Chương 5
Đồng tính luyến ái là thành-phần sự sống
chứ không phải tai-ương.
(Bài 14)
Kinh
nghiệm Giáo hội cho thấy các linh-mục trong Đạo phải sống đời đơn chiếc tách bạch
hẳn cuộc sống ngoài đời. Ăn mặc thì, duy nhất chỉ khoác lên mình mỗi chiếc
chùng thâm bên ngoài. Kinh kệ, lại chỉ đọc mỗi kinh nhật-tụng giông dài và cứng
ngắc. Danh xưng thưa/thốt, vẫn buộc mọi người phải gọi mình bằng cha/cố rất đề
huề, cốt tạo cuộc sống cách biệt người thường, tức: rõ một đời độc thân có lời thề
nguyền cứ liên tục vi-phạm.
Người
chủ trương sinh sống kiểu này, đã biến đời độc-thân thành chuyện bắt buộc cả với
người đồng tính nữa. Chấp-nhận sống độc thân, o-ép như thế lâu nay đã trở-thành
cái giá khá đắt mà người đồng tính dĩ nhiên phải trả, để nhận được phép lành từ
Hội-thánh cho riêng mình.
Hãy cứ
tưởng tượng trường-hợp Giáo hội sẽ phải đáp-ứng cách nào, khi cơ-chế này khác lại
cứ nhân danh tình-yêu Thiên-Chúa và lòng đạo giáo-dân mà đề ra các thông-tri đại
loại bảo rằng: từ nay, 10% dân số thế-giới sống đời tình-dục với người khác
phái, nay cũng phải kiêng khem ăn nằm nếu muốn được Giáo hội chúc lành, hay sao
đó!
Thật
ra, ta không thể khẳng-định rằng: muốn có cuộc sống đúng đắn, hà tất phải nắm
chắc là các giám mục, giáo sĩ và/hoặc giáo-dân vẫn chấp-nhận như thế, mới thành
sự. Thật ra, cái khó là ở chỗ: ngay các chủng-sinh cùng như bậc thày dạy đều phải
cố gắng nhiều hơn nữa mới lướt vượt được thử thách.
Dù
sao thì, lập-trường này thêm vào với tính ngây-thơ/mơ-hồ đầy bản sắc, là tình-huống
cho thấy phong-trào đây có tiến về phía trước hay không. Nhưng, rõ ràng là: nó
không thể ngăn chặn mọi cãi tranh, dành giựt. Cuối cùng thì, nó vẫn đắm chìm
trong mâu-thuẫn nội-tại và từ đó trông chờ giải-thoát, cách không tưởng.
Hiểu
được nguồn-gốc mọi sự việc ở nhóm người “đồng tính luyến ái”, ta sẽ không còn
mang nặng ưu-tư quá đáng mà đám cháu/con mình từng bị cuốn hút vào đó để rồi buộc
phải chống cự. Thành thử, việc săn bắt con mụ phù thủy lăng-xăng, cốt loại-bỏ
“lập trường của các đấng bậc từng tạo ảnh hưởng trên sự sống của con/cháu, ta mới
nhận ra là: quá-khứ của chúng nay dừng đứng một cách mau lẹ.
Chẳng
mấy chốc, nam-nhân đồng tính luyến ái cứ phải che đậy bộ mặt hiền-từ nhẫn-nại của
mình, trong khi đó đám nữ-lưu lại để luột mất tính ganh-đua tình tiết trong thi
đấu, ngõ hầu nắm chắc là không ai nghi ngờ mình có khuynh hướng xấu xa, bệ-rạc
nữa.
Bước
tiếp theo, là: thoạt khi ta khởi-sự nhìn vào xu-hướng đồng tính luyến ái cũng
như ngả mình vào khuynh hướng dục tình khác phái nằm ở bên trong hoặc làm đặc-trưng/đặc-thù coi đó không là hành-xử xấu mà chỉ cần biết đó
có là hành-vi đích-thực chân chính không, mà thôi. Cả hai khía-cạnh tình-dục của
con người, rồi ra cũng được thẩm-định một cách tự nhiên, thôi.
Nhận-thức
này, ngày càng dâng cao để mọi người thấy được rằng: ở ngoài đời, người người
hiện có một tầm nhìn rất chung chung về quần chúng, ngay cả khuynh-hướng không mấy
thuần-khiết. Tựu trung thì, cả hai khuynh-hướng nói ở đây, đều có vai trò làm
giàu cuộc sống con người, thôi. Thay đổi này, với thời-gian, sẽ còn xảy ra nhiều
hơn nữa khiến có người hoặc vì không biết hoặc vì sợ sệt và thành-kiến đã phủ
lên con người, nên mọi sự mới trở-nên khó khăn đến độ khiến mọi người phải
buông lơi, bỏ rời.
Một
khi đặc-thù tự-nhiên của quần chúng có khuynh-hướng đồng tính nơi đám thiểu số
rồi, thì việc trông chờ người đồng tính phải sống đời độc-thân/đơn chiếc sẽ bị
trừ khử ngay lập tức. Và khi ấy, ta lại thấy vấn-đề rõ ràng đặt ra mà hỏi: khi
nào thì mọi việc sẽ như thế? Làm sao để người đồng tính luyến ái sống cuộc sống
tính-dục tràn đầy trách nhiệm?
Rõ
ràng là, luật-lệ của Giáo-hội và xã-hội ngoài đời khi ấy sẽ bảo-vệ và khẳng-định
tư thế đồng đều cho nhóm này. Giải-pháp sốt-sắng có tính cột-buộc đạo-đức tính-dục
vào với đời sống độc-thân, không cho thấy điều gì lạ ngoài niềm tin không hợp-lý
vào một Đức Chúa “bạo dâm”, dưới lằn ánh sáng mới của nhận-thức.
Đức
Chúa đây, đã tạo dựng người đồng tính nam/nữ cốt để trừng-phạt họ mà thôi. Đức Chúa đã dựng nên họ trong một tạo-thành tuyệt-hảo
có lòng thèm muốn tình-dục và bảo: đạo-đức/chức-năng buộc niềm ước ao này phải
bị đè nén. Một lần nữa, ta đang phải đối đầu với phán-quyết bảo rằng: sinh-lý tồi-tệ
cộng với nền-tảng sinh-hóa xấu, rốt cuộc đi vào thứ thần-học tệ-hại.
Lập-trường
truyền-thống chính qui của Giáo-hội, đặt nền-tảng vào cơ-ngơi sai lạc mà cho rằng:
mọi tỏ bày dục-tình theo hướng yêu thương giữa những người cùng phái lúc nào
cũng xấu buộc ta phải giáp mặt với sự xấu ấy, thì lập-trường này tự nó có thể
kiến-tạo chính Giáo hội. Làm sao Giáo hội có được sự sống đầy ắp những là thành-tựu
được khi dân con của Chúa gặp trở-ngại do bởi thông-điệp truyền rao bảo rằng họ
chính là kẻ vô luân-lý, thiếu đạo đức được cơ chứ?
Thế
thì, chuyện xảy ra là: bất cứ ai đứng trước đấng bậc luôn chê-bai/miệt thị người
khác, lại có thể phát-triển ảnh-hình về chính mình theo cách tích-cực được? Ta
không thể tạo cho mình quyết tâm thực sự yêu thương người khác được, trừ phi ta
tin là mình cũng có một ít giá trị nào đó, rất nội-tại. Hai bản ngã đổ gãy, lại
dễ vỡ, cứ ngày càng suy-thoái rồi bị coi rẻ ắt không có khả năng hỗ-trợ cho nhau
cách dễ dàng trong tương quan một vợ một chồng, thật hỗ tương.
Vì
đã mất đi sự tương-trợ do từ cộng đoàn mình chung sống, nên người đồng tính cũng
cần phải giấu đi cái tương-quan lạc điệu của mình, không cho người ngoài biết là
mình đã bị căng-thẳng rất dễ sợ trên nguồn tâm-lý của đôi lứa.
Bằng
hành động quay phắt lại, không để mình tự kiểm-điểm, không cho phép mình có được
thiện chí, Giáo-hội lại đã thú-nhận là mình có con tim cứng ngắc qua thưa/thốt
với Chúa bằng câu kinh như: “Lạy Chúa,
xin đoái thương chúng con và thứ tha cho chúng con về những phán-đoán méo mó xấu
xa gây phương hại đến các người dân con nam/nữ của Ngài trong mọi thế-hệ của
Giáo hội.”
Tiếp
đến, Giáo hội còn phải suy-tư nghĩ lại chất đạo-đức của tính-dục ở con người. Bản
thân tôi, nguyện sẽ khai-triển ý-tưởng này một cách đặc biệt hơn ở chương 15 sắp
tới. Ở đây, tôi thấy cũng đủ để bảo rằng: tính-cách mật-thiết nơi tình thương, bản-chất
hợp-pháp khi quần chúng công-nhận tương quan mình có được, đang là niềm vui kề
cận bên nhau và cũng là sự an vui/hài-hòa của cuộc sống không có gì bí mật cả,
không thành điều để chối bỏ một ai về sự việc người ấy đang đeo đuổi hạnh-phúc
và cuộc sống tràn đầy của họ mà Tin Mừng từng nói đến. (Gioan 10: 10)
Vấn
đề hỏi rằng: các hành-xử trong cuộc sống công-khai tương-phản lại cuộc sống
riêng tư đã đạt hàng đầu trong Giáo hội vào lúc truyền chức linh-mục. Hỏi rằng:
Giáo hội có được phép tấn phong linh mục cho người đồng tính là người chẳng bao
giờ dối trá/lọc lừa hoặc độc thân không? Câu hỏi này, tự bản-chất, khi được
công-khai tranh-luận, đã cho thấy bước nhảy vọt về phía trước trong tâm-thức đạo-đức
của mình.
Tuy
nhiên, sự việc còn đó cho thấy lâu nay vẫn có nhiều người đồng tính luyến ái
trong hàng giới linh-mục cũng như tu dòng. Hai ngàn năm qua, Giáo-hội cũng từng
có nhiều giáo-sĩ đồng tính vượt quá con số mà nhiều người lượng-định. Các
giáo-sĩ nói trên đã từng đảm nhiệm mọi vai-trò trong mọi hệ-cấp cầm quyền của
Giáo-hội. Các vị này từng giúp đỡ Giáo-hội trong việc định-hình tín-lý, kỷ-luật,
phục-vụ và y-phục trong Hội-thánh.
Khi
đời sống độc thân được coi như lối sống duy nhất bắt buộc đối với các tiến-chức,
vào thế kỷ thứ 20, thì mọi cửa ngõ đều được mở rộng cho nam-nhân đồng tính để
có chân trong hàng giáo-sĩ của Hội-thánh như một chỗ đứng hợp pháp trong đó tình-trạng
độc-thân sẽ đương từ nghĩa vụ biến thành ưu-điểm và từ đó cuộc sống của họ đã
nghiệm sinh được tính sáng-tạo và cộng-đoàn. Giả như người đồng tính luyến ái bị
loại trừ không còn đảm-nhiệm chức-năng thừa-tác-vụ của giáo-sĩ ngang qua
quá-trình lịch sử của Giáo hội, thì kẽ hở lớn lao sẽ hiện đến, có thời cũng lên
đến mức 80% trong nhiều năm tháng lịch sử. Quả thật, đã có lúc tất cả những ai
thề hứa sống độc thân đều bị nghi ngờ là người đồng-tính luyến ái. (*12)
Ngày
nay, có người lý luận bảo rằng để xem người đồng tính có được phong-chức hay
không, thì theo chừng mực nào đó, có vẻ cũng nực cười. Cuối cùng thì kết-cuộc mọi
tranh-luận sẽ không tạo được sự thay đổi tình thế mà chỉ đổi thay mỗi bộ mặt
công-khai/chính-thức của Giáo-hội mà thôi. Các vị có trọng-trách về luân-lý đạo-đức
trong Hội thánh lại muốn “giữ bí mật” mọi chuyện. Hội thánh Công giáo cũng như
các giáo-hội này khác, cho đến nay vẫn theo phương-cách đình chỉ, trục xuất hoặc
bắt các thành viên nào công khai chọn-lựa cùng một phái tính để sống chung, buộc
phải câm nín. (*13)
Đương
nhiên là, người đồng tính luyến ái phải được coi như không được phép có thành
kiến với tiến-trình đào tạo linh-mục. Các vị này đều bị thanh-lọc như mọi ứng
viên khác, đều bị kiểm xem thực tình là mình có ơn gọi, tức: thứ quà tặng mà họ
đem đến cho Giáo hội, và trí thông minh, nhạy cảm, tự mình tận hiến bản thân
mình cho Chúa, có quyết tâm làm việc và năng-lực vận-dụng năng-lượng tính-dục
có trách-nhiệm và quyết tâm hay không?
Dòng
tu cá-biệt nào đó có kêu gọi hoặc chấp-nhận một người đồng tính nam/nữ làm mục-vụ
là người đã thiết-lập tương quan một vợ một chồng có tình thương yêu và chưa
bao giờ muốn từ bỏ người phối-ngẫu mà mình từng chung sống hoặc sống đời dối trá hay không?
Hiện
nay, đang thấy xảy ra, đặc biệt là ở thành thị và chốn thị tứ trong đó có thể
có sự ẩn mình nặc danh trong một cộng đoàn lớn rộng. Bản thân tôi có biết có
giáo sĩ tương-tự từng được cộng-đoàn hỗ-trợ hết mình và tôi cũng thấy các vị ấy
sống hết mình cho việc giảng rao Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô trong các dòng tu
như thế.
Tôi ủng
hộ các giáo-sĩ đó, cùng với người phối ngẫu của các vị này và dân con/quần
chúng trong Giáo hội có được khả-năng thăng-hoa mối thành-kiến vẫn còn đang vây
chặt chúng ta trong mọi địa hạt.
Tiếc
thay, cũng có nhiều vị khác lúc này lại cứ sống trong sợ sệt đến độ họ không
dám cởi mở cõi lòng mình ra bên ngoài. Những người như thế đang tạo các lớp phủ
trùm bảo vệ hoặc che đậy lúc nào cũng tự vấn nạn xem mình có là người đáng tin
cậy hay không. Một số vị đang san sẻ câu chuyện đời của họ cho tôi biết. Tôi vẫn
hỗ trợ để họ có thể phấn đấu sống trong tình thương và sự toàn vẹn cả hai mặt.
Các vị này cũng đã dạy cho tôi nhiều bài học đáng kể. Và, tôi còn nợ họ rất nhiều
thứ.
Có
thể, một số vị sẽ đọc những điều tôi viết ở đây và sẽ đề nghị là: lập-trường/quan-điểm
này đặt tôi như một giám mục chống đối lại thế-đứng của Giáo-hội mà tôi đại-diện,
hoặc chống lại thế đứng lịch sử của Giáo hội Công giáo. Họ có lý. Tôi đây chỉ
là số người nhỏ có tiếng nói yếu ớt trong cơ-cấu Giáo hội vững chãi bấy lâu
nay. Nhưng thiểu số nói đây đang lớn mạnh dần và làn sóng mới ấy đang thẩm thấu
toàn thể xã-hội ta ngày hôm nay. Thiểu số nói ở đây sẽ không còn là số ít đến muôn
ngàn đời được nữa rồi.
Giáo
hội nay đã và đang thay đổi tâm não của mình rất nhiều trong lịch sử và sẽ còn
làm thế mãi. Câu hỏi sâu lắng hơn đặt ra, là: câu được đưa ra cho giới có quyền
hành đặt ra với Kinh thánh. Phải chăng vấn đề này đang đặt ra với Kinh thánh
không? Phải chăng các vấn-đề đặt ra cho
đến nay sẽ được giải quyết một cách có lý lẽ với Sách thánh? Đó là những câu hỏi
rất mạnh bạo đối với dân con Đạo Chúa để cứu xét. Các câu hỏi như thế đáng được
mọi người lưu tâm và phải được chú ý trong phần tiếp sau đây.
Chú
thích:
1.
Alfred
Kinsey et al., Sexual behaviour in the
Human Male (Philadelphia: Saunders, 1948); Sexual Behavior in the Human Female (Philadelphia: Saunders, 1953).
2.
John
Fortunato, hould the Church bless and Affirm Committed Gay Relationships?” The Episcopalian, April 1987.
3.
John
S. Spong, Into the Whirlwind (San
Francisco: Harper & Row, 1983). Chapter 9.
4.
Sigmund
Freud, Three Contributions to the Theory
of Sex (New York: Dutton, 1962); Totem
and Taboo (New York: Vintage Press, 1946).
5.
Rosemary
Ruether, “From Machismo to Maturity,” in Edwars Batchelor, Jr Homosexuality and Ethics (New York:
Pilgrim Press, 1980), tr. 28ff.
6.
Như
trên
(còn tiếp)
Gm John Shelby Spong biên-soạn
Mai
Tá lược dịch.
No comments:
Post a Comment