Tuesday, 23 June 2009

SÁM HỐI CỦA TẬP THỂ GIÁO HỘI - Lm CHÂN TÍN

1. Hôm qua, ta đề cập đến sám hối cá nhân thường thường ta dựa vào lề luật để xét mình và sám hối (10 điều răn Thiên Chúa, 6 điều răn Hội Thánh). Tôi đã lưu ý anh chị em việc sám hối dựa trên căn bản của một Kitô hữu: lời gọi nên hoàn hảo của Chúa Kitô và ba chức năng của Kitô hữu (tư tế, ngôn sứ, vương đế).

2. Hôm nay, ta đề cập đến sám hối của tập thể Giáo Hội dựa trên mầu nhiệm và sứ mạng của Giáo Hội.

3. Mầu nhiệm Giáo Hội:

Trong hiến chế về mầu nhiệm Giáo Hội, công đồng Vatican nói: Ánh sáng thế gian chính là Đức Kitô, do đó Giáo Hội phải phản chiếu ánh sáng ấy cho muôn dân, khi rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Giáo Hội là bí tích của Chúa Kitô, vừa là dấu hiệu, vừa là phương tiện để mật thiết kết hợp với Chúa và hợp nhất nhân loại với nhau. Vì thế giáo hữu phải biết rõ đặc tính và sứ mạng Chúa Kitô đã giao phó cho Giáo Hội.

Ý Chúa Cha là cứu độ mọi người: Thiên Chúa muốn nâng mọi người lên tham dự đời sống Thiên Chúa – con người sa ngã. Chúa Kitô cứu độ - Thiên Chúa muốn những ai tin Chúa Kitô họp thành Giáo Hội – Chúa Kitô lập Giáo Hội, Chúa Thánh Thần hoàn tất.

Giáo Hội nhiệm thể Chúa Kitô: Chúa Kitô là đầu. Một thân mình, nhiều chi thể. Đòi hỏi sự hợp nhất trong sự khác biệt của các chi thể trong Giáo Hội có cố gắng xây dựng sự hợp nhất và tôn trọng sự khác biệt các chi thể? Để cho Chúa Kitô là đầu lãnh đạo Giáo Hội qua lời Ngài không bị bóp méo? Tôn trọng giám mục, không để cho một đoàn thể nào trong Giáo Hội dựa vào quyền lực để điều khiển sinh hoạt của Giáo Hội? tinh thần Đức Kitô hay tinh thần thế gian chạy theo chiều gió chi phối Giáo Hội? Giáo Hội là một thân thể có phần vô hình và hữu hình, ta làm gì để phát triển? Có phấn đấu để có điều kiện phát triển?

Chức năng tư tế: Giáo Hội là dân riêng mới của Thiên Chúa, với giao ước mới trong Máu Chúa Kitô. Chúa Kitô là linh mục thượng phẩm – trao quyền cho hàng giáo phẩm, ngoài chức tư tế cộng đồng của toàn thể tín hữu và của mỗi tín hữu, như đã nói hôm qua.

Giáo hội Việt Nam đã làm gì, đã phấn đấu như thế nào để Giáo Hội Việt Nam thực hiện chức năng tư tế của hàng giáo phẩm?

Để bảo đảm chức năng tư tế, ta cần:

- Đào tạo Linh mục: tự do lập chủng viện, chọn giáo sư, chọn chủng sinh, chọn chương trình đào tạo.

- Việc thuyên chuyển linh mục coi xứ, phong Giám mục, Linh mục.

- Tổ chức phụng tự, thánh lễ, cầu kinh có được tự do chưa? Đã phấn đấu?

Phải nói là cho đến nay, chưa phấn đấu đủ - không phải âm thầm năn nỉ ỉ ôn, mà công khai cho dư luận biết.

Chức năng ngôn sứ: tự do rao giảng Tin Mừng, Giáo lý tân tòng, trẻ em? Sách vở báo chí? Kinh thánh? Sinh hoạt Việt Nam có nói thẳng nói thật với chính quyền về những vi phạm tự do tôn giáo? Có lên tiếng bênh vực nhân quyền, dân quyền? Hiến chế về giáo hội trong thế giới ngày nay nói: “Nỗi vui mừng và niềm hy vọng, những buồn khổ và mối lo âu của con người hôm nay, cách riêng của những người nghèo và của tất cả những ai đang đau khổ, đó cũng là vui mừng và hy vọng, đau buồn và lo âu của môn đệ Chúa Kitô: không có gì liên quan đến nhân loại mà không có tiếng vang trong cõi lòng tín hữu Chúa Kitô. Công đoàn Kitô hữu gồm những con người, được họp lại trong Chúa Kitô, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trên đường về nước Cha, họ mang sứ điệp cứu rỗi phải được gởi đến cho tất cả. Công đoàn tín hữu cảm thấy thực sự và sâu xa liên đới với con người lịch sử nhân loại”.

Trong tinh thần phục vụ con người, Giáo Hội Việt Nam cần xét mình lại xem mình có thực sự và sâu xa liên đới với con người Việt Nam hôm nay.

Người Việt Nam hôm nay hy vọng và lo âu cái gì? Họ lo âu trước tình trạng của một xã hội tan rã trên mọi phương diện: trong đó họ bị tước đoạt những quyền căn bản của con người và người dân. Con người sinh ra bình đẳng và tự do, có tất cả những quyền căn bản của con người mà Thiên Chúa ban cho họ - thêm vào đó ngày 10 tháng 12 năm 1948, Liên Hiệp Quốc đã ra Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, có đoạn nói như sau:

“Xét rằng thừa nhận phẩm giá cố hữu những quyền bình đẳng và bất khả nhượng của con người trong đại gia đình thế giới là đặt nền tảng cho tự do, công lý và hòa bình thế giới.

Xét rằng vì không biết rõ và khinh miệt nhân quyền, nên loài người đã có những hành động dã man đối với lương tâm và xét rằng sự tiến tới một thế giới trong đó nhân loại sẽ được hưởng tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng và tự do sinh sống không phải sợ hãi và thiếu thốn, đã được tuyên bố là nguyện vọng cao cả nhất của con người.

Xét rằng điều tối cần là nhân quyền phải được pháp luật che chở, nếu muốn cho loài người không bao giờ phải dùng đến phương tiện nổi loạn, để chống lại sự tàn bạo và áp bức…Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc công bố bản tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền này như là một lý tưởng chung cho các dân tộc và các quốc gia phải tiến tới”.

Tiếp đó, bản tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền đưa ra 30 điều về nhân quyền: Quyền được hưởng tự do và an ninh cá nhân (3); Quyền không bị hành hạ hay ngược đãi, bị đối xử hay trừng phạt một cách vô nhân đạo, làm hại phẩm cách con người (5); Quyền được bình đẳng trước pháp luật, được pháp luật bảo vệ (7); Quyền khỏi bị bắt bớ giam cầm hay lưu đày một cách trái phép (9); Hưởng một cách bình đẳng quyền nhờ vào một tòa án vô tư và độc lập (10); Quyền được coi như vô tội khi bị truy tố mà chưa có tòa xét xử với bằng chứng để buộc tội (11); Quyền không được xúc phạm trái phép đến đời tư, gia quyến, nhà ở, thư từ (12); Quyền được tự do di chuyển và trú ngụ bất cứ nơi nào trong nước họ và quyền tự do rời bỏ bất cứ noi nào, kể cả xứ mình, hoặc trở về xứ sở mình (13); Quyền tự do kén chọn một quốc tịch theo ý muốn (14); Quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng (18); Quền tự do bày tỏ ý kiến, tự do tìm kiếm, thu nhận và truyền bá những quan niệm và ý tưởng của mình (19); Quyền tự do hội họp và lập hội để theo đuổi những mục tiêu hòa bình và không ai bị bắt buộc phải ở trong một hội nào (20); Quyền bầu cử tự do (21); Quyền hưởng an ninh xã hội (22); Quyền làm việc, quyền tự do chọn lựa việc làm của mình, quyền hưởng số lương phải chăng và đủ để bảo đảm cho mình và cho gia đình một đời sống xứng đáng với phẩm giá con người, mọi người có quyền lập và gia nhập nghiệp đoàn để bảo vệ những quyền lợi của mình (28); Quyền hưởng một mức sống đầy đủ cho sức khỏe và hạnh phúc của mình, của gia đình mình, quyền hưởng tiện nghi giáo dục, y tế, quyền cha mẹ lựa chọn sự giáo dục cho con cái (26)…

Giáo Hội Việt nam, trong đó có Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, các Giám mục địa phận, các linh mục, tu sĩ và giáo dân, Giáo Hội Việt Nam đã làm gì, đã lên tiếng khi thuận khi nghịch, khi âm thầm khi công khai, để người trả lại những quyền căn bản của con người cho người Việt nam hôm nay?

Phải nói là đau lòng khí thấy Giáo Hội quá âm thầm chịu đựng và không dám nói thẳng nói thật. Có nói âm thầm không, chắc cũng có, nhưng như đi xin ân huệ, năn nỉ ỉ ôi, trả giá – còn công khai thì thật là hiếm – còn có ông vỗ ngực đại diện giới Công giáo đã vung vít tuyên bố một câu nghe xanh rờn như một lời tuyên xưng Đức tin vào đảng Cộng sản Việt Nam, tại buổi họp khoáng đại của Quốc hội (7.7.1976) : “Tôi xin phép nói lên tâm tình của một Linh mục Công giáo (…) Báo cáo chính trị (của Quốc hội) càng làm cho tôi xác tín thêm hơn nữa rằng con người mới, xã hội mới mà mọi người đều mơ ước, mà mọi người tin vào Chúa Kitô mãi mơ ước, con người mới đó, xã hội mới đó không thể có được, không bao giờ có được, không bao giờ có được, nếu không có đảng Lao Động Việt Nam (đảng CSVN), đội tiền phong của giai cấp công nhân lãnh đạo và tổ chức

Không biết Linh mục ấy đã ân hận chưa ? Có lẽ ân hận vì những gì mắt thấy tai nghe, không thể mù không thể điếc được, thì phải nhức nhối lắm. Nhưng có sám hối chưa ? Chưa thấy. Đã công khai nói như thế, thì sự sám hối cũng phải công khai.

Một vị yêu nước khác lại tuyên bố nào là Nước Thiên Chúa đã đến với chế độ cộng sản Việt Nam, nào là đảng cộng sản Việt Nam tạo điều kiện cho ta giữ đạo. Đó là những lời nịnh bợ vô liêm sỉ, khi Giáo hội đang bị bóp chết bằng cách giới hạn đào tạo Linh mục, đóng cửa các nhà đạo tu sĩ, cấm in sách vở báo chí Công giáo, việc dạy giáo lý bị giới hạn, việc thờ phụng có nơi bị làm khó dễ, Linh mục đi lại giảng đạo nơi khác bị cấm đoán, các hội đoàn tông đồ giáo dân, công tác xã hội giáo dục bị loại bỏ.

Còn có vị trong hàng lãnh đạo của Giáo hội Việt Nam, hoặc ngây thơ vô tội, hoặc có tính toán, nên khi người ta “cho phép” cái không cần “xin phép”, thì quấn quýt coi như ân huệ rồi khen lấy khen để ông nào đó như câu : “Người tốt lắm, Người chân thành lắm”. Trên đất nước này, người ta coi mọi nhân quyền và dân quyền là ân huệ người ta có thể ban cho, có thể giới hạn, có thể tăng lên, có thể mở rộng, có thể rút luôn. Họ coi họ hơn cả Thiên Chúa -- Thiên Chúa ban cho con người tự do và không bao giờ rút lại, kể cả khi con người phản bội Ngài, đóng đinh con của Ngài. Giáo hội phải đòi người ta trả những quyền căn bản của con người chứ không có vấn đề xin xỏ, năn nỉ, ỉ ôi.


. Chức năng vương đế :

Giáo hội Việt Nam phải phấn đấu để thực thi quyền phục vụ con người mà Thánh Kinh gọi là quyền vương đế. Phục vụ người nghèo, người đau khổ, người bị bóc lột, người bị áp bức. Một Mục sư như Luther King đã bị ám sát ở Hoa Kỳ vì bảo vệ quyền người da đen chống phân biệt chủng tộc. Giám mục Roméro, sáu Linh mục Dòng Tên bị ám sát ở San Salvador vì bênh vực những người bị áp bức; một Hồng y khác như Tomasek ở Tiệp Khắc phấn đấu cho Giáo hội như lời Ngài tuyên bố trước 200 ngàn người biểu tình tại Praha ngày 21.11.89 và đã được đọc tại các nhà thờ ngày chủ nhật 26.11.89.

Sau khi đề cao công chúa Anê miền Bohêmin của Tiệp vừa được Đức Giáo chủ Gioan Phaolô II phong lên hiển thánh là một người tuy tu trong một Đan viện vì lòng mến Chúa yêu người, nhưng Ngài không ngừng ở cạnh dân mình trong những giờ phút vinh quang cũng như trong những lúc tủi nhục, Đức Hồng Y Tomasek nói :

“Về phần tôi, tôi không thể nào tỏ ra xa lạ với định mệnh Quốc gia chúng tôi và toàn thể đồng bào đất nước tôi. Tôi không thể im lặng trong lúc tất cả anh chị em đang hiệp lực với nhau để phản đối những bất công mà anh chị em phải chịu từ 40 năm nay, người ta không thể duy trì lòng tín nhiệm đối với giới lãnh đạo quốc gia không muốn nói sự thật và chối bỏ các quyền lợi và các quyền tự do của nhân dân với truyền thống có từ hàng ngàn năm nay những quyền này vẫn được coi là những quyền bình thường trong những quốc gia trẻ trung hơn đất nước chúng ta”.

Rồi Ngài kể lại bao nhiêu lần Giáo hội gửi đến nhà nước những lời khiếu nại, nhưng mà nhà nước đã làm ngơ. Giáo hội tiếp tục lệ thuộc nhà nước theo những điều hạn chế được áp đặt trên Giáo hội từ thời Staline. Trong việc cai quản Giáo phận, các giám mục hoàn toàn lệ thuộc nhà nước với lời nói quyết định trong vấn đề này dường như vẫn là lời nói của Cơ quan Mật vụ những cuộc hội họp của các Giám mục và Linh mục đều bị cản trở vì sự hiện diện của các đại diện nhà nước trong các buổi họp, bầu không khí thiếu tự do, các tín hữu trưởng thành cũng như con cái họ và nhất là các bạn trẻ Công giáo cảm thấy thực sự khó thở…

Tình trạng đau buồn tương tự như thế cũng xảy ra trong các lãnh vực khác của đời sống, trong lãnh vực khoa học, văn hóa, thông tin.

Rồi Ngài kết luận : “Tôi cũng muốn ngỏ lời với tất cả anh chị em trong giờ phút quyết liệt này của lịch sử chúng ta. Không ai trong anh chị em được đứng ngoài lề. Hãy lại lên tiếng hợp với tất cả công dân Tiệp Khắc, cùng với những người thuộc sắc tộc khác, dầu họ là tín hữu hay không có tín ngưỡng. Quyền tự do tín ngưỡng không thể tách rời khỏi những quyền dân chủ khác, tự do là điều không thể phân chia được”,

Những lời tuyên bố trên đây của Đức Hồng Y Tomasek làm cho tôi suy nghĩ. Và tôi cũng để cho anh chị em suy nghĩ, sau khi tôi phân tích tình trạng thiếu phấn đấu của Giáo hội Việt Nam cho tự do tôn giáo và cho nhân quyền và dân quyền của người dân Việt Nam hôm nay. Mong rằng Giáo hội Việt Nam sẽ sám hối về những thiếu sót đó. Để kết thúc tôi đưa ra lời nói cuối cùng của Hồng y Tomasek trong buổi mitting kể trên. Ngài nói :

“Tôi xin chấm dứt nơi đây với những lời đã từng vang dội đã lâu trong lịch sử chúng ta : “Với sự trợ giúp của Thiên Chúa, số phận của chúng ta ở trong tay chúng ta”. Amen. Amen. Amen.

10.04.1990

LM CHÂN TÍN

No comments: