Chương 4
Ly dị:
không phải lúc nào cũng là chuyện sai quấy
Mối
tương-quan giữa việc thống-trị và mức chịu đựng của người bị ép uổng, là mẫu mã
cũng khá thường khiến hôn-nhân theo kiểu xưa/cũ vẫn tồn-tại ở xã-hội do
nam-nhân làm chủ. Xưa nay, trên mọi mãnh-lực, đã biến mất thế quân-bình trụ cột
của xã-hội, vốn dĩ góp phần vào việc phá đổ thể-chế hôn-nhân như xã-hội ưa từng
diễn-giải. Quả thật, điều đó vẫn diễn-tiến liên-tục cả vào hôm nay, hệt như mức-độ
ly-dị cứ thế lan tràn khắp nơi, và rồi dần dà đi vào tình-huống hết thuốc chữa.
Từ
một khởi-đầu ít thấy rõ trải qua nhiều thế-kỷ, uy-thế khác biệt giữa phái-tính
đã tăng nhanh theo mức-độ khó lường. Ở tầm-mức cách-biệt đến cả thập-niên, toàn-bộ
xã-hội nay đã nhạy cảm hơn đối với giới-tính, ngoại trừ ngôn-ngữ của dân gian.
Truyền-thống
báo chí khi xưa thường nói nhiều về người lính cứu-hỏa và cả đến nhân-vật coi
sóc hoặc sở-hữu các cơ-quan biệt-lập. Giáo-hội của Chúa, lại cũng qui về với dân
con Đức Chúa, là Đấng tạo đặc-trưng chân-phương nơi thể-chế mẫu-hệ cũng như phụ-hệ.
Nhiều
ngành/nghề mà 50 năm về trước không ai nghĩ rằng: họ có thể giao-phó cho “đàn
bà” làm chủ, thì nay đã hoàn-toàn mở rộng cho phái nữ phụ-trách. Ngay đến hôn-nhân
vốn đặt nặng cung-cách phụ-hệ cũng đã lui vào dĩ-vãng, để lại một xu-thế khó cưỡng
lại.
Trước
khi bàn về những phạm-vi có tác-dụng như ly-dị, có lẽ ta cũng nên để mắt nhìn về
khía-cạnh nguyên-nhân và triệu-chứng diễn-biến theo trình-tự đổi thay. Đã hẳn, chỉ
số ly-dị ở mức-độ cao tít cũng đã tượng-trưng cho thứ gì đó khá tích-cực chứ
không tiêu-cực như trước, nếu đem so với đời sống con người thời nay.
Những
năm tháng trải dài vào cuối thế kỷ thứ 19, việc phát-minh ra kính hiển-vi lại cũng
cho phép người phàm mắt thịt (chí ít là, mắt và thịt đàn ông bao giờ cũng ở tư-thế
“hơn hẳn”) để rồi, lần đầu tiên trong đời, ta có thể sử-dụng con mắt thể xác nhìn
vào noãn-sào phụ-nữ cũng rất dễ. Đã từ lâu, người người đều biết đến sự hiện-hữu
của noãn-sào trong cơ thể người nữ, nhưng chắc chắn chưa ai thấy được những thứ
tương-tự, bằng mắt thịt. Thành thử, sự trùng-hợp giữa lý-thuyết và dữ-kiện là sự
thật đầy kịch-tính đã diễn ra trong lịch-sử loài vốn tạo nhiều hệ-lụy đi xa hơn
cả địa-hạt khoa-học.
Sự-kiện
này cho thấy, duy chỉ một lần, là: phụ-nữ là đối-tác đồng-đều mọi mặt so với
nam-nhân trong tiến-trình sản-sinh con người. Ngày nay, sự việc tương-tự đã trở
thành chuyện thông thường ở huyện tuy cũ/xưa, nhưng nguồn-gốc mọi sự đã khiến nó
trở-thành hiện-thực lại là sự việc tạo ngỡ ngàng thật không nhỏ.
Rõ
ràng, từ những thứ và những sự tràn đầy tính thần-thoại, hiểm-hóc hoặc húy-kỵ như
tập-quán dân-gian tiền-sử hoặc các nối-kết giữa việc ăn nằm xác thịt với hiện-tượng
thụ thai là những thứ mà con người thời trước hiểu biết không được rõ cho lắm.
Tác
giả Jean Auel, trong cuốn tiểu-thuyết
do bà viết về “Sự sống con người thời đồ đá” (*1) đã cho rằng: sự khôn-ngoan của loài người vào thời ấy vẫn được
hiểu theo cách kỳ lạ vốn dĩ bảo rằng:
“thần-khí” của nam-nhân từng bị nữ-giới bắt chộp để rồi buộc hai người phải chấp
nhận có thai nhi trong bụng dạ người mẹ.
Thời-khắc
chín tháng mười ngày, kể từ khi thụ thai/cưu mang cho đến khi sinh nở, đơn giản
cũng hơi dài đối với đấng bậc phụ mẫu, khiến các vị hiểu thêm nguyên-nhân và hậu-quả
xảy đến với cuộc sống của chính mình. Tất cả những gì người thời đó biết được,
chỉ gồm mỗi việc là: phụ-nữ sinh em bé theo cách nào đó, vẫn là chuyện sẻ-san uy
quyền lĩnh hội từ trái-đất-là-mẹ.
Thoạt
vào lúc nam-nhân nắm quyền sinh-sát hết mọi sự, ai ai cũng thấy được sự việc này
dấy lên từ bảy đến mười ngàn năm trước qua đó vai-trò người phụ-nữ là kẻ chấp-nhận
thần-tính của trẻ bé nay giảm dần theo tầm nhận-định của dân đen ở mọi thời.
Nhiều
xứ sở thuộc Địa Trung Hải, vào thời Đức Kitô vừa xuất-hiện, tầm nhìn của mọi
người vốn dĩ chấp-nhận việc sản sinh lại đã bàn luận rằng: toàn bộ tiềm-năng của
trẻ bé đã hiện-diện nơi tinh-trùng của nam-nhân. Đàn ông chính là người đã trồng
cấy thai-nhi nơi cung lòng vô tính của người bạn đời của ông và đối tác của ông
lại vẫn không gây trồng thêm thứ gì khác vào sự việc thiết-dựng mầm “gien” của trẻ
bé, nhưng ông chỉ sử-dụng nó như một thứ lồng ấp thai-nhi là sản-phẩm của ông,
mà thôi.
Ngôn-ngữ
loài người từng phản-ảnh tầm nhìn không chính-xác về việc tiếp-thụ thai-nhi. Bởi,
lâu nay ta vẫn qui vai-trò của người nữ trong việc cưu-mang trẻ bé như thể bảo:
“Bà ta có em bé là do ông ấy cấy tạo, thôi”.
Tuy
nhiên, nữ-giới lại cũng nghĩ là: mình có trách-nhiệm tạo nên giới tính cho trẻ
bé; bởi thế nên người nữ nào không thể sinh con trai cho chồng, đều bị quở
trách. Không sinh con trai cho chồng, điều này có nghĩa: nữ-tính của bà không “tiếp
thụ” cho đủ và tình-trạng hiếm muộn đây có nghĩa: phụ nữ nào ở vào tình-trạng như
thế đều bị coi như không là vật dụng để chứa đựng một cách chính-đáng.
Nhất-định
là, lập-trường này mang thiên-kiến ngả về phía nam-giới. Và điều này, cho thấy:
truyện kể của nhà Đạo mô-tả sự việc Hài Nhi Giêsu sinh ra từ cung lòng người mẹ
còn trinh-tiết cũng chỉ là chuyện hoang-đường, thôi. Bởi, Đức Giêsu dù Ngài có muốn
làm Đức Chúa Con hay sao đó, thì chỉ mỗi nam-giới mới bị rút khỏi tiến-trình
sinh sản, thôi.
Sự
việc này, không làm giảm-giá khẳng-định mà mọi Kitô-hữu thời tiên-khởi đều nghĩ:
Đức Giêsu có nguồn-gốc thánh-thiêng giả như Thân-Mẫu Ngài là người phàm; bởi lẽ,
Thân Mẫu Đức Giêsu chỉ là người cho mượn cung lòng để đón-nhận và dưỡng nuôi thai-nhi
Giêsu, mà thôi.
Khi
tiến-trình truyền mầm gien thuộc hai phái-tính được mọi người hiểu rõ, thì việc
chọn lựa đối-tác cho nam-nhân đã trở-thành quyết-định có tầm quan-trọng rất lớn.
Nam-giới không chỉ lập gia-đình vì tình-huống kinh-tế xã-hội đặc-biệt, nhưng các
vị còn gia-nhập vào vũng lầy nhiễm-sắc-thể khả dĩ định-đoạt tiềm-năng cá-thể của
trẻ bé.
Đó
là lý-do cho thấy: tại sao chỉ mỗi việc nhìn thấy trứng bằng kính hiển-vi thôi,
cũng đã là sự-kiện quan-trọng trong hành-trình kiến-tạo bình-đẳng cho cả nam lẫn
nữ. Tình-trạng phụ-nữ có gia-đình không thể diễn-tiến tốt đẹp hơn, đến khi nào vai-trò
của hai phái-tính được kiến-tạo đồng đều, trong sinh sản.
Biến-chuyển
quyền-lực nói ở trên, lâu nay cũng được ghi-nhận cả trong phụng-vụ nữa. Có một
thời, nghi-thức hôn-phối trong Đạo đòi cô dâu phải thề sẽ yêu thương, trân trọng
và vâng phục chồng mình suốt đời mình. Vâng phục, là đặc-trưng thích-đáng giữa
chủ/nô, giữa bậc cha mẹ và con cái, đôi lúc còn là tương-quan giữa chủ nhà và
thú nuôi làm cảnh.
Chắc
chắn, đây không là quan-hệ hỗ-tương và đồng hạng. Quả thật, duy nhất chỉ xã-hội
nào tin rằng phụ-nữ ở giai-cấp thấp hèn hơn nam-nhân mới đòi người nữ thề-nguyền
vâng-phục đức ông chồng của mình, suốt một đời. Lời nguyền này, nay bị loại bỏ
khỏi mọi nghi-thức hỏi/cưới, ít ra cũng trở-thành việc tùy chọn ở mỗi gia-đình,
khởi từ đầu thế-kỷ thứ hai mươi cho đến nay.
Nhiều
gợi nhớ tế-nhị cho thấy tình-trạng phụ-nữ thuộc giai cấp ở dưới khiến ta không thể
xóa bỏ trạng-huống ấy. Mãi đến thập niên 1970s, trong Sách Kinh Chung qua đó cô
dâu được yêu-cầu “sống chung thủy” với chồng, trong khi chú rể lại chỉ buộc phải
“hứa” sống trung-thực, mà thôi.
Cao
điểm của lễ cưới theo truyền-thống trong đó vị chủ-sự phụng-vụ công-nhận rằng
việc phối-kết hoàn-tất, đã dõng dạc tuyên-bố: “Tôi long trọng tuyến bố anh/chị nay trở-thành vợ-chồng, kể từ đây.” Có
thể nói, chú rể với tư-cách là nam-nhân cùng phái-tính với vị chủ-sự lễ, nên các
hành-xử hoặc động-tác phụng-vụ giống như xưa, chẳng thay đổi quá-trình/lai-lịch
chút nào hết.
Tuy
nhiên, với nữ-phụ thì sự việc lại trở nên mới mẻ, như sự thể cho thấy: người vợ,
dựa vào cơ-chế luật-pháp đính kèm được dùng để kiểm soát cá-nhân bà mà thôi. Chính
vì lý-do đó, phụng vụ mới đã khiến đôi bên hạ quyết-tâm theo cách đồng đều, để
rồi cả hai bên nay tuyên-bố những câu đại
để bảo rằng: “Đây là lời thề long trọng của
tôi” và khi đó vị chủ sự mới tuyên bố hai bên nam/nữ đã thành vợ thành chồng
với nhau.
Tuy
nhiên, thay đổi này cũng chỉ là đổi thay hệt như đổi thứ mỹ-phẩm bên ngoài mà
thôi. Bởi lẽ, biểu-trưng cuối cùng này cho thấy vai-trò người nữ đã và đang xuống
giá cả trong hôn-nhân vẫn tồn-tại qua khuôn khổ của câu nói chính-thức của vị
chủ-sự, hỏi rằng: “Ai cho phép chị được lấy
anh này làm chồng vậy?”
Thông
thường, người cho phép nói ở đây là cha đẻ của cô dâu, tức: người dắt tay cô
dâu xuống lòng nhà thờ trả lời: “Người ấy
là tôi đây.” Và như thế có nghĩa: người đàn ông này trao cô gái con đẻ của mình
cho một người đàn ông khác, thôi. Nói thế tức bảo rằng: người ta không thể cho
đi những gì mình không có. Điều này, lại cũng ám chỉ bảo rằng: cô dâu lâu nay là
vật sở-hữu của người cha đẻ ra cô. Thế nên, cô có thể bị cho đi hoặc đôi khi còn
được bán với giá nào đó làm của hồi-môn cho một người đàn ông nào khác.
Và
như thế, sẽ có nhiều điều tế-nhị lại cũng làm nổi bật nghi-tiết phụng-tự xưa
nay vẫn dần dà đổi thay. Và cũng vì thế, nên cha ruột đẻ ra cô cũng muốn phân-bua
đôi điều, mà bảo rằng: “Điều đó, do bởi mẹ
cháu và tôi định-đoạt”. Và có lúc, cả ông bố lẫn bà mẹ đều lên tiếng bảo: “Chuyện đó do bọn tôi mà thành.”
Sách Kinh Chung ấn hành năm 1979 có chỉnh-sửa
từ-vựng “cho”, và thay vào đó bằng động-từ
“Đem ra trình diện”; và Sách Kinh này còn đề-nghị chú rể cùng
với cô dâu, đôi trẻ phải ra mắt hai họ, nữa. Tuy thế, nghi-thức phụng-vụ lại không
bao gộp câu hỏi bảo rằng: “Ai cho phép
chú rể lấy cô dâu này thế?” Bởi lẽ, làm thế như thể muốn thách-thức Phụng-vụ
Hôn-nhân về tính-cách ngả về phía nam-nhân; thế nên, Giáo hội vẫn cứ để mọi người
tùy nghi thực-hiện.
Lịch-sử
lại cũng cho biết: theo cách cởi mở hơn thời trước, phụ-nữ thường không có uy hoặc
phương-tiện kinh-tế, chính-trị cũng như xã-hội để thực-hiện mọi việc. Thành thử,
các bà các cô cần phải dựa vào hôn-nhân làm phương tiện là để tạo cho mình sự an-toàn
trong cuộc sống.
Xem
thế thì, phụ-nữ chính là người bị giam hãm rất nặng, chẳng cần biết tương-quan
vợ chồng sống với nhau có khiến cho đôi bên được sảng-khoái/mãn nguyện hoặc miễn-cưỡng,
bởi ly-dị thường là biện-pháp không mấy tốt đẹp đối với phụ-nữ. Và, tòa án hôn-nhân thời nào cũng đều do
nam-nhân kiểm soát. Nữ chánh-án, là sự-kiện chỉ mới xảy đến vào thế kỷ thứ 20,
thôi. Luật sư cũng như bồi-thẩm-đoàn, chỉ là nhân-vật phụ mà thôi.
Các
trường-hợp đưa dẫn hai bên đến tòa-án ly dị, hoặc đi vào hệ-thống mất quân-bằng
về kinh-tế nền-tảng được thực-hiện qua tiền cấp-dưỡng con trẻ, dù đôi lúc cũng không
là việc cần thiết gặp trường-hợp nữ-phụ là người mẹ bị qui trách mọi chuyện. Và
khi ấy, phụ-nữ ly-dị chồng phải sống bằng tiền cấp-dưỡng xuất từ tiền túi của
người phối-ngẫu đã cách-ly, do tòa định. Thành thử, nếu tính chuyện ly-dị, người
phụ-nữ hết bị giam-cầm rồi lại bị giam-hãm, thôi.
Hơn
thế nữa, tòa hoà-giải sẽ trở-thành bất-lực và thiếu hiệu-năng trong việc áp-đặt
ly-dị; và nữ-phụ ly-dị cứ phải sống trong tình-trạng bấp-bênh liên-tục với hiện-trạng
túng-thiếu, vô-vọng.
Trong
thủ-tục ly-hôn, tài-sản ít khi được chuyển từ chồng sang vợ, vì phụ-nữ được xem
là người không có khả năng đầu tư tương-xứng. Thế nên, nếu làm như thế sẽ bị xem
như không thích hợp.
Trong
nhiều vụ ly-hôn, bản ly-hôn có viết xuống là: tiền trợ cấp sẽ bị ngưng một khi tái-giá.
Điều này có ý bảo rằng: khi một nam-nhân nào đảm-nhận trách-nhiệm kinh-tế cho nữ-phụ
đã ly-dị, thì khi ấy sẽ được coi là có đóng góp cho kinh-tế cho chị đổi lại việc
được hưởng ân-huệ xác thịt; và khi ấy, trách-nhiệm của người chồng cũ mới chấm-dứt.
Trong
điều-kiện như thế, phụ nữ thường cũng tránh né ly-dị và người nữ-phụ phải cam
chịu những hành-vi bạo-hành, phải chịu những cú tát đánh vào phẩm giá của chị
do sự bất trung của người chồng đôi khi trắng trợn. Và, cứ thế tích-tụ lên mình
chị, nhưng vì vấn-đề sống còn về kinh tế buộc chị phải ở lại với hôn-nhân đầy
áp-bức.
Rất
ít cơ hội tìm việc làm chờ người phụ-nữ không chồng ngoài những việc trong nhà,
việc khó nhọc đổ mồ hôi hoặc làm gái thuê bao/mại dâm nên đôi khi không có cách
nào khác hơn là ở lại với hôn nhân tàn-nhẫn, hung-bạo.
Bên
đòi ly dị, dù ở trường-hợp nào đi nữa thường vẫn là nam-nhân. Thi thoảng,
gia-đình người nữ-phụ ở tư-thế tài-chánh và địa vị nào đó cho phép chị dám đòi
ly dị. Cho dẫu là như thế, ngay cả trường-hợp chị thừa hưởng khoản kế-thừa của
gia đình mình đi nữa, vào thời-điểm của hôn-nhân vẫn luôn bị đặt dưới sự kiểm-soát
của người chồng.
Chậm
mà chắc, hồi cuối thế-kỷ thứ 20, tình-trạng độc-lập kinh-tế của nữ-giới cứ ngày
một dâng cao trong khi đó chủ-trương độc-tài/toàn-trị của nam-nhân cũng dần dà
giảm sút. Thoạt khi thế chiến thứ hai lôi kéo đám đàn ông/con trai đi vào cuộc
chiến, thì nữ-giới lại vui hưởng tình-trạng gia-tăng quyền-lực kinh-tế.
Từ
đó, ai cũng thấy là: sinh-hoạt lao-động bên ngoài xã-hội tuy không thuyên-giảm
nhưng vẫn trở-thành hoạt-động yêu nước do chị em phụ-nữ đáp-ứng lời kêu gọi chấp-nhận
làm việc nặng, tức: dám đảm-nhận những việc trước đây chỉ dành cho nam-giới, mà
thôi. Và, truyền-thông phương Tây đã nhanh chóng quảng-bá cũng như hợp-thức-hóa
tình-trạng có ‘một không hai’ này khiến phụ-nữ được ca-tụng là “Bông Hồng đẹp
nay làm thợ tán đinh”.
Cả
đến quân-lực, nay cũng bắt đầu tuyển-mộ lính-chiến phụ-nữ tham-gia Thế Chiến Thứ
Hai nữa. Phụ nữ khi ấy, thực-hiện công-việc của thư-ký và bảo-quản hàng hóa vốn
“xuất xưởng” nhiều binh-sĩ và thuỷ-thủ, một công-việc xưa nay do nam-nhân phục-vụ
trong địa-hạt chiến-tranh.
Không
ai lại nghĩ: một quân-đoàn gồm toàn phụ-nữ như thế, lại trở-thành cố-định hoặc
có khi sản-xuất ra tướng tá, đề đốc và thuyền-trưởng, nhưng nay đã thành hiện-thực.
Cũng có lúc, kỳ-vọng của nam-nhân là khi chiến-tranh chấm-dứt và mọi sự trở lại
bình thường, thì phụ-nữ trở lại gia đình, về với tổ ấm thân thương, vui lòng giao
lại các trọng-trách như thế cho nam-nhân. Rất ít người nghĩ là hương-vị từ quyền-uy
kinh-tế sẽ tạo cho phụ-nữ lòng ước-ao sống biệt-lập
Sau
thế chiến thứ hai, ai nấy vội vã quay về trường lớp để tiếp-tục học hành. Đấy kìa,
số nam-nhân trẻ và các cựu-chiến-binh vừa mới trở về từ chiến-trường cũng tìm
đường nới rộng vòng đai chân trời của họ, bằng cách cố học cao hơn nữa. Ngay
như phụ-nữ ai muốn có cơ-hội học-tập cũng không còn bị khước-từ như trước. Các
đại-học ở tiểu-bang có ý ngăn-chặn phụ-nữ không cho nhập-học đều bị sinh-viên đâm
đơn kiện tụng. Các trường trung-học từng kỳ thị nữ-giới cũng giảm-sút số lượng
học-sinh một cách đáng kể.
Cuối
cùng thì, các trường tư trước đây chỉ dành cho nữ-sinh thôi nay đã bắt đầu chịu
nhận nam-sinh để trở-thành tư-thục hỗn-hợp nam/nữ. Ngày nay, cả đến đồn lũy khoa-bảng
có thời từng nổi danh qua chuyện bao gồm phần lớn là nam-sinh, nay cũng có tỷ-lệ
nữ-sinh cao hơn trước. Cùng với dấu-hiệu kỳ thị giới-tính như câu lạc-bộ ăn uống
chuyên phân-chia giới-tính, cuối cùng rồi cũng thấy nữ-sinh tràn ngập các trường
chuyên-nghiệp kỹ-thuật, thương-mại, y-khoa và luật-khoa nữa.
Nữ-giới
không còn bị hạn-chế chỉ mỗi làm chân thư ký, phụ tài-chánh, y-tá, chỉ lo mỗi
chuyện vệ-sinh phòng ốc, hoặc phụ-tá luật-sư, thôi. Cơn ‘sóng thần’ bình-quyền
đã bắt đầu nổi như cồn và chẳng thứ gì khiến mọi sự quay trở về vết cũ cả. Ngày
nay, phụ-nữ đã đảm-nhiệm vai-trò chủ-tịch hoặc Giám-đốc ngân-hàng dẫy đầy khắp
nơi.
Phụ-nữ,
nay cũng trở-thành bộ-trưởng tư-pháp, luật-sư đại-diện cho cả nguyên-đơn lẫn bị-đơn,
khoa-học-gia, phi-hành-gia, và cả đến phẫu-thuật-gia, giáo-sư y-khoa và tăng-lữ
nữa. Nói cách khác, ngày nay phụ-nữ có mặt ở khắp nơi, cả những địa-hạt mang
tính quyết-định trong xã-hội người.
Ngày
nay, mọi người còn định ra nhiều từ-vựng không mang giới-tính để mô-tả
thành-viên cơ-quan hoặc tổ-chức mới nổi trong một thế-giới tân-tạo. Họ được gọi
bằng tên rất mới như: “yuppies” (tức: chuyên-gia trẻ chuyển-động đang vươn
cao), “muppies” (tức: chuyên-gia trung-niên đang chuyển-động), và các “dinks” (tức: những người có lợi tức gấp đôi, lại không con/cháu).
Với
phụ-nữ, việc bắt buộc phải phụ-thuộc kinh-tế như giai-cấp thấp nay đã chấm-dứt.
Ngay chuyện ‘cho không’ hoặc phát chẩn cũng dần dà biến-dạng, và việc phân-chia
tài-sản đã được thay vào đó. Xu-hướng thông-dụng hiện giờ, là con người ngày
nay, cả nam lẫn nữ, có cơ-hội đồng-đều trong cuộc sống, thế nên vốn liếng khi
xưa tích-lũy nay ăn đồng chia đều.
Tuy
nhiên, trong nhiều trường-hợp, giả-định này cũng không chính-xác cho lắm. Phụ-nữ
có con nhưng không sống với chồng, đang trở-thành đại đa-số trong xã-hội.
Việc
đôi bên phụ-thuộc nhau, là yếu-tố mạnh của hôn-nhân khi hai bên có cơ-hội đồng
đều trong giáo-dục, trong việc kiếm kế sinh-nhai và có chỗ đứng ngang hàng ở
xã-hội, rồi từ đó trở-thành những người có lai-lịch khác với thời-đại, trong đó
nam-nhân luôn làm chủ mọi sự. Hôn-nhân, nay trở thành quan-hệ tương-tác rất đồng
đều. Điều này tạo ảnh-hình mới vốn tạo ảnh-hưởng lên mọi khía-cạnh cuộc sống thông-thường
của ta.
Đối-tác
khác-biệt về giới-tính cùng đến với nhau để nhận ra nhu-cầu không chỉ một người
nhưng của cả hai bên. Phụ-nữ, nay được coi như người có nhu-cầu, ước-vọng và xu-thế
vui-hưởng tình-dục ít/nhiều hệt như nam-giới. Điều này không phải ai cũng thấy được
ở thế-kỷ trước, chí ít là khi các cô dâu nay không phải người nào cũng được mẫu-thân
giáo-dục như bổn-phận cần-thiết về dục-tính.
Khi
xưa, người ta thường quay về với lời khuyên cổ-điển của Nữ-hoàng Victoria từng nhắn-nhủ
mọi người trước ngày cưới, rằng: “Hãy nhắm
mắt lại và nghĩ về nước Anh là xong”.
Trong
chuyện ăn nằm xác thịt, đôi bên đều sướng vui, tức: niềm khoái-cảm mang nặng sắc-thái
hỗ-tương, nay được ca-tụng nhiều trong các sách viết về dục-tình như mục-đích
chung-cuộc, còn gọi là “chẳng đặng đừng”,
tức: nếu không đạt thì đừng làm. Từ đó, mọi người mới kỳ-vọng sẻ-san mẫu-mực
hành-xử đồng-đều xua-đẩy thứ trật-tự nam-giới ra khỏi mọi kỳ-vọng mà lâu nay mọi
người vẫn chú-tâm.
(còn
tiếp)
Gm John Shelby Spong
biên soạn.
Mai
Tá lược dịch.
No comments:
Post a Comment