “đoàn lũ những kẻ tin chỉ có một tấm lòng, một linh hồn” (Cv 2,42-47 và 4,32-35). Người ta nhìn vào một giáo phận, nhìn vào Hội Thánh ở một nước hay trên toàn thế giới thì cũng tương tự.


Tình thương của Thiên Chúa … Với toàn thân Ngài, bằng trọn cuộc sống Ngài, nhất là khi bị mà được giương lên trên thập giá, “máu và nước chảy ra”, Chúa Yêsu là hiện thân của Tình Thương ấy. Và lệnh truyền của Ngài là Hội Thánh, từng cộng đoàn những kẻ tin, từng Kitô hữu hôm nay cũng như hôm qua cũng như ngày mai, mãi mãi phải là hình ảnh sống động của Tình Thương ấy.


Lời Hằng Sống 1.1996, t.3 có kể lại câu chuyện một mục sư bị giam cầm trong trại tập trung hồi Đệ Nhị Thế Chiến. Bị hành hạ ngược đãi nhưng ông luôn vui vẻ tìm cách giúp đỡ các tù nhân khác. Trong số này có một thiếu niên vốn lớn lên ở đường phố, vào tù cũng vẫn ngang bướng, quấy phá. Từng bước mốt, lòng thương của vị mục sư đã hoán cải em. Được tin mình được đưa đế trại Auchwitch gấp, ông vội vã chia tay với các bạn tù. “Gặp em thiếu niên, ông rất muốn cho em hiểu biết về Chúa, nên ông hỏi : “Cháu có tin vào Chúa Yêsu không?” Cậu ta liền hỏi : “Thưa bác Đức Yêsu là ai để cháu tin?”. Biết mình không còn thời gian để cắt nghĩa nhiều, ông yên lặng một lát, rồi nói: “Người đó giống như bác”. Cậu ta nhìn ông rồi nói : “Thưa bác cháu tin”.


Ai dám nghĩ rằng như thế chưa phải là Đức Tin? Dẫu sao vẫn còn có Chúa Thánh Thần để lo cái phần chưa đúng hoặc chưa đủ bài bản thần học, mục vụ và để cho một thiếu niên như thế, cùng với biết bao nhiêu ‘kẻ Thiên Chúa thương’ (Lc 2,14) khác, thực sự “tin vào Ngài thì nhờ Ngài mà được sống đời đời”.


Gs Nguyễn Ngọc Lan


(1) [1976] : Kinh Thánh , bản dịch của Lm Nguyễn Thế Thuấn, dòng Chúa Cứu Thế xuát bản, 1976; Thánh Kinh Tân Ước, dịch theo các cổ bản Hy lạp do Lm Nguyễn Thế Thuấn, Nhà sách Đức Mẹ xuất bản, 1969.

[1995] : Kinh Thánh Tân Ước, do nhóm phiên dịch các giờ kinh Phụng Vụ thực hiện, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản, 1995.



(Xem thêm các bài cùng một dạng, xin mời vào:

www.suyniemloingai.blogspot.com

www.chuyenphiemdaodoi.blogspot.com )