Tuesday 22 June 2010

Lm Vũ Khởi Phụng, CSsR: ÔN LẠI NHỮNG LỜI KINH XƯA


Mấy tháng nay dư luận vẫn xôn xao về bản dịch mới Phụng Vụ Thánh Lễ. Nhiều ý kiến đã phát biểu trên báo, trên mạng, trong những cuộc hội thảo, và nhất là trong những câu chuyện hằng ngày. Có ý kiến gay gắt, có ý kiến cay chua. Nghe đâu các đấng bậc trong Hội Thánh không muốn cho tranh cãi nhiều về chuyện này, vì thế có nhiều người định nói lại thôi, nhiều cơ quan ngôn luận đã hoặc đang chuẩn bị đăng tải những ý kiến nảy lửa lại tự kiềm chế, tự kiểm duyệt.

Tôi cũng chẳng có ý đụng vào vấn đề nóng sốt này. Nhưng nhân chuyện dịch thuật lại sinh ra nghĩ ngợi về sự hiệp thông trong Đức Tin xuyên qua những rào cản của ngôn ngữ. Đức Tin chỉ có một, nhưng ngôn ngữ lại rất nhiều và các thứ rào cản thì chẳng biết là bao nhiêu.

Châu Á mình có vinh dự là nơi phát xuất của các tôn giáo lớn. Đạo Chúa Ki-tô cũng phát xuất từ châu Á. Các giáo sư Thánh Kinh có giảng rằng: Thánh Kinh có nhiều điểm, nhiều lối nói, người phương Đông dễ hiểu, dễ thông cảm hơn người phương Tây. Dù sao, ta là người Đông Á, còn Thánh Kinh lại mang sắc thái Tây Á, thành ra cái giống nhau với cái khác nhau đan xen. Trong lịch sử Đạo lại đi một vòng dài qua phương Tây rồi mới sang Á Đông, thành ra bao nhiêu giai đoạn là bấy nhiêu tầng ngôn ngữ và văn hóa. Là một Đức Tin, là một di sản phổ quát mà biết bao nhiêu bộ mặt biến hóa.

Thuở xưa, bà nội tôi đọc kinh theo kiểu cổ. Công Đồng Đông Dương đã sửa kinh, nhưng cả chục năm sau đó bà vẫn đọc những lời kinh bà quen từ hồi còn trẻ. Bà tôi đọc Kinh Sáng Danh như sau: “Go-lo-ri-a Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Chúa Phi-ri-tô-xăng-tô, trước sau đời đời chẳng cùng Amen”.

“Go-lo-ri-a” tức là Gloria ( tiếng La-tinh ): vinh quang, sáng danh; còn Đức Chúa Phi-ri-tô-xăng-tô là Đức Chúa Spirito Sancto, tức là Đức Chúa Thánh Thần. Còn “trước sau đời đời chẳng cùng” là điều mà bây giờ trong kinh Phụng Vụ dịch là “đến muôn đời”, khiến cho nhiều người vẫn còn cãi là dịch như vậy hay hơn, hay cứ nói như ngày xưa hay hơn.

Kinh Kính Mừng thì bà tôi đọc: “Ave Maria, đầy ga-la-ti-a, Chúa Dêu ở cùng bà, nữ trung bà có phước lạ, thai tử Giê-su gồm phước lạ. Xăng-ta Maria, Đức Mẹ Chúa Dêu, cầu cho chúng tôi, khi nay và cập thần đẳng tử hậu. Amen”

Ga-la-ti-a đây tức là Gratia ( tiếng Latinh ): ân sủng, ân phước. Chúa Dêu, tức là Deus, Đức Chúa Trời, Thiên Chúa, phát âm theo kiểu Bồ Đào Nha. Hết âm hưởng của tiếng La-tinh thì đến những từ Hán Văn: “Nữ trung bà có phước lạ”, dịch lại là: “Bà có phước lạ hơn mọi người nữ”, còn “khi nay và cập thần đẳng tử hậu” thì dịch lại là “khi nay và trong giờ lâm tử”. Chỉ có “Amen” là đi xuyên suốt từ thời Kinh Thánh, bất kể phương Tây hay phương Đông, thời xưa hay thời nay.

Bà tôi đã từng trải một cuộc đời có đủ hỷ, nộ, ái, ố; đến lúc tuổi già bà ngồi đọc kinh cả ngày không chán. Cũng như bao nhiêu tín hữu khác, bà đâu có biết tiếng La-tinh. Tôi tự hỏi không biết trong những năm tháng dài cầu nguyện đó, bà nghĩ đến điều gì khi hướng về “Maria đầy ga-la-ti-a” ( cũng có người đọc: đầy ga-ra-sa ). Chắc là trong mầu nhiệm “ga-la-ti-a” đó có cả sự trải nghiệm của một đời người được thăng hoa trong Đức Tin.

Thế còn những nhà thần học kinh viện đạo mạo thì nghĩ gì khi nói lên: “de gratia” ? Chịu khó lắng nghe các vị giảng về ân sủng, thấy nói đến nhiều loại gratia, nào là thánh sủng, hiện sủng, trợ sủng, hiệu sủng; mà hiệu sủng lại có hiệu sủng ngoại khởi và hiệu sủng nội khởi. Rồi nghe nói vấn đề tương quan giữa “gratia” và con người tự do là một vấn đề khó kinh khủng, khiến cho các nhà thần học cãi nhau cả nghìn năm giữa một rừng khái niệm trừu tượng. Hóa ra có tất cả những sự ấy trong một lời thì thầm “đầy ga-la-ti-a” của bà tôi sao ?

Lại đi nghe các bậc thầy Thánh Kinh giảng về Ân Sủng, thấy một cội nguồn chứa chan huyền diệu: nào là hesed ân nghĩa tín thành, nào là charis yêu thương diễm tuyệt: “Yavê ! Yavê ! Thiên Chúa chạnh thương, huệ ái, bao dung và đầy nhân nghĩa tín thành ( hesed ) ( Xh 34, 6 ). Để rồi cả hesed ( theo tiếng Hipri ) lẫn charis ( theo tiếng Hy Lạp ) kết tinh cả lại nơi Đức Ki-tô: “Ân sủng ( Charis ) Đức Giê-su Ki-tô, tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần” như Tông Đồ Phao-lô vẫn chào mừng Dân Chúa. Và Charis kết tinh nơi Đức Ki-tô khiến cho bây giờ ta phải phân biệt, và đôi khi cãi nhau, khi nào dịch Eucharistia là lời nguyện Tạ Ơn, và khi nào dịch là Bí Tích Thánh Thể, là Mình Thánh Chúa, bởi căn của từ Eucharistia là từ “charis”. Như vậy, Gratia có biết bao nhiêu sắc thái.

Nhưng “ga-la-ti-a” không phải là vấn đề với bà tôi. “Ga-la-ti-a” là một cái gì ở trong tâm linh cụ, và trong tâm linh thế hệ của cụ, và cả những thế hệ trước. Đó là những người không biết tiếng Do Thái, Hy Lạp, hay La-tinh, không biết tiếng Pháp hay Tây Ban Nha, nhưng có biết những mầu nhiệm Đức Tin, mặc dù phải diễn tả qua những ngôn từ lạ lẫm của các thứ tiếng đó. Thời nào cũng có ơn soi sáng của Đức Chúa Phi-ri-tô xăng-tô. Thời đó Hội Thánh được gọi là Thánh I-ghê-ri-sa ( theo tiếng Tây Ban Nha: Iglesia, hay Bồ Đào Nha: Igreja ). Trong Nhà Thờ, nơi người ta lên rước Mình Thánh Chúa thì gọi là gian Com-mô-nhong ( Communion ), Đức Giáo Hoàng là Đức Thánh Pha-pha ( Papa ), các vị Hồng Y là các đấng Các-đi-na-lê ( Cardinal ) và các Giám Mục là Vít-vồ ( Vescovo, tiếng Tây Ban Nha ). Người ta vừa tận tình với Đạo vừa nói với các ngôn ngữ Việt pha lẫn La-tinh và Tây Ban Nha đó.

Nhưng song song với sự lai tạp ngôn ngữ đó, ở một phương diện khác, người ta lại cố gắng trau chuốt câu kinh lời nguyện. Một cách để tạo sự trang trọng là dùng chữ Hán, vì chữ Hán được coi là văn chương bác học, văn chương quý tộc. Vào một Nhà Thờ ngày xưa, giữa một cộng đoàn không phải là nhiều chữ nghĩa lắm, ta có thể bắt gặp những nông dân đang đọc kinh cầu Đức Mẹ: “Thần lạc chi duyên, vị thần đẳng cầu, Hoàng Kim chi điện... kết ước chi quỹø... Thượng thiên chi môn... Hiển minh chi tinh, vị thần đẳng cầu”, v.v... Dân gian gọi đó là kinh cầu chữ, kinh cầu chữ tồn tại cùng với kinh cầu nôm, và cả kinh “chữ” lẫn “nôm” đều dịch ý kinh cầu La-tinh.

Nhưng kinh La-tinh và kinh chữ thì cô đọng, súc tích, còn kinh cầu nôm thì đằng thằng theo lối nghĩ, lối nói của người bình dân xưa. “Thần lạc chi duyên” là “causa nostrae laetitiae”, diễn nôm: “Đức Bà làm cho chúng tôi vui mừng”. “Hoàng kim chi điện”: “domus aurea”: “Đức Bà như Đền vàng vậy”. “Kết ước chi quỹ”: “foederis arca”: “Đức Bà như hòm bia Thiên Chúa vậy”; “Thượng thiên chi môn”: “Janua caeli”: “Đức Bà là Cửa Thiên Đầng”. “Hiển minh chi tinh”: “stella matutina”: “Đức Bà như sao mai sáng vậy”. Còn điệp khúc “vị thần đẳng cầu”: “Ora pro nobis”, đơn giản là: “cầu cho chúng tôi”.

Người ta kể chuyện hồi nạn đói năm Ất Dậu, có một ông già Giáo Dân đi lượm xác những người chết đói để an táng. Ông đặt xác lên cái bè trên sông, ông dòng dây đi trên bờ kéo bè về huyệt, vừa đi vừa đọc kinh cầu hồn: “Phục dĩ chí Tôn, chân Chúa cửu trùng, cao ngự chi thiên”... Dân gian gọi đó là “kinh Phục rĩ”, theo kiểu phát âm của Giáo Dân vùng đồng bằng ven biển Bắc bộ. Có thể lúc bình thương, giới thanh niên chỉ thấy đấy là những lời rền rỉ. Nhưng hãy tưởng tượng tình thế bi đát của năm Ất Dậu ấy, ông già kéo xác ven bờ sông, cất lên giọng thê thiết: “Phục rĩ chí tôn...” sẽ thấy đấy là một cảnh tượng đủ tầm cỡ để nằm trong các bộ sử thi hay những cuốn phim nghệ thuật hoành tráng nhất. Đến đây thì không phải là dịch thuật nữa rồi, mà là sáng tạo của Lòng Tin. Dùng chữ Hán đã vậy, lời kinh thông thường vẫn là văn Nôm...

Nhưng lời kinh thông thường không phải bằng chữ Hán, mà là văn nôm. Xin được trích vài đoạn vãn dâng hoa trong tháng kính Đức Mẹ. Nghe nói vãn này có từ hậu bán thế ký XIX, lúc ấy chúng ta còn chúc tụng “Go-lo-ri-a Đức Chúa Phi-ri-tô xăng-tô” mà đã có những lời thơ cầu nguyện thật mượt mà:

Chúng tôi mọn mạy phàm hèn
Dám đâu ghé mắt trông lên bàn thờ
Ngửa xin tràn xuống ơn thừa
Rộng ban giãi tấm lòng thơ trước toà

Chúng tôi lạy Chúa Cha nhân thứ
Đã giữ lời phán hứa rủ thương
Dựng nên rất thánh Nữ Vương
Gây nên mối phúc nêu gương muôn đời.

Chúng tôi lạy Ngôi Hai xuống thế
Cứu loài người chẳng để cho hư
Lại thương trối Mẹ nhân từ
Để cho con mọn được nhờ mọi ơn

Chúng tôi lạy Thánh Thần Chúa cả
Cho Đức Bà phục lạ ơn đầy
Cùng lòng rộng rãi nhân thay

Để con mọn được ăn mày phận thương...
Đóa hoa khúm núm tay bưng
Tấc niềm cần bộc xin từng tỏ ra
Đền vàng quỳ trước dân hoa
Trông lên tháp bảo thấy tòa Ba Ngôi
Mười hai nhân đức gương soi
Kính dâng Đức Mẹ đời đời ngửa trông.

Những vần những điệu ấy cứ thế ngấm vào lòng người bình dân. Giữa cảnh hương hoa trang nghiêm và lời ca điệu nhạc, ghé mắt nhìn lên tòa Ba Ngôi tháp bảo và thấy mười hai nhân đức gương soi, có lẽ không khác lắm với tâm trạng chúng ta ngay nay, một ngày 15 tháng 8 ở La Vang chẳng hạn, lắng nghe lời sách Khải Huyền về người Phụ Nữ trên đầu có mười hai ngôi sao sáng. Dâng lên bảy hoa năm sắc để rồi nguyện một lời khiêm nhường mà thiết tha:

Chúng con đang chốn phong đào
Mong giao hạt giống e vào bụi gai
Cậy trộng Đức Mẹ nhân thay
Rủ thương vì chúc tụng này cùng hoa
Lòng thốn thảo, đóa linh pha
Xin đều dâng tiến trước tòa Ba Ngôi
Diện tiền cầu khẩn thay lời
Đầm đầm mưa móc trên trời tươi liên
Thêm ơn vun xới cách riêng
Ruộng thiêng sạch cỏ mọc lên giống lành
Hoa nhân ái phúc rủ ngành
Đời nay dùng đủ lại dành đời sau
Tác thành đã được giã tâu
Dám xin hợp ý khấu đầu tạ ơn...

Năm vừa rồi có dịp sang thăm nước Mỹ, tôi được dự cuộc gặp mặt của người đồng hương ở Silicon Valley, Bắc California: mấy cô cậu thiếu niên và những cô cậu bé mới sinh ở Mỹ châu đầu vào nhau chơi đùa, nói tiếng Mỹ rào rạo; nhưng mấy ông bà đứng tuổi thì họp nhau để đọc với nhau nhưng lời kinh đất lề quê thói:

Phép ngắm Rô-sa nguyên cội rễ
Suy ơn chuộc tội loài người thế
Tự sinh nhi tử, tư nhi sinh
Công nghiệp vô cùng khôn xiết kể...

Lạy ơn Đức Mẹ nhân thay
Xin vị sự nhiệm mầu này rủ thương
Cho con lòng vững đá vàng
Vâng theo Ý Chúa mọi đàng chẳng sai...

Thì ra một nửa vòng trái đất và Silicon Valley vẫn không xóa nhòa được cái bồi hồi gắn với mấy câu kinh quê hương, ở đấy có cái gì đã thành máu thịt và thành phần hồn của người ta.

Hôm nay tôi vừa đọc lời anh Lê Đình Bảng giới thiệu một công trình nghiên cứu của giáo viên sử học Lê Ngọc Bích về những người Công Giáo ngày xưa. Nhà thơ Lê Đình Bảng viết: “Suốt những năm tuổi mọn ở làng quê xứ đạo, bọn trẻ chúng tôi – với chút kiến thức tầm tầm góp nhặt dông dài được từ các môn học phổ thông trong trường lớp – chỉ có rặt một loại văn hóa phẩm. Đó là mớ kinh sách tuồng chuyện, thơ phú, vè vãn của nhà đạo... Và có lẽ cũng phải kể tới bài học truyền khẩu là ca dao, tục ngữ, đồng dao, truyện Kiều, từ lời mẹ hát ru, từ những đêm trăng trong sáng ngày mùa. Cái vốn liếng chữ nghĩa ăn đong ấy, nói thật lòng, đã nuôi sống, đã thổi chúng tôi lớn lên, vào đời. So với lớp trẻ sau đó và bây giờ, nghĩ mà xấu hổ, vì chúng tôi thua kém đủ điều. Ấy thế mà đến nay, gần cuối vòng đời, vẫn thấy trong lòng mình vang âm cái cảm giác mê mẩn, phiêu linh của câu chữ thủa nào”.

Anh Bảng cho rằng những câu chữ ấy gắn liền với “Những còn người, những sự kiện, những trải nghiệm rất máu thịt, rất căn cơ... tai tôi nghe u trầm những cung bậc diệu kì pha lẫn khuất tất, trở trăn từ một cõi nào. Và cứ thế tôi mê mải bước đi, như kẻ xa quê lâu ngày, trở về, lặng lẽ cúi đầu trước cổng làng”.

Nhắc lại những chuyện trên đây, tôi không có ý tiếc nuối muốn trở về thời xa xưa. Mỗi thời đều có ngôn ngữ của nó. Xin được nghĩ về chúng ta ngày nay...

VŨ, Sài-gòn – Hà Nội 7.2006 ( Còn tiếp )

ÔN LẠI NHỮNG LỜI KINH XƯA

Nhắc lại những chuyện trên đây, tôi không có ý tiếc nuối muốn trở về thời xa xưa. Mỗi thời đều có ngôn ngữ của nó. Đương nhiên ngôn ngữ của chúng ta ngày nay hiện đại hơn và ít nhiều cũng Tây hóa hơn so với cả cái mộc mạc lẫn cái duyên dáng của người xưa. Hơn nữa, ta được hưởng rất nhiều điều hay, được nghe giảng Thánh Kinh và Thần Học, được tiếp thu những thành quả của gần một thế kỷ Giáo Hội về nguồn và canh tân; ta lại có các hiến chế và văn kiện của Công Đồng Vatican II,.v.v... Xét về nhiều mặt rõ ràng ta giỏi hơn người xưa. Chưa biết chừng nhìn lại quá khứ ta sẽ có chút cảm giác thương hại đối với một thời còn chậm phát triển về mặt Đạo...

Sau thời bà tôi khá lâu, tôi vẫn nhớ những ngày Thứ Sáu Tuần Thánh nghĩ lễ tôn thờ Thánh Giá vẫn cử hành vào sáng sớm. Từ trên cung thánh vọng xuống những giai điệu rất hay và những lời ca La-tinh tường thuật cuộc khổ nạn của Chúa. Dưới lòng Nhà Thờ, các chị tôi lim dim ngủ gật, lời ca kia như một tiếng hát ru, như một tiếng sáo diều mùa hè. Các chị chỉ giật thót tỉnh thức khi ông Linh Mục người nước ngoài có giọng hát thật mạnh nên được đóng vai “quân dữ”, lấy hết âm lượng để hô lên: “Baraba !” Lúc ấy Nhà Thờ đâu đã có micro và loa. Đó cũng là một dấu chỉ thời đại.

Vài năm sau, Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII cải tổ Phụng Vụ. Các nghi lễ Thứ Năm, Thứ Sáu, Thứ Bảy Tuần Thánh từ buổi sáng chuyển về buổi chiều cả. Lại thêm một bước tiến.

Tôi quen một Linh Mục nọ vốn theo dõi những cố gắng canh tân Phụng Vụ bên phương Tây: một hôm cha xoay ngược bàn thờ, làm lễ quay mặt xuống Giáo Dân. Đức Giám Mục đến thăm. Ngài dạy rằng đừng làm thế, người ta chưa quen. Cha vâng lời xoay bàn thờ lên. Năm sau Đức Giám Mục đi dự Công Đồng Vatican II về, ngài lại dạy: quay bàn thờ xuống. Cha lại vâng lời. Người ta hỏi sao cha cứ xoay bàn thờ hoài vậy, cha nhăn nhó cười: “Ôi ! Chóng mặt quá!”

Cũng sau một khóa họp Công Đồng, cộng đoàn Phụng Vụ bắt đầu được dự Thánh Lễ đồng tế. Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh năm ấy, các Linh Mục cùng nhau cử hành nghi lễ tôn thờ Thánh Giá vẫn trong phẩm phục đen truyền thống. Tôi nghe một cha giáo già làu bàu: “Hôm nay là ngày phải mặc áo đỏ, chứ ai lại đen thế này.” Quả nhiên năm sau phẩm phục ngày Thứ Sáu Thánh từ đen đổi sang đỏ.

Đêm vọng Phục Sinh, sau cải tổ Phụng Vụ, tôi mất đi một giây phút ấn tượng của thời trước: lễ nghi đang diễn tiến dài dòng, chợt có một điểm bừng sáng: phẩm phục của Linh Mục từ mầu tím đột nhiên đổi sang mầu trắng; những tấm màn tối màu âm u hạ xuống, hoa nến ở đâu xuất hiện tưng bừng, cả Nhà Thờ sáng rực lên. Bù lại, tôi có được những ấn tượng khác, rất sâu đậm: nghi lễ thắp nến Phục Sinh giữa đêm tối với lời tuyên xưng “Đức Ki-tô hôm qua và hôm nay khởi nguyên và khánh thành, an-pha và ô-mê-ga thời gian là của người, đời đời là của người”... Tôi lại được nghe, được hiểu bài tán tụng “Exultet” như đôi cánh tung bay, và lời ca Ha-lê-lu-ya trở nên cực kỳ thấm thía.

Tôi còn phải nhắc tới những kinh nghiệm quý báu nơi những vùng việc Đạo đang gặp khó khăn: những nghi lễ Hôn Phối và An Táng đã gây ấn tượng như thế nào trong lòng các bạn bè chưa có Đức Tin, và đã trở nên một dịp loan báo Tin Mừng như thế nào.

Tôi chỉ gi lại trên đây cảm giác của một người tầm thường, chưa dám bàn đến những ý nghĩa sâu xa cần đến các giáo sư Phụng Vụ để làm sáng tỏ.

Nghĩ lại, so với thời bà tôi, tôi cũng đã đi được một chặng đường khá dài. Vậy thì ai lại lội ngược dòng tiến bộ ? Hãy hăng say leo lên đài tương lai. Chỉ có điều con đường đi lên cũng có những hiểm trở của nó. Phải chăng những tranh cãi về bản dịch Phụng Vụ mới cũng có cái gì phản ảnh những hiểm trở đó?

Ngày xưa bà tôi “A-ve-ma-ri-a, đầy ga-la-ti-a” quê tôi “Đền vàng quỳ trước dâng hoa” thì cũng chưa phải là lý tưởng, và chắc chắn cuộc sống hồi ấy cũng có những trái ngang của nó. Nhưng trong cõi nhân sinh ấy, hình như có một sự hòa hợp nào đấy: ý với tình, nội tâm với lời nói như nhần nhuyễn với nhau, dù cho tiếng La-tinh với chữ Hán lẫn lộn nhau như thế không theo quy luật nào cả. Ai, và thời nào, dám tự cho rằng ý, tình, lời của mình đã đạt đến mức đồng cảm hoàn toàn với Đức Tin của Hội Thánh vốn là cõi cao sâu vô cùng ! Nhưng ít ra những ý ấy, tình ấy, lời ấy giống như những con suối nhỏ quanh co nhưng nhất mực chảy về sông cả biển khơi. Và như thế đó vẫn là những hợp âm quý giá trong bản giao hưởng Đức Tin của toàn Dân Chúa.

Chúng ta bây giờ cũng thế thôi. Cái trái ngang của chúng ta hôm nay hình như là ta đang phải vật lộn với một sự lỏng chỏng nào đó. Với tất cả những tiến bộ, kiến thức, tăng trưởng ta đã thủ đắc, ta đã lúng túng như chưa đạt được một tổng hợp nhần nhuyễn. Trong cố gắng diễn tả Đức Tin cho thật chuẩn xác, đôi khi ta có cảm tưởng như ý ở một đàng, tình ở một nẻo, và ngôn ngữ ta dùng trở nên đề tài tranh cãi gay go với nhau.

Ta hãnh diện vì Đại Lục Châu Á của ta là vùng đất của tâm linh, là nơi phát xuất của các tôn giáo lớn. Đạo Chúa Ki-tô cũng phát xuất từ Châu Á. Các giáo sư Thánh Kinh có giảng rằng Thánh Kinh có nhiều điểm, nhiều lối nói người phương Đông dễ hiểu, để thông cảm hơn người phương Tây. Dù sao, ta là người Đông Á, còn Thánh Kinh lại mang sắc thái Tây Á, thành ra cái giống nhau và cái khác nhau đan xen. Trong lịch sử, Đạo lại đi một vòng dài qua phương Tây rồi mới sang Á Đông. Bao nhiêu giai đoạn là bấy nhiêu tầng ngôn ngữ và văn hóa. Là một Đức Tin phổ quát mà biết bao nhiêu bộ mặt biến hóa.

Với cái di sản vô giá và đồ sộ ấy, khi ta cố gắng nói lên Đức Tin tinh tuyền, thì thường có một hơi hướng Tây Tây thế nào đó. Cái ngữ văn, ngữ điệu ấy, hình như chưa đích thực là ta hoàn toàn. Ta có phần nào giống như cô gái quê của Nguyễn Bính:


“Hôm qua em lên tỉnh về

Hương đồng cỏ nội bay đi ít nhiều”.

Dĩ nhiên, không thể dựa vào cái cảm giác “lỏng chỏng” để đối lập thời ta với thời “đầy ga-la-ti-a” và “Đền vàng quỳ trước dâng hoa” coi như thời xưa là một tổng hợp hoàn hảo, còn thời nay là một sự bát nháo. Làm sao có thể quên rằng trong lịch sử truyền giáo ở Trung Quốc cũng như ở ta, đã có những có cuộc tranh cãi kịch liệt về từ ngữ và về đường lối mục vụ giữa các Thừa Sai với nhau. Những công thức kinh kệ cũng là những gì chắt lọc được từ những tranh cãi sôi nổi ấy.

Cuộc sống là một chuỗi những diễn biến biện chứng với những khía cạnh mâu thuẫn rốt cuộc rồi cũng đạt được một tổng hợp quân bình nào đó trong một thời gian, trước khi những thúc bách tiến bước tạo ra những mâu thuẫn mới để lại rồi cần thời gian mới để tìm ra một tổng hợp quân bình mới. Biết đâu khi bà tôi bình an với “Ma-ri-a đầy ga-la-ti-a” vì được “Chúa Dêu ở cùng” là một thời gian quân bình như thế, và những tranh cãi của chúng ta bây giờ là một giai đoạn mâu thuẫn để đi tìm một quân bình mới?

Sau khi xuất hiện nhiều ý kiến nặng nhẹ về bản dịch Phụng Vụ mới, thấy có một vài bài giải thích về chủ ý cũng như cách làm việc của Ủy Ban Phụng Tự. Theo những người thông thạo tin tức cho biết thì ý các Đấng hữu trách là sau những giải thích ấy sẽ không trả lời ai nữa. Tôi trộm hiểu rằng các Đấng đã giải thích rồi có nghĩa là việc đã quyết định, không nói tới nói lui gì nữa, cứ thế thi hành thôi. Còn không trả lời ai nữa thì có nghĩa là các vấn đề nêu lên vẫn còn nguyên trạng đấy. Và như thế ta gặp lại cái tương quan biện chứng giữa sự dừng bước và sự tiến bước. Tiến là để tìm tới một điểm dừng, và dừng là để lộ ra những bức xúc khiến cho phải tiến nữa. Nói theo kiểu Thánh Kinh, có một thời để dừng và một thời để tiến...

VŨ, Hà Nội 24.7.2006 ( Còn tiếp )

ÔN LẠI NHỮNG LỜI KINH XƯA

Những trăn trở chung quanh một bản dịch xét cho cùng cũng nói lên cái ước ao được hòa hợp giữa ý với tình. Cả ý lẫn tình vốn không đứng yên một chỗ, vẫn tiến hóa mà lại phải hòa quyện với nhau; không thế thì con người như bị xẻ chia rất tội nghiệp. Từ thời ca vãn dâng hoa đến nay, ý với tình đều đã trôi nổi, đã kinh qua lắm đoạn nhiều đường; người ngày nay cũng có nhu cầu nói được những tình ý của mình. Một khi đã đón nhận Đức Tin, đã được Đức Tin cảm hóa, thì Tin sinh ra Tình.


Khi nói Đức Tin, nhất là khi cầu nguyện, khi cử hành Phụng Vụ, mà phần tâm, phần tình lại bị dồn nén, ức chế, thì ng ta có cảm tưởng như đang ăn, đang nói mà trong miệng lại cứ trệu trạo sỏi sạn. ý với tình hòa quyện được với nhau sẽ tạo ra vẻ đẹp, và Phụng Vụ là lời cầu nguyện chính thống của Hội Thánh, không thể không đẹp, không thể trái thẩm mỹ.


Ở Châu Âu hiện nay nhiều vị hữu trách về mục vụ cho rằng nét đẹp, ấn tượng thẩm mỹ chính là nhân tố đánh thức Lòng Tin nơi người đương thời. Ai cũng biết Châu Âu, đặc biệt là Tây Âu đang trải qua một cuộc khủng hoảng tâm linh, một giai đoạn khó khăn về tôn giáo. Nhà Thờ vắng người, xã hội sống lập pháp, vui chơi, hưởng thụ mà chẳng cần biết Đức Tin dạy gì, Giáo Hội nghĩ sao; tệ hơn nữa, có khi Đạo và Giáo Hội còn bị cái xã hội loạn xà ngầu ấy gán cho là lạc hậu, là phản tiến hóa, là đầu mối của lắm nỗi oan khiên. Trong một xã hội như thế, mà vẻ đẹp của Kinh Nguyện và Phụng Vụ lại có tác động thức tỉnh Lòng Tin, thì đủ thấy cái đẹp ấy không phải chỉ là mầu mè bề ngoài, nhưng nó gắn liền với cõi thâm tâm, nó là sự sống thăng hoa.

Việt
Nam ta nhờ ơn Chúa thương vẫn còn là một lối sinh hoạt Đạo có tính đại chúng, chắc chắn sinh ơn huệ cho rất nhiều tâm hồn. Nhưng có thể lo âu tự hỏi phải chăng cái tính đại chúng ấy có lúc lấn át, đánh giá thấp, hay là vô tâm đối với lãnh vực thẩm mỹ ? Chẳng lẽ phải đợi đến khi khủng hoảng như bên Tây rồi mới đi tìm cái đẹp ?


Nhớ lại những lần ngồi nghe cha giáo Mi-ca-e Nguyễn Hữu Phú giảng về Phụng Vụ. Cha say sưa đọc liên tiếp mấy chục kinh Phụng Vụ Tạ Ơn của Giáo Phụ ngày xưa, hết vị này đến vị khác. Lũ học trò ngơ ngác hỏi thầm nhau: “Sao cha đọc nhiều thế !” Về sau, quen với lỗi suy nghiệm và những phút bốc lửa của cha, lũ học trò mới ngộ ra rằng đối với cha, mỗi câu, mỗi chữ trong những Kinh Nguyện Tạ Ơn ấy đều nặng trĩu những mầu mỡ của Lòng Tin, đều nặng trĩu hồng ân, nặng trĩu linh hồn. Cha đã đi vào hiệp thông với những Giáo Phụ thời cổ, chia sẻ với các ngài những vầng trời cao sáng vời vợi vô biên.

Ngược dòng thời gian mà tìm thấy kho báu đó thì lại muốn đưa về chia sẻ với đồng đạo ngày nay. Linh Mục nho sĩ Sảng Đình Nguyễn Văn Thích, một người đã trả giá đắt để tìm thấy chất men Tin Mừng trong một chuyến bay trên bầu trời Đông Á để đi phó hội quốc tế, đã tức cảnh sinh tình viết bài thơ:

“Thái Bình Dương thượng, Thái Bình Thiên

Viễn thuỷ trường không, nhất sắc tiên...

Không gian đảo dữ thời gian chuyển,

Kinh tuyến thiên đồng, vĩ tuyến thuyên...”


Tôi xin mạn phép hiểu chệch ý kiến tác giả một chút, vì lời thơ quá sắc nét. Ngày xưa các Giáo Phụ chung quanh vùng phía đông Địa Trung Hải cầm bánh rượu ngước mắt lên trời mà thấy Đức Tin dậy men trong lòng mình bật ra lời kinh tạ ơn. Làm thế nào để chất men ấy cũng dậy lên trong lòng những người Việt trên bờ Thái Bình dương khi ngước mắt nhìn lên “Thái Bình Thiên”. Xứ sở này là một cõi “viễn thuỷ trường không” so với ngôn ngữ các Giáo Phụ. Cả “không gian và thời gian, kinh tuyến và vĩ tuyến” đều đã đổi thay, vậy mà vẫn là một Đức Tin duy nhất, như cha Thích viết trong câu kết:


“Phùng nghinh quốc tế hữu kỳ duyên”.


Một lần tôi đưa ông bạn, người một nước ven bờ Địa Trung Hải đi dọc một quốc lộ Việt
Nam. Sáng sớm Chúa Nhật, cứ vài khúc lại gặp một đoàn người cùng nhau bước đi bên đường. Thế là biết đâu đó có một Xứ Đạo, một Nhà Thờ, và Dân Chúa đi dự Thánh Lễ hoặc dự Thánh Lễ về, cứ vài khúc đường lại gặp những cây cầu, những dòng sông cuồn cuộn, những ruộng, những đồng. Và anh bạn Địa Trung Hải kêu: “Que d’eau ! Que d’eau !” – xứ sở này chứa chan nguồn nước. Tôi hiểu rằng vùng ven Địa Trung Hải của anh khô khan hơn, cỏ cây và con người khác ở đây.


Và tôi thầm ước niềm tin chung của chúng tôi vào Chúa Ki-tô hy sinh thân mình vì con người và đổ máu mình để lập giao ước mới, khi nẩy nở ở đây cũng hòa vào tâm hồn của những con người được nhào nặn bên ruộng lúa hay trên sông nước, bên lũy tre bụi chuối, bên những rừng tràm rừng đước, và những tán rừng nhiệt đới, và với một lịch sử như ta đã biết ....

VŨ, Sài-gòn 29.7.2006 ( Hết )

No comments: