MỌI
NGƯỜI ĐỀU LÀ NGƯỜI THÂN CỦA TÔI.
_____________________________________
Lm Giuse Mai Văn Thịnh
DCCT
Câu
hỏi của người thông luật “Thưa Thầy, tôi
phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” mở đầu bài Tin Mừng của
Chúa Nhật hôm nay. “Sự sống đời đời” là
một thực tại mà hầu hết mỗi người tín hữu đều nhắm đến. “Tôi phải làm gì?” là vấn nạn nhắc nhở đến bổn phận và trách nhiệm
mà chúng ta cần thực hiện ngay bây giờ.
Nếu chúng ta không có niềm tin vào sự sống
đời đời thì quả thực chúng ta sẽ sống buông thả và thiếu trách nhiệm với Thiên
Chúa và tha nhân. Vì thế, cho dù sự sống đời đời thuộc về Thiên Chúa và chúng
ta chưa nắm trọn vẹn được; nhưng ngay bây giờ chúng ta cần thực hiện các việc
làm để thể hiện lòng mến Chúa và yêu người thì sẽ được sống.
Giả
như ông luật sĩ đừng tranh luận thêm và cố gắng thực thi những khoản luật mà
ông đã được dậy bảo thì chúng ta không còn gì để tìm hiểu thêm. Nhưng ngay từ đầu
của bài tường thuật, người luật sĩ đã không có lòng thành để tìm kiếm, ông đặt
câu hỏi nhằm thử Đức Giê-su cho nên giờ này ông nghĩ là tiếp tục bắt bí Người bằng
một vấn nạn khác, đó là: “Ai là người
thân của tôi?”
Có
người cho rằng người thân của họ là những người cùng một huyết thống trong gia
tộc: ông bà, cha mẹ, vợ chồng con cái, cháu chắt, v.v… Đúng vậy, và nếu người
nhà mình mà mình không yêu, không sống tử tế thì làm sao yêu người khác được.
Nhưng, trong thân phận của người tín hữu, chúng ta được mời gọi sống và vượt
lên trên tiêu chuẩn nói trên. Và câu trả lời cho câu hỏi “Ai là người thân của tôi?” đã được Đức Giêsu diễn tả thật sống động
qua truyện ngắn mà chúng ta hay gọi là dụ ngôn “Người Sa-ma-ri-a nhân hậu.” mà
chúng ta vừ nghe trong phần Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay.
Truyện
ấy như thế này: Mọi người cùng thời với Đức Giêu đều biết rằng con đường từ Giêrusalem
xuống Giêrikhô là một đoạn đường đầy nguy hiểm, thường xuyên xẩy ra các nạn cướp
của và giết người. Xẩy ra là có một người mà chúng ta không hề biết gốc tích,
gia thế hay địa vị, nói chung là một người vô danh, không hề có bất cứ một chút
quan hệ gì với mỗi người chúng ta. Ông đi ngang qua đó và đã rơi vào tay bọn cướp.
Chúng cướp hết tiền bạc, đánh ông nhừ tử, thừa sống thiếu chết rồi quăng ông
bên vệ đường. Tình trạng của ông cần được cứu cấp.
Cùng
vào thời gian đó, có một ông tư tế mà chúng ta hay gọi là ông cha, cũng đi trên
con đường đó. Cha nhìn thấy cảnh tượng của người bị nạn bèn quay mặt làm như
không thấy gì rồi đi sang lối bên kia để đi. Lại có một ông luật sĩ, thông thạo
và giảng dậy cho dân chúng biết về đạo lý, cũng đi qua, cũng nhìn thấy rồi cũng
ngoảnh mặt làm ngơ và rẽ sang lối khác để đi.
Tuy
trong bản văn chúng ta không hề hay biết lý do tại sao họ lại làm như thế!
Nhưng cũng có một số lý lẽ được đưa ra để bảo vệ cho hai vị trọng vọng nói
trên, đó là các ngài có chuyện gấp cần phải đi hay sợ bị trở thành ô uế khi đụng
chạm vào nạn nhân. Nói chung chúng ta có thể coi họ là người ‘vô cảm’.
Tình
cờ, lại là truyện tình cờ. Nhưng lần tình cờ này đáng cho chúng ta phải suy
nghĩ. Số là, cùng vào lúc đó, có một người thuộc dòng giống Sa-ma-ri-a mà người
Do Thái coi họ là kẻ thù; vì họ đã dám phế bỏ truyền thồng của tiền nhân, thu
nhập các thói tục ngoại giáo và luôn sống trong tình trạng bị ô uế. Họ bị coi
như là kẻ thù của người Do Thái. Anh chị em thử thay cụm từ ‘người Samaria’ bằng
một tên nào đó thuộc nhóm khủng bố IS (Hồi Giáo cực đoan) hay là bất cứ nhân vật
nào hay nhóm người nào mà bị anh chị coi họ như kẻ thù thì chắc hẳn chúng ta sẽ
đọc trình thuật này với ý nghĩ khác. Và, ngày nay khi nghe thấy chữ ‘Samaria‘ tức
khắc chúng ta sẽ nghĩ đến các cụm từ ‘tốt lành hay nhân hậu’ để gán cho người
đó. Nhưng, trong trình thuật, Đức Giêsu chỉ gọi ông là người Samaria mà thôi.
Giống
như vị tư tế và ông kinh sư, người Samaria cũng đang đi trên đường, ông cũng nhìn
thấy nạn nhân nửa sống nửa chết, nằm thoi thóp bên vệ đường. Ông cảm thấy như
có lưỡi dao đâm vào tim ông. Bỏ hết mọi sự mà ông dự tính thực hiện sang một
bên. Ông dừng lại, tiến lại gần, dùng tất cả khả năng và dụng cụ cứu thương sẵn
có để cứu giúp nạn nhân. Chưa xong, ông cảm thấy không thể để người bị cướp này
nằm ở lề đường. Ông đưa nạn nhân, người mà ông không hề quen biết đến quán trọ
và xin chủ quán săn sóc cẩn thận và mọi chi phí sẽ được bồi hòan khi ông trở lại.
Sau
đó, thay vì tiếp tục cuộc tranh luận và đưa cho nhà thông luật câu trả lời thì
Đức Giê-su đã hỏi ý kiến ông ta rằng:
“Vậy
theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị
rơi vào tay kẻ cướp?" Người thông luật trả lời: "Chính là kẻ đã thực
thi lòng thương xót đối với người ấy". Ðức Giêsu bảo ông ta: "Ông hãy
đi, và cũng hãy làm như vậy". (Luca 10: 30-37)
Người
thông luật trả lời thật là chí lý. Kẻ thực thi lòng thương xót, thực hiện việc
bác ái là người thân cận của kẻ đang sống dở chết dở. Nhưng vấn đề đặt ra ở đây
không phải là chuyện lý lẽ. Lời xác định của Đức Giêsu làm cho chúng ta suy
nghĩ. Ông hãy đi và làm như vậy.
Người
thông luật dĩ nhiên là người có học và thông hiểu giáo lý trong đạo. Nhưng hiểu
mà làm gì nếu không biết đem ra thực hành. Đó là điều Đức Giêsu nhấn mạnh ở
đây. Quả thật theo trình tự của văn mạch. Sau khi nghe câu trả lời của người
thông luật thì, dù muốn hay không, Đức Giêsu cũng cần có ý kiến về câu trả lời
của ông ấy.
Nhưng Người lại nói “hãy đi và làm như vậy”. Khi nói thế Đức Giêsu
muốn cho chúng ta biết ý muốn của Người. Việc xác định ai là người thân của tôi
không nằm trong phạm vi tìm kiếm về mặt lý thuyết. Nhưng điểm quan trọng là
thái độ và cách sống của chúng ta. Đây không phải là tiêu chuẩn để xác định ai
là người thân của mình; nhưng đúng hơn đó là tiêu chuẩn để xác định mình có là
người thân của người khác hay không?
Người thân cận là người có lòng thuơng
xót, biết động lòng thương, biết rung động trước nhu cầu của người khác. Một
khi mà hành trang trong cuộc sống của chúng ta còn thiếu những khí cụ như tình
yêu, lòng thương xót, thông cảm và tha thứ cho nhau, … thì mình vẫn xa lạ với
chính mình và chưa là người thân của ai hết.
Việc
áp dụng lời mời gọi “hãy đi và làm như vậy” của Đức Giêsu hôm nay không phải là
điều dễ thực hiện. Nhất là trong những năm gần đây, các hành động thể hiện sự
quan tâm và săn sóc của chúng ta dành cho những người bị nạn cũng có thể bị coi
là các hành vi lạm dụng.
Cho nên, để phòng hờ, chúng ta lại nghiêng về một thái
độ cực đoan khác. Đó là nếu thấy ai té ngã trên đường mà chúng ta không có bổn
phận thì cũng nên thận trọng trong việc giúp đỡ khi cần đụng chạm đến người đó,
nhất là người bị nạn là trẻ em, chúng ta dễ dàng bị vu cáo là vi phạm vào các
tiêu chuẩn chức nghiệp làm tổn hại đến người khác.
Quả
thật không biết đường nào để ứng xử. Gần gũi quá cũng bị hiểu lầm. Không gần
gũi thì làm sao thể hiện sự quan tâm đây! Đúng là vàng thau lẫn lộn… Tuy chúng
ta cần đến sự khôn ngoan để thẩm định. Nhưng xét cho cùng, nếu chúng ta chẳng
còn biết tin vào ai thì việc xác định ‘người thân’ lại càng khó khăn hơn.
Người
Samaria vốn bị liệt vào hàng ngoại giáo, sống ngoài luồng. Hầu hết những người Samaria
đều bị coi là những người xấu. Vậy các cụm từ ‘tốt lành, nhân hậu’ trong tiêu đề
của dụ ngôn này ở đâu mà ra. Phải chăng, chúng ta tặng cho họ danh hiệc đó vì
các việc làm nhân hậu phát sinh từ một trái tim biết rung cảm trước những khổ
đau của tha nhân, biết ‘động lòng thương’ nên ông ta đã trở thành mẫu mực cho
những ai tự nhận mình là môn đệ của Đức Giêsu?
Trong
vuơng quốc của Đức Giêsu thì tất cả đều bình đẳng, không phân biệt giai cấp.
Không ai bị lên án. Tất cả đều có chỗ đứng và không ai bị loại ra ngoài. Họ có
chung một mẫu số là ‘động lòng thương’. Đó là nền tảng duy trì các mối tương
quan và là sợi dây nối kết họ thành cộng đoàn. Đối tượng của họ không hạn hẹp
trong mối quan hệ huyết thống, nhưng được mở ra cho tất cả mọi người. Thế giới
của họ rất rộng, vì đối với họ thì ai cũng là người thân.
Người
thân cận nhất của họ lại là chính bản thân họ. Thay vì sầu não, buồn phiền và cứ
bị dằn vặt về những lỗi phạm được xét dựa vào tính khắc kỷ và những tiêu chuẩn
khắt khe của lề luật. Họ nên mở ra để đón nhận tình thương yêu của Thiên Chúa để
sống vui tươi hơn. Chúa rất hài lòng đồng bước với những yếu hèn phát sinh từ sự
mỏng dòn của thân phận làm người và Người sẽ dìu chúng ta bước đi.
Vẫn
biết yêu thương mình đã khó. Nhưng được làm môn đệ của Chúa là một hồng ân, và
sống trong kho tàng của nguồn suối yêu thương của Thiên Chúa, chúng ta được mời
gọi ra khỏi chính mình để yêu thương người khác. Đây chính là mẫu mực Tình yêu
của Thiên Chúa Ba Ngôi. Ba Ngôi trao đổi lòng mến cho nhau và cho nhân loại.
Tình yêu chỉ trở nên sung mãn khi chúng ta dám ra khỏi mình. Và cũng chỉ trong
tình trạng sống như thế thì Thiên Chúa mới có cơ hội ‘bơm’ tình thương của Người
vào trong ta.
Ra
khỏi mình để đến với người khác là khởi điểm của hành trình ‘hãy đi và làm như
vậy’. Đó là con đường duy nhất để tôi làm chứng cho nhân loại biết tất cả đều
là người thân của tôi.
Chúng
ta hãy trở lại với trình thuật của dụ ngôn. Người thân cận không phải là người
nửa sống nửa chết, nằm bên vệ đường, đang cần được chăm sóc. Nhưng là người Sa-ma-ri-a
biết ‘động lòng’ trước cảnh khốn cùng của kẻ bị (cuộc đời) cướp đi gần như tất
cả những gì ông có.
Không chỉ là người Samaria mà thôi.
Ngay cả chúng ta nữa. Nếu ai ai cũng có tấm lòng như thế thì dù bất cứ ai coi họ
là kẻ thù, nhưng với họ thì chẳng ai là kẻ thù hết. Tất cả đều là người thân của
họ. Tất cả những người mà họ gặp trên hành trình sống đều là đối tượng để họ
ban phát và ‘động lòng thương’. Đây chính là khoản luật cao trọng mà Đức Giêsu
đã dạy
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất
và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn thứ nhất, là:
ngươi phải yêu người như chính mình”. (Mt
22,37-39)
Và
qua việc ‘động lòng thương’ chúng ta không chỉ hàn gắn và chữa lành các vết đau
của tha nhân mà là chính Chúa, như Lời Chúa phán:
“Ta
bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé
nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. (Mt 25: 40)
Vì
vậy, hãy ra đi và ‘động lòng thương’ bởi vì ai cũng là người
thân của mình. Tất cả chúng ta, không phân biệt giới tính, chủng tộc, địa vị, mầu
da hay tín ngưỡng... đều là hình ảnh và thành viên của gia đình mà người Cha
chung là Thiên Chúa. Tất cả đều xứng đáng thừa hưởng sự kính trọng và yêu
thương của chúng ta. Giữa chúng ta không có định kiến hay thù ghét, chỉ có
thông cảm và yêu thương. Tuy nhiên, trên thực tế chúng ta vẫn chưa thực hiện trọn
vẹn những yêu cầu của Chúa hôm nay. Với ân sủng của Chúa, chúng ta có thể tiến
lại gần các nạn nhân, với niềm kính trọng, như người Samaria đã làm.
Hãy đi và làm như Chúa đã làm là điều
Chúa muốn chúng ta thực hiện hôm nay rồi chúng ta sẽ đạt được sự sống đời đời
làm gia nghiệp.
Lm Giuse Mai Văn Thịnh DCCT
_____________________________________________________________________________________
No comments:
Post a Comment