Lời Chúa trong cuộc sống và sứ vụ của Hội Thánh
Tham luận của Gm Peter Ingham
Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Úc
tại Thượng Hội Đồng Giám Mục 2008
Tại Thượng Hội Đồng Giám Mục kỳ này, tôi được hân hạnh tham dự với tư cách Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục nhóm Châu Đại Dương, và Giám Mục Địa Phận Wollongong. Đây là một kinh nghiệm đặc biệt cho toàn thể giáo hội, hoàn vũ. Và, đây cũng là dịp để Giáo hội ta, đưa ra một nhận định khởi sắc về Kinh Thánh và Mục vụ.
Là Đại Hội Thường Niên XII của Giáo Hội, Thượng Hội Đồng Giám Mục bắt đầu từ Chúa Nhật 5 đến 26 tháng Mười 2008, do Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI chủ xướng. Cùng các Giám mục được đề cử làm thành viên Thượng Hội Đồng, Đức Giáo Hoàng đã cử hành thánh lễ trọng thể tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phao-lô, bên ngoài thành La Mã, thay vì tại Đền thánh Phê-rô, như mọi lần. Ngài làm thế, là để ta có thể mừng kính Năm Thánh Phao-lô, do chính ngài chủ sự vào tháng Sáu 2008. Thượng Hội Đồng Giám Mục năm nay, kết thúc bằng một thánh lễ đồng tế rất đông tại Đền thánh Phê-rô, vào Chúa Nhật 26 tháng Mười 2008.
Có đến 230 Giám mục tham dự đến từ các nơi trên thế giới. Cộng thêm đó, là các chuyên gia nam nữ, về Kinh Thánh, cũng như quan sát viên và đại biểu các Giáo Hội của Chúa, được Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI mời đến để thảo luận về “Lời Chúa trong đời sống và sứ vụ của Hội Thánh”. Đức Thánh Cha cũng đã tham dự vào phần lớn các phiên họp, trong dịp này.
Đây là lần đầu tiên, phụ nữ tham dự Thượng Hội Đồng Giám mục với con số kỷ lục. Đức Giáo Hoàng đã chính thức bổ nhiệm 6 chuyên gia kinh viện là phụ nữ, cùng 19 vị nữ lưu khác, đến tham dự với tư cách quan sát viên. Sự kiện này, nâng số các phụ nữ được chỉ định làm thành viên Thượng Hội Đồng lên đông nhất từ trước đến nay..
Sở dĩ tôi có chân trong Thượng Hội Đồng Giám Mục lần này, là vì tôi hiện là đương kim Chủ Tịch Liên Hội Đồng gồm 4 có Hội Đồng Giám Mục thành viên của Châu Đại Dương, trong đó còn kể đến các Hội Đồng Tân Tây Lan, Pa-pua Tân Ghi-nê, Đảo quốc Sôlômôn, Đảo Thái Bình Dương và Úc.
Đức Hồng Y George Pell (Tổng Giáo Phận Sydney) và Đức cha Michael Putney (Giáo phận Townsville) cũng được chỉ định làm đại diện các Giám Mục ở Úc. Các Giám mục đồng nhiệm của tôi ở Úc, đã bình chọn Đức Tổng Giám Mục Mark Coleridge (Giáo phận Canberra & Goulburn) và Giám mục David Walker (Giáo phận Broken Bay) đại diện cho Giáo hội Úc vì tính chuyên môn về Kinh Thánh, của các ngài.
Vào tuần đầu, mỗi thành viên tham dự được phép đóng góp một bài chia sẻ trong vòng 5 phút về các khía cạnh rút từ các tham luận gửi đến với Thượng Hội Đồng vào những năm trước, từ các nơi trên thế giới. Hằng ngày, vẫn có bản tin đều đặn đưa lên mạng truyền thông của Toà thánh có điạ chỉ như www.vatican.va/news_services/press/ninodo/sinodo_index_en.htm
Vào tuần thứ hai, chúng tôi được chuyển qua nhóm chuyên về ngôn ngữ và khởi sự thành lập kiến nghị để bầu chọn, ngõ hầu đệ trình lên Đức Thánh Cha, trên cơ sở cổ vũ công việc Tông đồ và Giáo huấn cho toàn thể giáo hội, sau khi đã nghe các nghị phụ trình bày về các quan điểm/lập trường của Hội thánh, trên thế giới.
Đức Thánh Cha cũng có mặt ở buổi phúc nghị, vào ngày tôi trình bày tham luậ,n hôm 8/10/2008. Hôm ấy, tôi đề cập đến vấn đề đào luyện và chuẩn bị những người được cử làm thừa tác viên, đứng bục đọc Sách Thánh cho cộng đoàn tham dự lễ. Theo tôi, chúng ta cần cải thiện thêm nữa, việc công bố Lời Chúa; ngõ hầu, tạo sự quan tâm chú ý của cộng đoàn tham dự.
Tôi cũng được mời lên chia sẻ Lời Chúa trong 3 phút, để ngỏ lời với các nghị phụ có mặt ở buổi nguyện cầu, khi bắt đầu chương trình nghị sự. Và, tôi cũng chỉ nói một cách tổng quát, lúc đó. Cùng tham gia bài chia sẻ Lời Chúa với tôi, có các Giám mục đồng nghiệp. Hôm đó, Đức Giáo hoàng cũng đến dự buổi đầu khai mạc, cùng với các Giám mục đến từ Việt Nam, Ý, Li-băng, Ba-Tây, Pháp, Hung-gia-Lợi, Pa-ra-guây, Đức, Bê-nin và Ma-cao.
Trong các tham luận trình bày, có một bài làm người nghe xúc động đến chảy nước mắt, khi vị diễn giả kể chuyện về một linh mục sống vào thời kỳ người Sô-viết còn trấn ngự toàn cõi Đông Âu. Vị linh mục, bị bắt giam, chỉ vì ông đã dám sở hữu cuốn Sách Thánh, mang trong người. Ông được lệnh đứng lên dùng chân chà đạp dẫm cho nát cuốn Sách Thánh mà người cán bộ giam giữ ông ném xuống sàn đất, lấm đầy cát. Lúc ấy, thay vì tuân lệnh giới chức đã hành hạ giam giữ mình, vị linh mục đã quỳ gối xuống, cầm cuốn Sách Thánh lên hôn, một cách cung kính. Vì cử chỉ đó, mà ông bị giam ở Sibêria, suốt 10 năm liền.
Và, thánh lễ đầu tiên ông được phép cử hành ngay khi trở về với giáo xứ của ông, sau ngày ông được phóng thích, thì vị linh mục này lại nâng sách lễ lên để hôn kính, sau khi công bố Tin Mừng, cho mọi người tham dự. Cử chỉ này, đã làm người dự lễ hôm ấy toan vỗ tay reo mừng lòng can đảm nhiệt thành của ông; nhưng sợ rằng nếu làm thế, sẽ càng làm cho ông bị bách hại thêm nữa. Quả thật, những người kình chống lại Đạo Chúa, rõ ràng đã nhận ra uy lực của Lời Chúa, nhiều hơn các Kittô hữu, nhà mình.
Sau khi nghe đầy đủ các tiếng nói khác nhau của Hội thánh trên thế giới, Đức Giáo Hoàng đã cùng Thượng Hội Đồng Giám Mục, công bố Lá Thư Mục Vụ có mang lời giáo huấn của ngài, về Lời Chúa trong Cuộc Sống và Sứ Vụ của Hội Thánh, nguyên một năm.
Nay, ta nguyện cầu để mọi người đều nhận biết rằng: Chúa đang nói với ta ngang qua Lời của Ngài, trong Sách Thánh. Ta nguyện cầu, để Lời Ngài đến với tâm-can của ta, ngõ hầu trong cuộc sống, ta sẽ là những người ‘làm cho Lời Chúa trở nên tốt đẹp’ hơn. Ở thế kỷ thứ IV, thánh Giêrônimô cũng đã nói: “Không biết đến Sách Thánh, là chẳng biết gì về Đức Kitô, hết.”
__________________
Trên đây là phát biểu của Đức Giám Mục Peter Ingham, đăng trên tập san chính thức của toà thánh, Osservatore Romano. Phát biểu của Gm Peter Ingham đã nhấn mạnh đến một số điểm, như sau:
Người đọc Sách Thánh trong các nghi lễ Phụng Vụ, phải đảm bảo là người nghe nhận ra đưọc Lời Chúa. Nghe rồi, họ còn phải hiểu và cảm kích Lời Ngài, nữa. Bởi thế nên, người đọc luôn luôn đóng vai trò trọng yếu, với người nghe.
Vai trò này, là cử chỉ lịch lãm đối với người nghe. Quyết tâm trao ban Lời Chúa theo phương cách khả dĩ làm cho thông điệp cứu độ của Chúa được tăng trưởng mãi trong tâm can và tâm tưởng, của người nghe. Lời Chúa phải được yên vị trong cuộc sống của người công bố Lời ấy.
Có nhiều người đọc quá vội vã, đến độ người nghe khó mà nắm bắt và lĩnh hội Lời Ngài, để có thể đem Lời vào tận tâm can và đầu óc, của người nghe. Đọc làm sao, có thể diễn tả được mỗi lời, mỗi ý hầu thấm nhuần giá trị văn phong/văn thể của Lời Ngài. Người đọc, cũng cần tuân theo qui luật chấm phết, âm lượng cũng như giọng đọc phải lên xuống uyển chuyển, hầu tạo sự thích thú cho điều mình công bố. Nhiều vị không phát âm đúng cách, hoặc không sử dụng máy vi âm, cho hiệu quả.
Bởi thế nên, ý của đoạn Sách Thánh mình đọc, đã luột mất một phần ý nghĩa sâu sắc, hoặc mất cả ý nghĩa của đoạn Sách. Sở dĩ có chuyện ấy, là bởi người công bố không quan tâm nhấn mạnh đúng chỗ, làm người nghe không hiểu thấu bối-cảnh của đoạn Sách, khi viết.
Một trong các lý do khiến cho việc công bố Lời Chúa trở nên nghèo nàn, thiếu hấp dẫn, là vì người đọc thiếu tự tin, khi đứng trước đám đông, trước cộng đoàn. Chính vì thế, cần có nhiều buổi đào luyện người đọc Sách Thánh bằng cách giúp họ tập đọc, thật lớn tiếng.
Tôi tin rằng, việc công bố Lời Chúa trong các nghi lễ Phụng vụ, dù do giáo sĩ hay giáo dân thực hiện, đều phải được cải thiện, nhiều hơn nữa. Nếu không, tác động của việc “Chúa đang nói với ta” sẽ không còn là điều mà Hội thánh mong ước, hoặc là những gì mà giáo dân, đáng được hưởng.
__________________
Thượng Hội Đồng Giám Mục là gì?
Thượng Hội Đồng Giám Mục, là ý niệm và phương thức thực hành khá mới mẻ trong đời sống Hội thánh. Ý niệm này, nảy sinh không lâu trước ngày Công Đồng Chung Vatican II bế mạc.
Nghị trình tổng quan của Thượng Hội Đồng Giám Mục, thường đối phó với các vấn đề có liên quan và ảnh hưởng lên toàn thể Hội thánh. Các nghị phụ, vẫn gặp nhau đều đặn cứ vài năm một lần, cứ. Thượng Hội Đồng Giám Mục gồm nhiều nhóm nghị phụ đến từ nhiều nơi trên thế giới. Việc này, đem lại cho Giám Mục đoàn quyết định tập trung của Giám Mục đoàn; đồng thời, còn là phương cách vững chắc để giúp Đức Giáo Hoàng trong việc điều hành công tác, các chủ chăn.
Rõ ràng là, chức năng của Thượng Hội Đồng Giám Mục mang tính cách tư vấn; sinh hoạt của Thượng Hội Đồng được định ra là để “bàn thảo” và đưa “kiến nghị”, chứ không phải để bố trí “giải quyết mọi vấn đề”, hoặc “đưa ra một quyết định” nào hết.
Đức Giáo Hoàng có quyền triệu tập Thượng Hội Đồng Giám Mục , mỗi khi và tại nơi nào ngài thấy thích hợp. Ngài sẽ phê duyệt thành quả của việc bình chọn các vị đại diện đi phó hội. Và, ngài cũng chỉ định và đề cử các vị khác, nữa. Ngài hoạch định các vấn đề cần bàn thảo, để đưa vào nghị trình. Chính ngài đích thân chủ sự các buổi phúc nghị, hoặc ngang qua một vị đại diện nào đó. Ngài có quyền quyết định kết thúc, chuyển giao, đình hoãn hoặc giải tán Thượng Hội Đồng Giám Mục.
Thành viên Thượng Hội Đồng Giám Mục, chỉ mang tính tạm thời, thôi. Khi Hội Nghị bế mạc, các chức năng trao cho nghị phụ, đều phải chấm dứt. Chỉ có thư ký đoàn của Thượng Hội Đồng, là thường trực cùng với hội đồng gồm các giám mục nào ở lại trong bộ cho đến ngày khởi sự Thượng Hội Đồng sau đó, mà thôi. Có thế, mới tạo được sự liên tục, mà không cần phải chỉ định các Giám mục cho ban thường trực.
(The catholic Weekly 26/10/2008 tr. 44
– Mai Tá chuyển ngữ)
Có mặt nơi đây,
trong
giây phút này.
_____________________
● khả năng thụ cảm (réceptivité) ( kỳ 3 ) __Mễ Duy
Trong hai số báo DIA vừa qua tôi đã bàn về sự hệ trọng của nghệ thuật sống trong hiện tại. Kỳ 1, bàn về cái yếu tố chính yếu khiến có thể sống bình an trong hiện tại, đó là yếu tố tâm linh dùng làm nền tảng, hướng đi cho cả một cuộc đời hay cho một việc làm. Tuy nhiên để thể hiện một hướng đi có kích thước tâm linh cho cuộc đời, phù hợp với những giá trị tinh thần, thì lại cần phải sống làm sao để mọi khả năng trong mình được triển nở hầu thực hiện chiều hướng tâm linh đó. Muốn được như thế cần phải biết sống cách thiết thực, tức sống trong hiện tại. Đó chính là sức khoẻ tâm lý và tâm thần.
Cũng kỳ vừa qua, qua việc dẫn ra vài trường hợp «lành bệnh» về mặt tâm thần, tôi đã muốn chứng minh rằng sống trong cảm giác đơn thuần là một thuật căn bản cho việc sống trong hiện tại. Nhưng hai chữ cảm giác thường bị khinh thường, vì thiên hạ vốn trọng «tư tưởng». Dĩ nhiên tư tưởng là năng khiếu cao trọng, cao quý nhất nơi con người. Nhưng nếu gọi là «tư tưởng» những thành kiến, những suy nghĩ nông cạn, những ý nghĩ bi quan yếm thế, hay tệ hơn nữa những lo âu, ám ảnh như hoài tiếc quá khứ, mơ mộng một thực tại hão huyền, …thì những «tư tưởng» này quả thực không bổ ích tí nào, càng có ít càng tốt, vì chúng là chất độc làm tổn thương cuộc sống tâm thần. Lại nữa, không thể có một khả năng tư tưởng trưởng thành nếu không có khả năng cảm thụ sắc bén. Muốn cho có tư tưởng sáng suốt thì lại cần «rèn luyện» sao để có được một khả năng cảm thụ lành mạnh. Một bạn trẻ kia yêu âm nhạc nhưng đã đánh mất khả năng tập trung nên không còn vừa nghe vừa phân tích được các bản hòa tấu cổ điển, là niềm sảng khoái trước đây. Sau vài tháng chấp nhận tập cảm giác đơn thuần, tức phục hồi khả năng cảm thụ, chàng ta đã có thể đi dự các buổi hòa tấu cách mãn nguyện, khi nghe thì cảm nhận , nghi nhận, nhớ tất cả và sau đó có thể phân tích các mouvements.
Triết gia Công giáo (thánh) Tô-Ma thành Akinô, triết gia thượng thặng trong Công giáo, đã viết từ thời xa xưa : Nihil est in intellectu nisi prius fuerit in sensu (dịch sát chữ: không có gì trong trí hiểu mà đã không có trước trong cảm giác) (1) . Nói cách khác cảm giác chính là điều kiện không thể không có, là cửa ngõ cho kiến thức và tư tưởng thành hình. Cảm giác có sắc bén thì trí tuệ mới bén nhạy. Xin lấy vài ví dụ. Học trò không nghe lời thầy giảng thì không thể học . Tập võ mà không hề nhìn võ sư biểu diễn trước thì làm sao tập đúng. Trong lãnh vực khoa học, con người cần phải được nhìn rò, nên đã sáng chế ra những dụng cụ cho phép nhìn rõ như kính hiển vi, kính viễn vọng. Trường hợp Ellen Keller, cô gái Mỹ, vừa mù, vừa điếc, vừa câm mà tốt nghiệp đại học đã chứng minh cho quyết đoán sau đây : đó là chính nhờ cô còn lại những giác quan sờ được, nếm được, ngửi được mà một cô giáo lão luyện giỏi sử dụng mà cô Keller đã thành đạt như vậy (2). Điều đáng khen ở đây không phải ở chuyện thành đạt mà ở chỗ biết sử dụng ba giác quan còn lại, - ba giác quan này lại thường bị coi là không quan trọng-, sử dụng chúng cách tuyệt hảo để phát triển những khả năng trí tuệ cao đẳng. Như vậy giác quan bén nhạy, thói quen cảm giác đơn thuần đưa đến trí tuệ sáng suốt. Ngược lại, người không biết nhìn, không biết nghe, bởi vì đầu óc lúc nào cũng rối bù bởi nhiều ý nghĩ lung tung thì cảm giác không thể bén nhạy, không thể đơn thuần, nên trí tuệ cũng không thể hoạt động cách hữu hiệu.
Khả năng thụ cảm (réceptivité) là danh từ chỉ chung tất cả mọi hình thức cảm giác, như sử dụng năm giác quan, nhìn, nghe, sờ, nếm, ngửi, nhưng cũng còn bao gồm những hình thức cảm giác khác, như ý thức (về) cơ thể, (về) các cơ quan trong cơ thể, các hoạt động của cơ thể, hay những khả năng cảm giác gần như khác thường (những người tập tai chi đến mức bậc thầy có thể cảm được một sức tấn công thật bất bất ngờ đến từ sau lưng bất cứ lúc nào, kể cả khi đang đi bộ ngoài đường, chẳng hạn).
Cuối tháng mười, thời tiết bắt đầu vào mùa nắng,nắng đẹp! Nắng đẹp vì trong sáng, nhưng chưa gắt, còn dịu êm. Khí lạnh vẫn còn đâu đó dưới các lùm cây. Nắng đẹp như thế thì vạn vật cũng đẹp theo. Thời tiết tuyệt diệu như thế khó lòng mà không sắp xếp để có thời giờ tản bộ. Trong những tuần lễ này, sáng nào tôi cũng mò ra cái bãi biển vắng vẻ yên lặng đó.. Nhìn đồi núi xe duyên với biển, biển xanh, đồi xanh, núi xanh, mỗi người xanh một kiểu. Nhìn trời trong suốt hoặc khoác mây. Nhìn những thân cây xiên vẹo, hình dáng kỳ dị đội những nón lá xanh quá rộng, nhìn những thảm cỏ xanh đang vươn mình lên, nhìn cô hoặc chú chim đang soi mình và giải khát bên bờ vũng nước mưa, nghe chim hót… hít gió mát vào lồng ngực… chỉ vài phút hòa mình với cảnh vật như thế mà mà cũng đủ để… sảng khoái. Sảng khoái!
Thường khi bàn về cảm giác, người ta có cảm tưởng đó là một cách «biết» hết sức chủ quan mơ hồ, không thể so sánh với ý nghĩ. Sở dĩ có sự lầm lẫn này là vì, theo tôi nghĩ, có hai lý do. Thứ nhất là vì cảm giác của người ta thường không sắc bén, trái lại mơ hồ. Và thứ hai, người ta lầm tưởng ý nghĩ với chân lý. Trong thực tế, những ý nghĩ của chúng thường là sai lầm (thành kiến, theo thời, hùa theo, tự tôn tự đại, xét đoán theo bề ngoài, mặc cảm, ảnh hưởng của quảng cáo, sách báo…). Lại nữa ý nghĩ sai lầm đưa đến cảm xúc không vui. Ý nghĩ sai lầm, cảm xúc không vui, hình ảnh ảo tưởng, chính là những cái mà chúng ta gọi là «chủ quan» . Ngược lại cảm giác đơn thuần thì đưa đến một sự «biết» rõ nét, khách quan. Để hiểu rõ điều tôi nói đây, xin bạn thử làm một thí nghiệm nho nhỏ. Bạn mời một số người tham gia. Để bắt đầu, yêu cầu một người đừng nghĩ gì cả, nhắm mắt lại, và bạn đưa cho người đó một quả cầu làm bằng đá cẩm thạch và bạn hỏi người đó cảm thấy gì, người đó sẽ trả lời là vật trong tay nặng, tròn, nhẵn nhụi, mát tay. Bạn mời người đó mở mắt ra, bạn hỏi «thấy gì?». Người đó sẽ nói chẳng hạn: «đây là một quả cầu bằng cẩm thạch, mầu xanh lục bảo, có những đường vân trắng và đen». Sau người thứ nhất, bạn mời người thứ hai , thứ ba… làm như vậy. Cuối cùng bạn sẽ thấy là ai ai cũng đồng ý với nhau về những điểm như hình thể, nhiệt độ, mầu sắc.. của quả cầu, tuy không chính xác như trong khoa học. Ngược lại nếu bạn đọc cho một số người khác (chưa hề thấy quả cầu), nghe một đoạn văn diễn tả trái cầu đó thì có nhiều phần là mỗi người hình dung nó một cách khác, vì ví dụ có người chưa hề cầm trong tay một vật bằng cẩm thạch, hoặc chưa hề thấy thế nào là mầu của ngọc lục bảo… Vậy chúng ta có thể kết luận rằng ý nghĩ có thể đưa đến sai lầm, còn cảm giác bén nhạy thì không bao giờ sai lầm. (3)
Tháng mười hai, tháng giêng, thường là những tháng nóng nhất trong năm. Những thảm cỏ cách đây vài tuần còn xanh mướt nay đã cháy khô, cháy héo. Hai bên đường, dọc sườn đồi, dọc những đường đi dạo, chúng như những vết nám làm xấu xí đi khuôn mặt tươi tỉnh xuân thì của vạn vật thuở nào. Chúng thật vô duyên so với mái tóc xanh của hàng dừa, với làn da mịn màng của nền trời, với những khóm hoa giấy đầy mầu sắc. Nhưng Thượng Đế rủ tình, một hiện tượng thật vui xuất hiện: phượng đã nở hoa. Mùa nắng không phải chỉ có cỏ cháy khô, nhưng cũng là mùa mở hội của phượng. Trên sườn đồi, chen với những cây xanh khác, bên vệ đường xe chạy, trong công viên, trước tư gia hay dinh thự, chúng mở toang ra những cánh dù đỏ chói rực cháy, đúng với cái tên « flamboyant » của chúng trong tiếng Pháp. Tôi thích nhất là cây phượng cổ thụ đó, thân nó bự con, đến độ tưởng như ngắn ngủn, lại thêm hình dáng khẳng khiu nhưng những cành của nó vươn thật cao, tỏa rộng ra xây thành một nhà cảnh đồ sộ với đặc điễm hiếm có là mái tròn đỏ chó, cháy rực. Dưới nền đất quanh thân nó, những xác hoa đỏ chói la liệt, dệt thành một tấm thảm đỏ, bước vào tưởng mình như đang phạm lỗi hoặc không còn thuộc về thế giới bên ngoài nữa.
Tại sao bộ óc không thể suy nghĩ liên tục, suy nghĩ lung tung, lại càng không thể nuôi những ý nghĩ có hại như hoang mang lo âu, mà còn phải có thói quen biết cảm giác cách đơn thuần, chuyên biệt ? Tại sao con người tuy lớn lên, nhưng không được bỏ khả năng cảm giác, tức khả năng thụ cảm, như nơi trẻ con, mà còn phải duy trì phát triển nó để có thể sống quân bình hạnh phúc ? Tại sao cảm thụ càng nhạy thì trí tuệ càng sắc bén ? Trong một cuốn sách nhỏ (4), nhưng quý giá, do một bác sĩ viết về phương pháp trị liệu tâm thần của Vittoz, tôi đã đọc được câu trả lời cho những câu hỏi trên. Theo tác giả câu trả dựa vào sinh lý học. Mọi tế bào trong cơ thể chúng ta, từ tầm thường đến cao sang nhất, đều sống nhờ vào hai chức năng, thiếu một thì nó sẽ chết : tế bào không ngừng nhận (réceptivité) và cho đi (émissivité). Ở mức tế bào đã thế, ở mức cơ quan cũng vậy. Cơ quan là do số đông tế bào hợp lại. Chẳng hạn như phổi liên tục luân phiên nhận dưỡng khí vào và nhả thán khí ra, nếu như một trong hai chức năng đó mai một đi thì phổi sẽ hết hoạt động, tức chết đi. Bộ óc và hệ thống thần kinh của chúng ta cũng thế, hoạt động theo hai thì : nhận vào và phát ra. Nhận vào (réceptivité) là cảm giác. Cảm giác là những chấn động phát ra rung động làm cho các trung tâm thần kinh giữ được trạng thái cường tráng. Những đường dẫn cảm giác về óc là con đường duy nhất đưa cảm giác về ý thức và nếu những đường dẫn đó không được những kích thích từ ngoài sử dụng thì các năng khiếu về mặt trí tuệ sẽ bị như tê cóng tóp teo. Phát ra (émissivité) là luồng điện phát xuất từ các trung tâm, chạy khắp thân mình, cũng là tư tưởng, ý chí, sự cố gắng.
…..
Tạm thời chúng ta có thể kết luận rằng tuy bộ óc là cơ quan quan trọng nhất của cơ thể , là tổng hành dinh điều hành sự sống còn cũng như luôn điều động mọi cơ quan nhằm đạt một tình trạng tối hảo cho sự sống đó, nhưng chức năng của nó không phải chỉ là duy nhất phát ra các luồng điện, các ý nghĩ, các tư tưởng, trái lại nó cũng cần được bổ dưỡng, nghỉ ngơi bằng những cảm giác đơn thuần. Hai chức năng nhận vào và phát ra cần được sử dụng cách thăng bằng, điều hòa, hòa hợp để đảm bảo một sự sống tâm thần lành mạnh. (còn tiếp)
(1) L. Bron-Verlay dẫn trong Le conscient chez Vittoz, Téqui, trg 21.
(2) L. Bron-Verlay dẫn trong cùng sách, cùng trang .
(3) phỏng theo cùng sách, trg 20.
(4) Dr. P. D’Espiney, La psychothérapie du docteur Vittoz, comment combattre l’anxiété par le contrôle de soi, Téqui.
Mễ Duy
Vợ Hiền
___________________________
Tràm Cà Mau
Vợ tôi không phải là một người đàn bà có nhan sắc khuynh nước đổ thành. Bởi tôi, vốn tài mạo tầm thường và cũng không có nhiều may mắn bất ngờ để lọt mắt xanh những cô có nhan sắc chim sa cá lặn. Vả lại tôi cũng thường nghe bố tôi tuyên truyền nhồi nhét trong cái đầu từ nhỏ rằng, đẹp đến mấy rồi cũng trở thành méo mó xấu xí, và vợ đẹp là vợ người ta. Vợ tôi cũng không có tài ba xuất chúng, bởi tôi vốn nể sợ và có thành kiến với những người đàn bà tài giỏi, vì họ thường kiêu ngạo và hay thành độc tài vợ trị. Ðộc tài đảng trị thì có thể bỏ nước chạy ra biển chết, chứ độc tài vợ trị thì không chạy đâu cho thoát cả!
Vợ tôi chỉ là một người đàn bà trung bình trên tất cả mọi mặt. Với một vóc dáng tầm thường bên ngoài, không vêu vao xấu xí khó nhìn. Bên trong nàng mang một tấm lòng hiền hậu, bao dung, biết hành xử khôn ngoan khéo léo, để đem lại cho gia đình hạnh phúc êm ấm lâu bền mà tôi vô cùng biết ơn mỗi khi nghĩ đến. Trong nhiều năm chung sống, chưa bao giờ nàng nặng lời với tôi, chưa bao giờ có cử chỉ hay ngôn ngữ thiếu lịch sự, cũng chưa lần khóc lóc giận hờn đòi hỏi điều này điều kia, hoặc đặt điều kiện làm khó, hay so đo chuyện nhà với gia đình người khác. Ngoài tình cảm tha thiết chia sẻ của vợ chồng, nàng âu yếm như một người tình, khoan dung rộng lượng như một người mẹ và hiểu biết như một người tri kỷ.
Năm tôi hai mươi tám tuổi, mẹ tôi nóng ruột thúc hối ép tôi lập gia đình. Bà đưa cái công thức cổ xưa của mấy ông Tàu bày ra là "tam thập nhi lập". Tôi cũng chưa đến ba mươi, mẹ tôi cứ gán đại thêm cho hai tuổi để dễ bề ép uổng. Tuổi đó, thích được quen nhiều bạn gái, bạn thôi thì được, nhưng nghe đến chuyện hôn nhân là xanh mặt. Vì qua kinh nghiệm bạn bè, kinh nghiệm giao tiếp trong sở, tôi thấy đa số mấy anh có vợ rồi thì dường như bị khép chặt trong cái v=C 3ng "chuyên chính" của bà vợ nhà! Cái vòng tuy lỏng lẻo và êm ái, nhưng bằng sắt, rất chặt và siết cứng. Một anh bạn thân, lâu lâu giận vợ, đến nhà tôi ở lại, nằm rũ ra trên giường như đống mền rách rầu rĩ nói với tôi: - Tao chỉ mong có được một ngày an bình, sung sướng như mày, một ngày thôi cũng đủ. Nghe thế thì không sợ sao được? Trong sở tôi có mấy anh bạn bị vợ cào rách mặt và phải lấy cớ là dao cạo râu cắt. Ai cũng biết chuyện gì đã xảy ra, vì mặt mày các anh láng lẫy, trơn tru, có sợi râu nào đâu mà phải cạo cho dao cắt! Một ông lớn tuổi khác, vợ vào tận sở xé áo và kêu bằng mày tao, còn tố cáo ông mang bằng kỷ sư giả bên Pháp về. Nhan nhản những tấm gương gia đình u ám trước mắt như vậy, thì=2 0chỉ có ngu quá hoặc liều mạng mới không sợ mà thôi.
Tôi khất lần mãi không được, phải bẻn lẻn theo mẹ, đi ra mắt, và xem mặt nhiều cô con gái các gia đình mà bà quen biết. Tôi theo lời dạy của một anh quân sư quạt mo, cứ mang bộ mặt đưa ma đến nhà người ta và ăn nói nhát gừng cộc lốc, thì không ai muốn gả con gái cho, và các cô thấy vậy thì cũng ớn lạnh mà dạt ra. Thế mà cũng có nhiều nhà khen tôi hiền lành, muốn gả con gái cho. Tôi tìm đủ lý do nói riêng với mẹ để chê bai từ khước. Cô thì chê mặt dài, cô thì chê mũi lớn, cô khác chê mắt có đuôi, cô thì mồm như có râu. Toàn cả những lý do vu vơ. Mẹ tôi phiền muộn thở dài, vì biết con trai bà cũng chẳng có sự nghiệp gì sáng giá, chẳng có một phong cách đặc biệt nào, mà đòi hỏi quá đáng chăng? Không nỡ để mẹ buồn, tôi đem Lam, người bạn gái thân thiết nhất về giới thiệu với mẹ, bà vui vẻ chịu ngay. Bà khen Lam láu lỉnh, bặt thiệp và xinh đẹp. Mẹ tôi đến thăm xả giao nhà Lam hai lần để dò xét gia thế, và quyết liệt chống đối cuộc hôn nhân, lấy lý do là mẹ Lam dữ dằn và có cách cư xử thiếu lễ độ với chồng. Tôi nói: - Con cưới Lam chứ cưới bà ấy đâu mà mẹ sợ? Mẹ tôi nhất quyết tin rằng, mẹ hổ thì khó sinh được con cừu. Vì cách đối xử của cha mẹ, ảnh hưởng đến tính tình con cái. Cha mẹ dữ dằn, con cái khó mà hiền lành được, vì ngày ngày học cách ăn nói, cách đối xử, tiêm nhiễm những thói quen của cha mẹ, và đem ra xử sự với đời, mà không biết đó là xấu. Tôi cố bào chữa cho Lam, nhưng mẹ tôi đã nhất quyết, không lay chuyển được. Bà nói: - Mẹ thương con, mẹ không muốn sau này con khổ vì đời sống gia đình thiếu hạnh phúc. Vì không có gì khổ bằng có vợ dữ dằn, hỗn láo, có thể làm người chồng buồn phiền sinh ra rượu chè, cờ bạc, trai gái hư hỏng. Mẹ thương con, lo cho tương lai con nên mẹ không chịu. Tôi định nói với mẹ rằng, con trai của mẹ cũng chẳng hiền lành chi, mà chê thiên hạ. Nhưng sợ mẹ buồn nên im lặng. Mẹ của Lam biết được ý kiến của mẹ tôi, nổi tự ái, nói nhiều lời tàn nhẫn, tổn thương đến gia đình tôi, và tuyên bố không bao giờ gả Lam cho tôi. Khi bị trắc trở, ngăn cấm thì tình yêu càng thêm tha thiết bốc lửa, và hai đứa tôi càng quyết vượt qua hàng rào ngăn cản của gia đình. Muốn sống cho nhau, và sống chết vì tình yêu. Một lần chìu ý mẹ, tôi miễn cưỡng đi xem mặt một cô mà mẹ tôi gọi là gia đình phúc hậu đàng hoàng. Tôi chẳng tha thiết gì, chỉ giữ đủ lịch sự tôi thiểu để cho mẹ khỏi mất mặt. Lần đó Lam biết được, nàng giận dữ sỉ vả tôi: - Anh là một thằng đểu cáng, xấu xa đê tiện, một kẻ hèn nhát núp váy mẹ, không dám làm gì cả. Anh không xứng đáng với tình yêu của tôi. Tôi nghe mà bàng hoàng, như bị sét đánh. Hai đứa giận nhau. Tôi chợt nhớ tới lời nhận xét của mẹ, và thấy bà cũng có lB D phần nào. Nhưng tim tôi vẫn nát tan xót xa vì chuyện tình đổ vỡ.
Ngay sau đó, Lam có người yêu mới là Tuân. Tuân cũng là trong đám bạn bè quen biết lâu dài với tôi, tính tình Tuân hiền lành, chịu đựng, và Tuân đã bền bỉ theo đuổi Lam từ lâu. Nửa năm sau, tôi đi dự đám cưới Tuân, Lam với trái tim vỡ nát, nhưng cũng vui mừng vì Lam lấy được chồng hiền lành và đàng hoàng, có thể bảo đảm đời sống tinh thần vật chất cho gia đình sau này. Tôi thật tình nghĩ rằng, tôi không bằng được Tuân về nhiều mặt. Lam bỏ tôi là phải. Mẹ tôi làm như lấy vợ cho bà, cứ khóc lóc thúc giục mãi. Tôi tâm sự với một ngưBi bạn cũ. Anh cười và nói: - Hay là cậu thử tìm hiểu Mai, em gái tôi xem sao. Nó cũng sẵn có cảm tình với cậu đó. Mai hiền lành lắm. Ðược bạn khuyến khích, tôi bắt đầu tìm hiểu Mai. Nàng không đẹp, không xấu, chăm chỉ, hiền lành. Trước đây, đến nhà bạn chơi, tôi chỉ thấy Mai thấp thoáng đâu đó sau bàn học, hoặc lẳng lặng rút lui sau khi cúi đầu chào lễ phép. Dẫn Mai đi chơi, tôi không tìm hiểu được chi nhiều về Mai, vì nàng quá thụ động, khi nào cũng nhẹ nhàng chìu chuộng, ít đưa ý kiến riêng. Khi hỏi ý, nàng thường bảo: - Dạ, anh cho em đi đâu cũng thích cả, anh vui thì em cũng vui. Tôi đem nhận xét về cái hiền lành của Mai nói với một người bạn. Anh cười hô hố và nói: - Trời ơi, khi mới quen thì em nào mà không hiền lành như thánh mẫu, dịu dàng như tiên cô. Khi cưới về thì cái đuôi dài thòng mới lòi ra, và dữ như chằng tinh. Em nào cũng vậy cả. Tôi hỏi thẳng anh của Mai, anh trả lời: - Con nhỏ hiền lành, biết nhường nhịn và rất dịu dàng. Cậu có phước lắm mới gặp nó. Không phải vì nó là em gái mà tôi khen đâu.
Mẹ tôi đến thăm gia đình Mai nhiều lần, khen mẹ của Mai phúc hậu, hiền lành, cư xử lịch sự, phải phép với chồng. Bà nghĩ rằng, nhất định Mai cũng học được nề nếp gia đình của mẹ, không nhiều thì ít. Bà thúc tôi làm đám cưới ngay. Tôi xin hoãn một thời gian để tìm hiểu thêm, mẹ không chịu và bảo: - Lấy vợ thì lấy liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha. Tôi nói rằng, nếu nghe được lời dèm pha đúng, thì cũng là điều tốt, mình khỏi phải xét đoán lầm người. Mẹ tôi lại giảng cho tôi rằng, chín mươi phần trăm cách cư xử của con cái là do ảnh hưởng sinh hoạt tốt xấu của cha mẹ. Cha mẹ gieo vào đầu con cái thứ tư tưởng nào, thì nó sẽ hành động theo lối đó. Thương mẹ, tôi tạm quên kinh nghiệm ghê gớm trong đời sống gia đình của bạn bè và đồng sự, liều thân lấy vợ cho mẹ vui lòng. Có một ông bạn bảo rằng, lại thêm một thằng đàn ông ngu muội đi vào vết xe đổ nghìn năm của nhân loại.
Tôi cưới Mai, nàng như cái bóng dịu hiền bên tôi.Tôi thấy mình tan loãng vào tình yêu êm đềm, và chợt nhận ra đời sống gia đình êm ái, thoải mái và hạnh phúc hơn nhiều lần đời sống độc thân. Không thấy gò bó tù túng trong dây ràng buộc của gia đình như nhiều người thường bảo. Mai lo lắng cho tôi những thứ cần thiết lặt vặt trong cuộc sống bình thường, bổ khuyết cho tôi những thiếu sót, dịu dàng an ủi tôi những khi lo buồn. Tôi nói với vợ: - Anh ngu quá, biết lấy vợ mà sung sướng hạnh phúc như thế này, thì đâu để độc thân đến gần ba mươi tuổi. Uổng thật. Những khi chúng tôi có ý kiến trái ngược, Mai dịu dàng phân tích thiệt hơn cho tôi nghe, rồi để cho tôi quyết định. Sau khi quyết định xong, dù có trái ý nàng, Mai20cũng vui vẻ cố gắng giúp tôi hoàn thành công việc. Không như các bà khác, những lúc chồng làm trái ý, thì các bà mong cho ông chồng thất bại để chứng tỏ ý kiến của bà là đúng, là hay. Mai thường nói: - Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn. Nếu ai cũng khăng khăng giữ ý của mình, thì chẳng làm nên được việc gì cả. Cũng có khi quyết định của tôi sai lầm, đưa đến kết quả không tốt. Những lúc này, Mai thường hết lời dịu dàng an ủi tôi, và cho rằng tôi không có lỗi gì cả, ví ai cũng có thể sai lầm, và Mai cho rằng nàng cũng có phần lỗi, vì chưa tận tình giúp tôi đầy đủ ý kiến để làm quyết định. Từ đó, tôi cảm thấy mình phải lắng nghe ý kiến của vợ nhiều hơn. Tôi nghĩ, nếu những lúc này mà Mai dB 1n vặt, nằng nặc buộc tôi tôi, thì chưa chắc tôi đã thấy mình lầm lỗi. Mai không như một số đàn bà khác, đúng hay sai cũng đổ lỗi cho chồng, và những khi chồng thất bại trong đời, là cái dịp cho các bà chê bai, mai mỉa, nói những lời tàn nhẫn.
Ngoài xã hội, có những lúc tôi vô tình hoặc thiếu may mắn, gây nên những sai lầm với người khác, Mai tự đứng ra, gánh vác hết trách nhiệm thay tôi. Tự ái đàn ông, đâu cho phép tôi để vợ gánh vác trách nhiệm thay mình. Tôi thấy thương và quý vợ nhiều hơn. Mai bảo: - Chuyện nhỏ, để em gánh vác giúp, anh để tâm trí làm những việc khác ích lợi hơn. Tôi thầm nghĩ, tôi thì làm chi có việc lớn mà gánh vác. Những năm mới lấy nhau, tài chánh gia đình khó khăn, đắp trước bù sau hàng tháng. Áo quần đơn sơ, ăn uống dè xẻn. Thế mà Mai bao giờ cũng vui vẻ, chưa bao giờ nghe Mai than thở hoặc so sánh với các bạn bè khác. Nàng thường nói: - Chúng ta nghèo vật chất, nhưng giàu hạnh phúc, tinh thần thanh sạch, thế là đủ. Ðời sống biết đủ là đủ. Chính vì Mai không than thở, nên tôi thấy mình có trách nhiệm nhiều hơn về tài chánh gia đình. Buổi chiều về, tôi đi dạy thêm cho các lớp đêm. Ngày nghỉ, tôi mở lớp dạy kèm luyện thi cho từng nhóm nhỏ. Tài chánh gia đình nhờ đó mà dồi dào hơn, có thêm tiền, nhưng Mai không vui, mà chỉ lo cho tôi thiếu sức khỏe sinh bệnh hoạn. Năm đó, tôi không chịu theo bè cánh với nhóm tham nhũng, chúng=2 0đày tôi về một tỉnh nhỏ xa xôi. Tôi buồn phiền lắm. Không đi thì không được, đi thì bỏ hết công chuyện làm ăn riêng tư. Mai khuyên tôi nhẫn nhịn, và gắng tìm vui trong hoàn cảnh mới. Khi chúng tôi về tỉnh nhỏ, Mai thường an ủi và nâng đở tinh thần tôi, đặt mua các thứ sách báo tôi thích, để giải trí và quên đi phần nào nổi buồn nơi tỉnh nhỏ. Mai xin được việc ở một nhà dạy trẻ, để phụ thêm kinh tế gia đình....
Khi chạy vội về Sài Gòn vào năm 1975, chúng tôi mất tất cả, trở thành trắng tay. Tôi lo lắng và muộn phiền lắm, nhưng nhờ thái độ trầm tĩnh và chịu đựng của Mai mà tôi bớt bối rối. Tr0ớc ngày miền Nam sụp đổ, chúng tôi bàn nhau là nên ở hay đi. Ý Mai thì nên đi để bảo toàn tính mạng cho gia đình, khi yên ổn thì quay trở về cũng chẳng mất mát gì. Phần tôi thì vì yêu mến quê hương một cách lãng mạn, quyết ở lại, muốn cùng chia sẻ khổ đau, sống chết cùng quê hương. Chủ nghĩa đối với tôi không quan trọng, tôi nghĩ chính thể nào cũng thế thôi, cũng cùng là người Việt, cùng giòng giống tổ tiên, thì việc gì mà phải bỏ chạy? Tôi đã lầm to. Thảm họa trùm xuống khắp miền Nam. Ðau khổ, lao tù, đói lạnh, đè nén, áp bức. Tôi cũng ôm gói đi tù như mọi bạn bè, Trong tù, tôi vô cùng ân hận về quyết định sai lầm, để thân xác mình bị tù đày, để vợ con bơ vơ, đau khổ, đói rách, không vốn liếng, không tài s3n. Ba tháng sau khi tôi đi tù, Mai thấy chồng chưa được thả về, đã xoay xở rất mau. Nàng mua áo quần cũ, cắt ra may thành áo quần trẻ em đem bỏ mối tại các chợ trời hè phố. Ðêm nào cũng may đến mười hai giờ khuya. Một mình nuôi chồng tù tội, nuôi con thơ dại, ngược xuôi trong cuộc đổi đời.
Những năm tháng nằm tù, có nhiều thì giờ suy nghĩ, tôi mới sâu sắc nhận ra mình mang ơn vợ quá nhiều. Tình cảm nàng dành cho tôi tràn đầy dịu dàng, bao dung, âu yếm và hy sinh. Tôi biết mình là kẻ có phước được vợ hiền.... Khi tôi được ra tù, thể xác tiều tụy, tinh thần suy nhược, đời sống bất ổn, bị đe dọa thườn g trực. Hàng tuần bị tên công an khu vực đến thúc giục đuổi đi về vùng kinh tế mới, và nói lời hăm dọa. Tôi nản lòng bàn với Mai để dọn về vùng kinh tế mới cho yên thân. Nàng đã khôn ngoan giải thích rằng, bằng mọi giá phải bám vào thành phố, để sống còn và để bớt bị độc tài áp bức, bớt khốn khổ vì cái u mê của chế độ hành hạ. Nàng thường khuyên tôi: - Mình hãy xem cuộc đời này như một trò chơi không vui, đừng quá quan tâm đến những gì xảy ra cho mình, cho thiên hạ chung quanh. Những đau khổ mà mình đang chịu đựng cũng là một thứ thử thách, làm cho mình lớn thêm lên, trưởng thành hơn, và cứ vui với những gì nhỏ nhoi nhất có thể có trong thời gian này. Không xấu xa nào có thể tồn tại mãi mãi được, ánh sáng tư1ng lai sẽ có ngày chiếu rọi trên quê hương. Mai đã an ủi, khuyên nhủ và dịu dàng dắt tôi đi qua quãng đời đau khổ trong chế độ lạ lùng vô nhân kỳ quái này. Chúng tôi bữa đói bữa no dắt nhau đi trong đời sống mịt mù của xã hội chủ nghĩa trá hình. Khi tôi ngỏ ý tham gia một tổ chức phục quốc chống lại chính quyền cộng sản trong thành phố, thì Mai đồng ý ngay. Nàng nói: - Chúng ta đã vất súng đầu hàng, chỉ mong được bình yên sống và góp phần xây dựng lại quê hương. Nhưng kẻ chiến thắng đọa đày nhân dân xuống vực thẳm. Không cho ai yên sống. Chính họ đã buộc chúng ta đứng dậy, cầm lại súng. Việc đáng làm thì phải làm. Nếu ai cũng trốn tránh cả, thì đau khổ này biết bao giờ dứt được? Nhưng phải thận trọng đ=E 1 khói phí thân làm việc dã tràng. Cùng với bạn bè cũ mới, chúng tôi tổ chức mua súng, liên lạc với các nhóm kháng chiến khác. Ra một tờ báo bí mật chuyền tay. Mai đã ngược xuôi giúp đỡ chúng tôi, mang tin tức, chuyển vận hàng hóa. Chúng tôi mơ mộng một ngày ánh sáng tự do chiếu rọi trên quê hương, trở lại đời sống không áp bức kẹp kềm. Một vài người trong nhóm bất cẩn, tổ chức bị đổ bể, đa số anh em bị bắt. Tôi chạy thoát được với cái áo có nhiều lỗ đạn bắn thủng bên hông. Mai nhờ người nhắn tôi bình tĩnh chờ nàng sắp đặt. Nàng vay mượn và bán hết đồ đạc trong nhà, đóng tiền cho tôi bí mật vượt biên....Phút cuối chủ thuyền cho vợ con tôi cùng đi với lời hứa trả tiền sau. Tôi cám ơn Trời Phật đã xui khiến cho chúng tôi còn có bên nhau trong đời.
Trên biển đói khát Mai nhường phần ăn uống cho con, cho chồng, với lý do là tôi cần sống hơn nàng, tôi có thể làm được nhiều việc ích lợi hơn. Nhưng theo ý tôi, thì chính Mai mới xứng đáng để sống sót vì đời sống nàng có nhiều ý nghĩa, tốt đẹp hơn. Những ngày khó khăn nắng cháy cực khổ tại trại tỵ nạn, nàng dành lấy hết tất cả việc vặt vãnh như lãnh thức ăn, xách nước, nấu nướng, chăm sóc con cái, để cho tôi có thì giờ tham gia tiếp tay phụ giúp các công tác chung trong trại. Mai dặn tôi tráng xa những nơi có tranh giành, có chút quyền lợi, chỉ kê vai gánh vác những việc có ích chung mà không ai làm. Với khuyến khích và an ủi của vợ, tôi làm được nhiều việc hữu ích cho cộng đồng. Trong lúc đó, một vài anh bạn tôi, tham gia việc cộng đồng mà như làm việc quốc cấm, bị vợ cằn nhằn, ngăn cản, mỉa mai rằng việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng. Nhiều người than vãn về những thiếu thốn, khó khăn, cực khổ trong trại tỵ nạn. Mai thì khi nào cũng vui vẻ, lạc quan, và cho rằng tương lai được sống đời tự do đang rõ ràng trước mắt. Những thiếu thốn khó khăn trong trại tỵ nạn là đương nhiên. Ở đây cũng còn sung sướng hơn những ngày tháng sống với chế độ công sản u ám, bất trắc, chèn ép, sợ hãi. Những khi con tôi chê cơm, Mai nhắc nhở cho chúng những ngày khoai sắn qua bữa, những ngày đói khát trA An biển khơi, thì chúng vội vàng ăn ngon lành những chén cơm trong trại tỵ nạn.
Chúng tôi đến Mỹ vào mùa Ðông, tuyết phủ ngút ngàn, trắng xóa cả đất trời. Chưa biết có thể làm gì để nuôi sống gia đình trong miền đất mới, nhưng nhờ trợ cấp xã hội trong thời gian đầu, đắp đổi tạm sống qua ngày. Dù không dư giả, tiền trợ cấp xã hội được Mai chia ra làm ba phần: hai phần ba nuôi sống gia đình với chi tiêu dè xẻn tiện tặn, một phần ba gởi về giúp những bạn bè đang đói khó khắc khoải trong lao tù, trong các vùng kinh tế mới.... Hai vợ chồng dắt nhau đi tìm việc, và không nản lòng. Tôi tìm được một chân rử a chén bát tại khách sạn Holiday Inn. Mai tìm được một chân làm bánh ngọt Donut. Chúng tôi tự túc được rồi, và từ đó mà tiến lên, tôi tìm được công việc khác trong hãng tiện có đồng lương khá hơn. Chúng tôi bắt liên lạc với bạn bè xa gần, và ao ước được đóng góp phần nào vào nỗ lực làm vơi khổ trên quê nhà. Thư của bạn bè hồi âm với lời lẽ bi quan, nhiều người khuyên tạm quên chuyện quê hương đi, mà lo cho đời sống bản thân và gia đình trước đã... Nhiều đêm Mai thì thầm: - Chúng ta có yên lòng hưởng hạnh phúc, tự do khi cả quê hương đang chìm đắm trong khổ đau? Chúng ta có quên được bao nhiêu người đang kỳ vọng chúng ta nơi quê nhà? Liệu chúng ta có làm được gì không hay chỉ mải mê lo cho đời sống riêng t=C 6?...
Chưa bao giờ tôi nghe Mai phàn nàn, sanh nạnh với tôi về công việc trong nhà. Chưa bao giờ nàng lên giọng sai bảo tôi hút bụi, quét nhà, rửa chén bát. Nếu rảnh, thì tôi làm, nếu tôi bận xem những trận thể thao hấp dẫn, thì thôi. Nhiều lúc Mai không cho tôi rửa chén bát, giành lấy mà làm, vì những lúc đó nàng rảnh rang. Chúng tôi cùng làm việc nhà trong tinh thần chia sẻ, không phải trong trách nhiệm phân chia việc nào chồng làm, việc nào vợ làm. Mai chưa bao giờ tranh hơn thua với chồng. Nàng quan niệm rằng, vợ chồng không cần tranh hơn thua nhau, hơn chồng cũng không được gì mà chỉ tổ tình yêu bị tổn thương.. Chưa bao giờ Mai lớn tiếng hay khăng khăng quyAt đoán việc gì. Khi nào cũng dịu dàng thảo luận và sẵn sàng chờ lúc thuận tiện để thuyết phục thêm. Tôi đã nghe thấy vợ nhiều người bạn, sẵn sàng xẵng tiếng với chồng, mở miệng ra là nói nặng lời, nói điều chua chát khó nghe, và tôi biết mình may mắn có vợ hiền... Những lúc tôi gặp khó khăn ngoài xã hội, mang bực bội và cái không vui về nhà, Mai thường khuyên tôi rằng: - Mục tiêu tối thượng của đời người là đi tìm hạnh phúc. Ði làm kiếm tiền cũng chỉ để mua hạnh phúc. Hạnh phúc đích thực của cuộc sống là gia đình vui vẻ, ấm êm và dễ chịu. Không tội chi đem cái khó khăn bực bội của bên ngoài về nhà cho mất vui, mà phí phạm ngày tháng yên ấm của gia đình. Dù giàu sang danh vọng đến mấy, mà gia đình thiếu hạnh ph=C 3c thì đời không còn ý nghĩa gì. Thế là tôi tìm được nguồn vui và yên tĩnh tâm hồn...
Nhiều khi nằm bên nhau, tôi hỏi Mai: - Sao hơn mười mấy năm sống bên nhau, chưa bao giờ em làm cho anh buồn lòng, chưa bao giờ em làm cho anh phải nổi giận. Em có khi nào buồn giận anh không? Nàng nói: - Sách dạy cho em biết rằng, người cho thì được nhiều hạnh phúc hơn người nhận. Không cầu thì sẽ được, không đòi thì sẽ có. Biết vui với cái tương đối mà mình đang có, thì trở thành kẻ sung sướng nhất trong đời. Cho đi tình thương chân thành, thì được nhận lại bằng tình thương. Nhiều người đàn bà đòi hỏi ở chồng quá đ=C 3ng, ngoài khả năng của chồng. Bao nhiêu cũng không thỏa mãn cả. Họ không nhìn thấy sự hy sinh của người khác, mà chỉ cố bươi móc lỗi lầm cỏn con của chồng để mà trách móc, giận hờn. Làm thế không có lợi gì cả, mà chỉ là cách phá hoại hạnh phúc gia đình hữu hiệu nhất..
Tôi thành thực mà nói rằng đã học được rất nhiều điều tốt của vợ tôi. Nàng càng dịu dàng, càng thu mình nhỏ lại, thì tôi càng thương yêu trang trải bù đắp cho vợ nhiều hơn. Mỗi khi đi làm về, thấy nét mặt tươi vui hân hoan của vợ, thì bao nhiêu mệt nhọc bực bội trong ngày đều tiêu tan. Khi tôi phạm phải lỗi lầm, hành động sai quấy, vợ tôi thường an ủi rằng, mình là con người chứ đâu20phải là thần thánh chi, mà không có sai lầm. Ðừng buồn, cái thiệt hại này cũng là bài học tốt về sau. Những an ủi, khuyến khích tinh thần của vợ, làm cho đời sống tôi nhẹ nhàng, êm ái, thư dãn, không bị dồn ép, không bị áp lực cuộc sống, không có căng thẳng gia đình như nhiều bạn bè khác.
Trên bước đường tha hương, một lần vợ chồng Tuân-Lam ghé thăm chúng tôi. Tuân là bạn cũ, Lam là người xưa. Vợ tôi biết rõ mối tình cũ giữa tôi và Lam, nhưng nàng tin chồng, và rất lịch sự, vồn vã đón tiếp họ hết lòng. Có lẽ Mai cũng biết chuyện xưa của chúng tôi đã nguội lạnh từ lâu, chẳng ai còn tiếc thương chi. TuA 2n vẫn hiền lành phúc hậu như xưa, nét mặt chịu đựng.. Ðêm khuya tôi vẳng nghe tiếng Lam đay nghiến dằn vặt chồng ở phòng bên cạnh, nói những lời thiếu lễ độ.. Về sau, mỗi lần nghĩ đến Lam, lòng tôi phơi phới, vì may mắn, cuộc đời không phải gắn liền với một người đàn bà như Lam. Tôi biết ơn mẹ nhiều hơn. Kinh nghiệm sống của mẹ đã giúp cho cuộc đời tôi có hạnh phúc hơn. Và tôi biết thương yêu, nể trọng vợ hơn nhiều.
Một chị bạn gia đình không được hạnh phúc, hỏi vợ tôi bí quyết để được chồng thương yêu nể nang. Mai cười mà nói: - Không có bí quyết nào cả. Chỉ có câu chuyện sau20đây, tôi thuộc nằm lòng từ thời còn đi học. Chuyện ở trong sách tập đọc của Pháp. Rằng: - Có một anh nông dân đem bò ra chợ tỉnh bán. Suốt ngày không bán được phải dẫn bò về. Ðường xa mệt nhọc, con bò trở chứng không chịu đi. Có người gạ đổi con bò lấy con ngựa hồng tung tăng. Anh tưởng được ngựa sẽ thong thả dong cương ra về, nhưng con ngựa lạ chủ không chịu cho anh cưỡi và cũng trì kéo dằng dai. Một người khác dẫn con heo nái ngoan ngoãn đi qua, gạ đổi heo lấy ngựa, anh đổi liền. Ðường xa mệt nhọc, con heo cũng nằm ì không chịu đi, bí quá, anh đổi heo lấy một con dê nái. Con dê càng cứng đầu khủng khiếp, anh vật lộn với dê phờ phạc. Ðêm đã tối mịt mù, một hành khách đề nghị đổi dê lấy một con gà tr ống lớn. Vừa đói, vừa khát, vừa mệt, anh ôm con gà vào quán đổi lấy bữa cơm. Thế là một bữa ăn trả giá bằng một con bò. Ăn xong, anh nông phu thong thả ra về, vừa đi vừa ca hát khỏe khoắn. Khi về đầu làng, có bạn quen hỏi đi đâu mà về khuya thế.. Anh kể chuyện đi bán bò, và đổi con gà lấy bữa cơm. Người bạn hết hồn, khuyên anh khoan về nhà, mà bà vợ nổi cơn tam bành lên, không khéo vợ chồng xô xát gây ra án mạng. Anh nông dân bảo rằng, chắc vợ anh cũng thấy việc làm của anh là có lý. Người bạn ức quá, đánh cá một con bò, nếu chị vợ mà không gây gổ, thì anh nông dân sẽ được một con bò, còn ngược lại, phải mất lại một con bò khác. Người bạn đi theo núp bên ngoài nghe cuộc đối thoại của vợ chồng anh nông dân.. Ch ị vợ hỏi anh, đã ăn gì chưa, đi đường có mệt lắm không, bò bán có được giá không? Anh đáp rằng đã ăn rồi, con bò không bán được mà trên đường về nó không chịu đi nên đã đổi con bò lấy con ngựa rồi. Chị vợ nói rằng, có con ngựa cũng tốt, nó sẽ kéo xe, giúp mình di chuyển mau chóng hơn. Anh chồng cho biết con ngựa không chịu cho anh cưỡi nên đã đổi lấy con heo nái.. Chị vợ cũng tán thành ngay và còn dự trù con heo mùa sau sẽ sinh ra một bầy heo khác, rất có lợi. Anh chồng cho biết thêm, con heo cũng trở chứng không chịu đi nên đổi lấy một con dê cái. Chị vợ tiếp liền, là con dê cũng rất có lợi, từ nay mỗi sáng gia đình sẽ có sữa dê mà uống. Anh chồng lắc đầu và cho biết đã đổi con dê ương ngạnh lấy con gà trống lBn. Chị vợ anh nông phu tiếp rằng, có con gà cũng tốt, mỗi sáng nghe nó gáy cũng vui tai. Anh chồng bảo là buổi sáng ra đi không đem tiền theo, đói quá, đã vào quán đổi con gà lấy bữa cơm. Nghe xong, chị vợ anh nông phu đến quàng hai tay, ôm vai chồng và nói rằng, anh làm như thế là phải. Lấy của che thân, chứ đừng lấy thân che của. Ði cả ngày mệt nhọc đói khát, không ăn chịu sao nổi. Em đã để sẵn khăn, múc sẵn nước, anh đi tắm cho khỏe." Mai kết luận rằng: "Muốn được chồng thương cũng rất dễ, đừng bao giờ tranh hơn thua với chồng, việc gì đã lỡ, thì cho qua luôn, vui vẻ chấp nhận, và dịu dàng, nhường nhịn chồng là yếu tố căn bản để được chồng thương".
Ngoài song thân ra, người tôi biết ơn nhiều nhất là vợ tôi. Ðời sống tôi có ý nghĩa hơn, sung sướng hơn, hạnh phúc hơn nhờ vợ khôn ngoan dịu dàng. Nhiều đêm thức giấc tôi nhẹ hôn lên mắt vợ, thầm so sánh tấm lòng hiền chân của vợ với trái tim của một vị nữ thánh. Phần nàng, thì luôn luôn: "Em chỉ muốn làm cái bóng nhỏ và âm thầm bên đời anh thôi". Mai chưa hề đọc thánh kinh, nhưng nàng đã biết chọn chỗ ngồi thấp nhất để được nâng lên cao nhất trong lòng chồng con.
Thương Cho Annie
Em là cô bé tuổi mười lăm
Nụ hoa chớm nở những mộng lành
Thương yêu quấn quít bên Cha Mẹ
Xinh xắn hiền ngoan tựa trăng rằm.
Tính em hiền hậu mà vui vẻ
Dễ thương hơn hết chị em nhà
Em là bạn tốt, là em nhỏ
Là cành hoa quý của Mẹ Cha.
Bỗng đâu ập tới cơn nghiệt ngã
Em mang chứng bệd65nh chó chữa lành
Mạng sống vài năm không qua khỏi
Bàng hoàng cứ ngỡ giấc mơ qua.
Chân em giờ đã kông hoạt động
Em đau liên lỉ khắp thân mình
Em chỉ sống nhờ vào dưỡng chất
Đâu rồi cô bé của tuổi hoa!
Em chưa biết Chúa – con cầu nguyện
Chúa sai thiên sứ đến bên em
Ôm ấp em trong cánh dịu hiền
Vợi xoa đau đớn hằng triền miên.
Annie đau lắm, Chúa biết không?
Đầu xanh vô tội, Chúa sao đành?
Con mong em được về bên Chúa
Làm thiên thần nhỏ thật trắng trong.
______________________Cecil Mỹ Hạnh
Lá Thư Từ Bên Kia Thế Giới
Nguyên Phong
________________________________________
Bác sĩ Elizabeth Kübler-Ross, người tiền phong trong lãnh vực nghiên cứu về hiện tượng hồi sinh cho biết:
"Con người sợ chết như con nít sợ ma, họ đã nhìn cái chết một cách sợ hãi, ghê tởm và cố gắng phủ nhận nó vì nó làm gián đoạn sự liên tục của đời sống. Nhưng nếu họ biết chấp nhận sự chết một cách bình thản, giản dị thì họ sẽ thấy chết là một sự kiện tự nhiên cũng như lúc sinh ra vậy. Bất kỳ lúc nào chung quanh chúng ta, sống và chết cũng luôn luôn tiếp diễn. Lá cây rụng để nhường chỗ cho những mầm non xuất hiện, hết mùa đông lại có mùa xuân. Một hiện tượng tự nhiên và cần thiết như thế không lẽ lại chẳng bao hàm một ý nghĩa thâm sâu nào đó? Phải chăng chính vì có sự chết mà sự sống hiện hữu, có sự xây dựng thì cũng phải có sự hủy diệt, đâu có gì tồn tại vĩnh viễn. Người ta không thể hiểu được ý nghĩa đích thực của sự sống nếu họ không chịu chấp nhận sự chết, và đã đến lúc người ta phải nghiên cứu cặn kẽ các sự kiện này chứ không thể chấp nhận những lý thuyết mơ hồ nào đó được".
Sau đây là tài liệu được trích lại từ cuốn La revue spirituelle:
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được. Ông không tin rằng có một linh hồn tồn tại sau khi chết vì thể xác chỉ là sự kết hợp của các vật chất hữu cơ và trí thông minh chẳng qua chỉ là sản phẩm của các tế bào thần kinh. Khi thể xác đã hư hoại thì trí thông minh cũng không thể tồn tại. Một hôm khi bàn chuyện với các con về đề tài đời sống sau khi chết, ông hứa sẽ liên lạc với các con nếu quả thật có một đời sống bên kia cửa tử. Cậu con trai Piere Desrives, cũng là một y sĩ, đã nói: "Nếu đã chết, làm sao cha có thể liên lạc với con được?" Bác sĩ Henri suy nghĩ một lúc rồi trả lời: "Cha không tin có một đời sống hay cõi giới nào ngoài đời sống này nhưng nếu sau khi chết mà cha thấy được điều gì thì cha sẽ tìm đủ mọi cách để liên lạc với các con". Vài năm sau, bác sĩ Desrives từ trần, các con ông vì bận việc nên cũng không để ý gì đến buổi bàn luận đó nữa.
Khoảng hai năm sau, một nhóm nhân viên làm việc trong bệnh viện lập bàn cầu cơ chơi, bất ngờ cơ bút đã viết: "Xin cho gọi bác sĩ Pierre Desrives đến vì tôi là cha cậu đó và tôi có mấy lời muốn nhắn nhủ với các con tôi". Được thông báo, bác sĩ Piere không tin tưởng mấy nhưng nhớ lại lời dặn của cha, ông bèn gọi các em đến tham dự buổi cơ bút này. Một người cầm giữ đầu một sợi dây, đầu kia cột vào một cây bút chì và chỉ một lát sau cây bút đã tự động chạy trên các trang giấy thành một bức thư như sau:
Các con thân mến,
Cha rất hài lòng đã gặp đủ mặt các con nơi đây. Gần một năm nay, cha có ý trông đợi để kể cho các con về những điều ở cõi bên này mà cha đã chứng kiến nhưng không có cơ hội.
Như các con đã biết, hôm đó sau khi ở bệnh viện về, cha thấy trong người mệt mõi lạ thường, cha bèn lên giường nằm và dần dần lịm đi luôn, không hay biết gì nữa. Một lúc sau cha thấy mình đang lơ lửng trong một bầu ánh sáng trong suốt như thủy tinh. Thật khó có thể tả rõ cảm tưởng của cha khi đó, nhưng không hiểu sao cha thấy trong mình dễ chịu, linh hoạt, thoải mái chứ không bị gò bó, ràng buộc như trước. Các con biết cha bị phong thấp nên đi đứng khó khăn, vậy mà lúc đó cha thấy mình có thể đi đứng, bay nhảy như hồi trai tráng. Cha có thể giơ tay giơ chân một cách thoải mái, không đau đớn gì. Đang vẫy vùng trong biển ánh sáng đó thì bất chợt cha nhìn thấy cái thân thể của cha đang nằm bất động trên giường. Cha thấy rõ mẹ và các con đang quây quần chung quanh đó và phía trên thân thể của cha có một hình thể lờ mờ trông như một lùm mây màu xám đang lơ lửng. Cả gia đình đều đang xúc động và không hiểu sao cha cứ thấy trong mình buồn bực, khó chịu. Cha lên tiếng gọi nhưng không ai trả lời, cha bước đến nắm lấy tay mẹ con nhưng mẹ con không hề hay biết và tự nhiên cha ý thức rằng mình đã chết. Cha bị xúc động mạnh, nhưng may thay lúc đó mẹ con và các con đều lên tiếng cầu nguyện, tự nhiên cha thấy mình bình tĩnh hẳn lại như được an ủi. Cái cảm giác được đắm chìm trong những lời cầu nguyện này thật vô cùng thoải mái dễ chịu không thể tả xiết. Lớp ánh sáng bao quanh cha tự nhiên trở nên sáng chói và cả một cuộc đời của cha từ lúc thơ ấu đến khi trưởng thành bỗng hiện ra rõ rệt như trên màn ảnh. Từ việc gần đến việc xa, ngay cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất cũng đều hiện ra rõ rệt trong tâm trí của cha. Hơn bao giờ hết, cha ý thức tường tận các hành vi của mình, các điều tốt lành, hữu ích mà cha đã làm cũng như các điều xấu xa, vô ích mà cha không tránh được. Tự nhiên cha thấy sung sướng về những điều thiện đã làm và hối tiếc về những điều mà đáng lẽ ra cha không nên làm. Cả một cuốn phim đời hiện ra một cách rõ rệt cho đến khi cha thấy mệt mỏi và thiếp đi như người buồn ngủ.
Cha ở trong tình trạng vật vờ, nửa ngủ nửa thức này một lúc khá lâu cho đến khi tỉnh dậy thì thấy mình vẫn lơ lửng trong một bầu ánh sáng có màu sắc rất lạ không giống như màu ánh sáng lần trước. Cha thấy mình có thể di chuyển một cách nhanh chóng, có lẽ vì không còn xác thân nữa. Cha thấy cũng có những người đang di chuyển gần đó nhưng mỗi lần muốn đến gần họ thì cha lại có cảm giác khó chịu làm sao. Một lúc sau cha đi đến một nơi có đông người tụ họp. Những người này có rung động dễ chịu nên cha có thể bước lại hỏi thăm họ một cách dễ dàng. Một người cho biết tùy theo các rung động thích hợp mà cha có thể tiếp xúc được với những người ở cõi bên này. Sở dĩ cha không thể tiếp xúc với một số người vì họ có sự rung động khác với "tần số rung động" (frequency) của cha. Sự giải thích có tính cách khoa học này làm cha tạm hài lòng. Người nọ cho biết thêm rằng ở cõi bên này tần số rung động rất quan trọng, và tùy theo nó mà người ta sẽ lựa chọn nơi chốn mà họ sống. Cũng như loài cá ở ngoài biển, có loài sống gần mặt nước, có loài sống ở lưng chừng và có loài sống dưới đáy sâu tùy theo sức ép của nước thì ở cõi bên này, tùy theo tần số rung động mà người ta có thể tìm đến được các cảnh giới khác nhau. Sự kiện này làm cha cảm thấy vô cùng thích thú vì như vậy quả có một cõi giới bên kia cửa tử và cõi này lại có nhiều cảnh giới khác nhau nữa.
Khi xưa cha không tin những quan niệm như thiên đàng hay địa ngục nhưng hiện nay cha thấy quan niệm này có thể được giải thích một cách khoa học qua việc các tần số rung động. Những tần số rung động này như thế nào? Tại sao cha lại có những tần số rung động hợp với một số người? Người nọ giải thích rằng tùy theo tình cảm của con người mà họ có những sự rung động khác nhau; người có tình thương cao cả khác với những người tính tình nhỏ mọn, ích kỷ hay những người hung ác, không hề biết thương yêu. Đây là một điều lạ lùng mà trước nay cha không hề nghĩ đến. Cha bèn đặc câu hỏi về khả năng trí thức, phải chăng những khoa học gia như cha có những tần số rung động đặc biệt nào đó, thì người nọ trả lời rằng, khả năng trí thức hoàn toàn không có một giá trị nào ở cõi bên này cả. Điều này làm cho cha ít nhiều thất vọng. Người nọ cho biết rằng cái kiến thức chuyên môn mà cha tưởng là to tát chẳng qua chỉ là những mảnh vụn của một kho tàng kiến thức rất lớn mà bên này ai cũng có thể học hỏi được.
Người nọ nhấn mạnh rằng, điều quan trọng là con người biết làm gì với những kiến thức đó. Sử dụng nó để phục vụ hay tiêu diệt nhân loại? Sử dụng nó vào mục đích vị tha hay ích kỷ? Sử dụng nó để đem lại niềm vui hay để gây đau khổ cho người khác? Thấy cha có vẻ thất vọng, người này bèn đưa cha đến một thư viện lớn, tại đây có lưu trữ hàng triệu cuốn sách mà cha có thể tham cứu, học hỏi. Chưa bao giờ cha lại xúc động như vậy. Có những cuốn sách rất cổ viết từ những thời đại xưa và có những cuốn sách ghi nhận những điều mà từ trước tới nay cha chưa hề nghe nói đến. Sau một thời gian nghiên cứu, cha thấy cái kiến thức mà mình vẫn hãnh diện thật ra chẳng đáng kể gì so với kho tàng kiến thức nơi đây. Đến khi đó cha mới thấm thía điều người kia nói về khả năng trí thức của con người và bắt đầu ý thức về tần số rung động của mình.
Nơi cha đang sống có rất đông người, đa số vẫn giữ nguyên tính nết cũ như khi còn sống ở thế gian. Có người hiền từ vui vẻ, có người tinh nghịch ưa chọc phá người khác, có người điềm đạm, có kẻ lại nóng nảy. Quang cảnh nơi đây không khác cõi trần bao nhiêu; cũng có những dinh thự đồ sộ, to lớn; có những vườn hoa mỹ lệ với đủ các loại hoa nhiều màu sắc; có những ngọn núi rất cao hay sông hồ rất rộng. Lúc đầu cha ngạc nhiên khi thấy những cảnh vật này dường như luôn luôn thay đổi, nhưng về sau cha mới biết cảnh đó hiện hữu là do sức mạnh tư tưởng của những người sống tại đây. Điều này có thể giải thích giống như sự tưởng tượng ở cõi trần. Các con có thể tưởng tượng ra nhà cửa dinh thự trong đầu óc mình, nhưng ở cõi trần sức mạnh này rất yếu, chỉ hiện lên trong trí óc một lúc mà thôi. Bên này vì có những rung động đặc biệt nào đó phù hợp với sự rung động của tư tưởng làm gia tăng thêm sức mạnh khiến cho những hình ảnh này có thể được thực hiện một cách rõ ràng, chính xác và lâu bền hơn.
Các con đừng nghĩ rằng những người bên này chỉ suốt ngày rong chơi, tạo ra các hình ảnh theo ý muốn của họ; mà thật ra tất cả đều bận rộn theo đuổi các công việc riêng để chuẩn bị cho sự tái sinh. Vì mọi tư tưởng bên này đều tạo ra các hình ảnh nên đây là môi trường rất thích hợp để người ta có thể kiểm soát, ý thức rõ rệt hơn về tư tưởng của mình. Vì đời sống bên này không cần ăn uống, làm lụng nên người ta có nhiều thời giờ theo đuổi những công việc hay sở thích riêng. Có người mở trường dạy học, có kẻ theo đuổi các nghành chuyên môn như hội họa, âm nhạc, kiến trúc, văn chương thơ phú v.v....
Tóm lại, đây là môi trường để họ học hỏi, trau dồi các khả năng để chuẩn bị cho một đời sống mai sau. Phần cha đang học hỏi trong một phòng thí nghiệm khoa học để sau này có thể giúp ích cho nhân loại. Càng học hỏi, cha càng thấy cái kiến thức khi xưa của cha không có gì đáng kể và nền y khoa mà hiện nay các con đang theo đuổi thật ra không lấy gì làm tân tiến lắm nếu không nói rằng rất ấu trĩ so với điều cha được biết nơi đây. Hiển nhiên khoa học phát triển tùy theo khả năng trí thức của con người, mỗi thời đại lại có những sự phát triển hay tiến bộ khác nhau nên những giá trị cũng vì thế mà thay đổi. Có những giá trị mà thời trước là "khuôn vàng thước ngọc" thì đời sau lại bị coi là "cổ hũ, lỗi thời"; và như cha được biết thì những điều mà ngày nay đang được người đời coi trọng, ít lâu nữa cũng sẽ bị đào thải. Tuy nhiên cái tình thương, cái ý tưởng phụng sự mọi người, mọi sinh vật thì bất kỳ thời đại nào cũng không hề thay đổi, và đó mới là căn bản quan trọng mà con người cần phải biết. Càng học hỏi cha càng thấy chỉ có những gì có thể tồn tại được với thời gian mà không thay đổi thì mới đáng được gọi là chân lý. Cha mong các con hãy suy ngẫm về vấn đề này, xem đâu là những giá trị có tính cách trường tồn, bất biến để sống theo đó, thay vì theo đuổi nhũng giá trị chỉ có tính cách tạm bợ, hời hợt.
Cha biết rằng mọi ý nghĩ, tư tưởng, hành động đều có những rung động riêng và được lưu trữ lại trong ta như một cuốn sổ. Dĩ nhiên khi sống ở cõi trần, con người quá bận rộn với sinh kế, những ưu phiền của kiếp nhân sinh, không ý thức gì đến nó nên nó khép kín lại; nhưng khi bước qua cõi bên này thì nó từ từ mở ra như những trang giấy phô bày rõ rệt trước mắt. Nhờ vậy mà cha biết rõ rằng hạnh phúc hay khổ đau cũng đều do chính ta tạo ra và lưu trữ trong mình. Cuốn sổ lưu trữ này là bằng chứng cụ thể của những đời sống đã qua và chính nó kiểm soát tần số rung động của mỗi cá nhân. Tùy theo sự rung động mà mỗi cá nhân thích hợp với những cảnh giới riêng và sẽ sống tại đó khi bước qua cõi giới bên này. Do đó, muốn được thoải mái ở cõi bên này, các con phải biết chuẩn bị. Cha mong các con hãy bắt tay vào việc này ngay. Các con hãy rán làm những việc lành, từ bỏ những hành vi bất thiện. Khi làm bất cứ việc gì, các con hãy suy gẫm xem hậu quả việc đó như thế nào, liệu nó có gây đau khổ hay tổn thương cho ai không? Đừng quá bận rộn suy tính những điều hơn lẽ thiệt mà hãy tập quên mình. Đời người rất ngắn, các con không có nhiều thời giờ đâu.
Khi còn sống, đã có lúc cha dạy các con phải biết đầu tư thương mại để dành tiền bạc vào những trương mục tiết kiệm, những bất động sản, những chứng khoán... nhưng bây giờ cha biết rằng mình đã lầm. Một khi qua đến bên đây, các con không thể mang nhũng thứ đó theo được. Danh vọng, địa vị, tài sản vất chất chỉ là những thứ có tính cách tạm bợ, bèo bọt, đến hay đi như mây trôi, gió thổi, trước có sau không. Chỉ có tình thương mới là hành trang duy nhất mà các con có thể mang theo mình qua cõi giới bên này một cách thoải mái, không sợ hư hao mất mát. Tình thương giống như đá nam châm, nó thu hút những người thương nhau thực sự, để họ tiến lại gần nhau, kế hợp với nhau. Nó là một mãnh lực bất diệt, mạnh mẽ, trường tồn và chính nhờ lòng thương này mà người ta có thể tìm gặp lại nhau trải qua không gian hay thời gian. Chắc hẳn các con nghĩ rằng người cha nghiêm nghị đầy uy quyền khi trước đã trở nên mềm yếu chăng? Này các con, chỉ khi nào buông xuôi tay bước qua thế giới bên này, các con mới thực sự kinh nghiệm được trạng huống của mình, tốt hay xấu, hạnh phúc hay đau khổ, thích hợp với cảnh giới thanh cao tốt lành hay những nơi chốn thấp thỏi xấu xa. Hơn bao giờ hết, cha xác định rằng điều cha học hỏi nơi đây là một định luật khoa học thật đơn giản mà cũng thật huyền diệu. Nó chính là cái nguyên lý trật tự và điều hòa hằng hiện hữu trong vũ trụ. Sự lựa chọn để sống trong cảnh giới mỹ lệ đẹp đẽ hay tăm tối u minh đều do những tần số rung động của mình mà ra cả và chính mình phải chịu trách nhiệm về cuộc đời của mình hay lựa chọn những nơi mà mình sẽ đến.
Khi còn sống cha tin rằng chết là hết, con người chỉ là sự cấu tạo của các chất hữu cơ hợp lại, nhưng hiện nay cha biết mình đã lầm. Cha không biết phân biệt phần xác thân và phần tâm linh. Sự chết chỉ đến với phần thân xác trong khi phần tâm linh vẫn hoạt động không ngừng. Nó đã hoạt động như thế từ thuở nào rồi và sẽ còn tiếp tục mãi mãi. Hiển nhiên các nhân của cha không phải là cái thể xác đã bị hủy hoại kia mà là phần tâm linh vẫn tiếp tục hoạt động này, do đó cha mới cố gắng liên lạc với các con để hoàn tất điều mà cha đã hứa với các con khi xưa. Cha nghiệm được rằng sự sống giống như một giòng nước tuôn chảy không ngừng từ nơi này qua nơi khác, từ hình thức này qua hình thức khác. Khi trôi chảy qua những môi trường khác nhau nó sẽ bị ảnh hưởng những điều kiện khác nhau; và tùy theo sự học hỏi, kinh nghiệm mà nó ý thức được bản chất thiêng liêng thực sực của nó. Cũng như sống biển có đợt cao, đợt thấp thì đời người cũng có những lúc thăng trầm, khi vinh quang tột đỉnh, lúc khốn cùng tủi nhục, nhưng nếu biết nhìn lại toàn vẹn tiến trình của sự sống thì kiếp người có khác chi những làn sóng nhấp nhô, lăng xăng trên mặt biển đâu! Chỉ khi nào biết nhận thức về bản chất thật sự của mình vốn là nước chứ không phải là sóng thì các con sẽ ý thức được tính cách trường cửu của sự sống. Từ đó các con sẽ có một quan niệm rõ rệt rằng chết chỉ là một diễn tiến tất nhiên, một sự kiện cần thiết có tính cách giai đoạn chứ không phải một cái gì ghê gớm như người ta thường sợ hãi. Điều cần thiết không phải là trốn tránh sự chết hay ghê tởm nó, nhưng là sự chuẩn bị cho một sự kiện tất nhiên phải đến một cách thoải mái, ung dung vì nếu khi còn sống các con đã đem hết khả năng và phương tiện của mình để giúp đời, để yêu thương mọi loài thì lúc lâm chung, các con chẳng có gì phải luyến tiếc hay hổ thẹn với lương tâm cả. Trước khi từ biệt các con, cha muốn nói thêm rằng hiện nay cha đang sống một cách thoải mái, vui vẻ và an lạc chứ không hề khổ sở.
Elizabeth Kübler-Ross
Hạnh phúc
rất đơn sơ
Người ta không thể cân đong, đo đếm hạnh phúc. Bàn về hạnh phúc giống như người mù sờ voi. Có người bảo hạnh phúc là khi nhu cầu được thỏa mãn. Có người cho rằng chờ đợi một niềm vui còn hạnh phúc hơn khi nó đến. Người khác nói hoàn thành một nhiệm vụ được giao chính là hạnh phúc.
Có người cho rằng hạnh phúc chính là làm cho người khác… hạnh phúc. Cũng có người lại bảo hạnh phúc rất đơn giản, chỉ cần thấy mình hơn ông hàng xóm! Có người nói hạnh phúc là sự sung sướng, mà muốn sướng thì phải… sung, nên chạy đi tìm mọi thứ thuốc uống vào cho sung càng lâu càng tốt. Mà sung quá thì dễ… rụng ! Như vậy không chắc hễ sung nhiều thì sướng nhiều !
Một ngưòi nằm mơ thấy mình đang phỏng vấn Thượng đế.
-Mời vào ! Ngươi muốn phỏng vấn ta ?
-Vâng ạ !Nếu ngài có thì giờ…
-Thời gian của ta là vô tận !Ta có thể làm bất cứ điều chi ta muốn. Nào mời…
-Ðiều gì ở loài người làm cho ngài ngạc nhiên nhất sau khi ngài đã tạo ra họ?
À, à…Ðó là lúc còn nhỏ thì họ mong cho mau lớn, khi lớn lên rồi thì mong cho nhỏ lại… À, đó là họ phung phí sức khỏe để kiếm cho thật nhiều tiền, rồi bỏ tiền đó ra để phục hồi sức khỏe… À, còn nữa ! Lúc nào họ cũng lo lắng, toan tính cho tương lai… để rồi chẳng sống trong tương lai mà cũng chẳng sống trong hiện tại…!
Chuyện còn nhỏ mong cho mau lớn, lớn rồi mong nhỏ lại làm ta nhớ một chuyện ngụ ngôn. Chuyện kể có một vị hoàng tử muốn mau lớn để làm vua thay cha…Một ông tiên hiện ra cho hoàng tử một cuộn chỉ, dặn rằng muốn mau lớn thì cứ việc kéo cuộn chỉ đó ra. Hoàng tử kéo cuộn chỉ thật nhanh và lớn cũng thật nhanh, được lên ngôi báu, tam cung lục viện, đánh nam dẹp bắc, chiến công lừng lẫy… Cho đến một hôm, nhà vua giật mình thấy cuộn chỉ sắp hết , vội vàng cuốn ngược lại thì không còn được nữa !
Còn sức khỏe ? Hỏi sức khỏe là gì chắc chắn ta sẽ lúng túng, không trả lời được, nhưng khi mất sức khỏe thì biết ngay. Cũng như hạnh phúc vậy. Hạnh phúc là gì thì nhiều khi không biết, nhưng một khi mất thì biết. Thường thì đã quá muộn !
Sức khỏe không phải chỉ là không có bệnh tật. Sức khỏe là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái ( well being) về thể chất, tâm thần và xã hội, theo định nghĩa của tổ chức Y tế thế giới ( WHO) từ năm 1946.
Do vậy có thể nói bác sĩ chỉ có thể giúp ta chữa trị bệnh tật chớ không thể giúp ta tạo nên sức khỏe. Phung phí sức khỏe để kiếm cho thật nhiều tiền, rồi dùng tiền đó để phục hồi sức khỏe… thì đến Thượng đế cũng phải… ngạc nhiên là vậy !
Về chuyện lúc nào cũng lo lắng cho tương lai để rồi chẳng sống trong tương lai mà cũng chẳng sống trong hiện tại ? Chẳng phải ta đã bao nhiêu lần hẹn… với chính mình hãy đợi đấy, hoặc an ủi mình rồi sẽ biết đó ư ? Ðể rồi thời gian cứ trôi dần qua lúc nào không hay, để rồi một hôm kêu lên :nhìn lại mình đời đã xanh rêu (Trịnh Công Sơn)!
Thế nhưng hạnh phúc lại rất đơn sơ, hạnh phúc là cái gì đó chỉ có thể nắm bắt trong hiện tại, không thể tìm kiếm trong dĩ vãng hay chờ đợi ở tương lai !
Tiếng Anh có một từ thú vị :present, vừa có nghĩa có mặt, vừa có nghĩa hiện tại, lại vừa có nghĩa quà tặng, cho ta một ý niệm về một món quà tặng qúy báu của cuộc sống là sự có mặt trong giây phút hiện tại.
Các nhà nghiên cứu bèn thử tìm một vài biến số để đo đếm hạnh phúc của người già xem sao, chẳnh hạn như sự nhiệt tình, lòng quả cảm, khả năng hòan thành mục tiêu, sự đánh giá về chính mình, óc hài hước… Chọn người già làm đối tượng bởi đây là lứa tuổi thường kêu ca, than phiền… thiếu hạnh phúc nhất !
Kết quả cho thấy đa số 'người già hạnh phúc' là những ngưới bao giờ cũng tự đánh giá mình cao hơn người khác đánh giá về họ.
Một nghiên cứu ở những người trên 65 tuổi chẳng hạn cho thấy trong khi họ tự cho điểm về tính thân thiện và lòng nhiệt tình là 72 thì những người chung quanh chỉ cho họ có 65 điểm; về sự thông minh và nhanh nhẹn thì họ tự cho 68 điểm, trong khi những người khác chỉ cho có 28 , về tính cởi mở và thích nghi, họ tự cho 64, trong khi người khác chỉ cho có 22 điểm (thì ra chả cởi mở gì cả) ; về khả năng hoàn thiện công việc được giao, họ tự cho 55, trong khi người khác chỉ cho có 35 điểm !
Tựu trung người ta đồng ý nên dựa vào bốn yếu tố căn bản để xác định hạnh phúc ở người có tuổi đó là : sức khỏe, nơi ăn chốn ở, thu nhập và hoạt động, là những biển số có thể đo đạc được.
Thế nhưng , ngay cả về sức khỏe, có vẻ như có thể đo đạc dễ dàng bằng các máy móc khách quan, nhưng thực ra cái cảm xúc chủ quan về sức khỏe, sự sảng khoái trong tâm hồn và thể chất mới thật sự là quan trọng, sự cảm nhận về tình trạng sức khỏe của chính mình nhiều khi vượt ra ngoài sự đánh giá của các chuyên gia y tế.
Nơi ăn chốn ở cũng vậy, cũng rất chủ quan. Một bà cụ 'nhà quê' quanh năm quen ở lều tranh vách đất, quen cá kho rau luộc, đang thảnh thơi sung sướng thì được các con rước về thành phố cho sống trong phòng máy lạnh, cung phụng các bữa ăn đầy đủ chất bổ dưỡng, chẳng mấy chốc bà cụ phải trốn về quê!
Nhưng về thu nhập lại khác, người già cần phải có thu nhập ổn định, đủ để không bị lệ thuộc vào con cháu. Cay đắng nhất ở tuổi già chính là sự lệ thuộc vào con cháu về kinh tế. 'Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng! Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày…'.
Về hoạt động thì do cá tính của mỗi người, có người trời sinh hướng ngoại, ham hoạt động năng nổ, dễ hòa mình, dễ hợp tác, quan tâm đến những vấn đề xã hội, đó là những người dễ có được hạnh phúc.
Ngược lại, một số người khác lại co cụm, ích kỷ, hay than phiền, hay phóng đại về tình trạng khó khăn của mình, hay nhắc dĩ vãng, nhắc quá khứ, làm cho những người chung quanh khó chịu, lánh xa nên ngày càng cô độc. Duy trì các mối quan hệ xã hội là yếu tố rất quan trọng. Một khi còn giữ được mối quan hệ xã hội thì họ sẽ tránh được nỗi bơ vơ.
Ở đây, 'chất lượng' quan trọng hơn là số lượng. Có một bà bạn hiểu mình như Bá Nha với Tử Kỳ, như Bertrand Russel với Edith thì tốt hơn có cả một lô bạn… chỉ gặp nhau khi cần nhậu ! Cho nên người già có khuynh hướng tìm đến các bạn cũ thuở thiếu thời của mình là vậy. Ngày nay, những người già ở Nhật đi lại khó khăn thì người ta dạy vi tính cho họ, để họ có thể giao tiếp qua e-mail, qua chat.
Người có óc hài hước luôn có khả năng thích nghi tốt hơn, có thể biến một số khó chịu thành một niềm vui, hưởng được những hạnh phúc nhẹ nhàng, đơn sơ mà sâu lắng…
Kim Thánh Thán ngày xưa đã từng liệt kê 33 cái 'sướng' của mình như : Ngày hè, cầm dao bén cắt một trái dưa hấu vỏ xanh, bày trên một cái bàn đỏ, chẳng cũng khoái ư ? - Mở rương ra vô tình được bức thư của cố nhân, chẳng cũng khoái ư ? - Mở cửa sổ cho con ong bị kẹt bay ra chẳng cũng khoái ư ?…( Sống đẹp, Lâm Ngữ Ðường, bản dịch Nguyễn Hiến Lê).
Tưởng gì chớ chỉ có thế thì ngay bây giờ ta cũng có thể bắt chước liệt kê không ít những 'khoái ư' như vậy giữa buổi xuân về!
BS ÐỖ HỒNG NGỌC
Vừa đủ là đủ rồi!
Vừa đủ hạnh phúc để khiến bạn dễ thương.
Vừa đủ gian nan để làm bạn mạnh mẽ.
Vừa đủ buồn để khiến bạn thật sự là người.
Vừa đủ hi vọng để bạn thấy mình hạnh phúc.
Vừa đủ thất bại để bạn biết khiêm tốn.
Vừa đủ thành công để bạn hăng hái hơn.
Vừa đủ bạn bè để bạn thấy thoải mái
Vừa đủ của cải để đáp ứng nhu cầu của mình.
Vừa đủ nhiệt tình để luôn hướng về trước.
Vừa đủ niềm tin để xua đuổi mọi buồn phiền.
Vừa đủ sự quyết đoán để làm mỗi ngày đều tốt hơn hôm qua.
PHÁT PHAN (BC K2003)
(dịch từ Internet)
Ý Thượng đế
Tôi cầu xin Thượng đế cho tôi không còn chịu mọi đau khổ.
Ngài nói, không. Ðó không phải là ta mà tự ngươi phải biết cách tránh những phiền khổ ấy.
Tôi hỏi xin Ngài ban cho tôi thêm lòng kiên nhẫn.
Ngài nói, không. Lòng kiên nhẫn được hình thành từ sự chịu đựng mọi gian khổ, không thể ban phát. Nó
là để học và rút tỉa.
Vậy hạnh phúc, thưa Ngài, tôi hỏi xin.
Ngài nói, không. Hạnh phúc hay không là tùy vào ngươi.
Thưa Ngài, hãy cho tôi mọi thứ giúp tôi tận hưởng cuộc đời.
Ngài nói, không. Ta đã ban cho ngươi sự sống để ngươi có được mọi thứ.
Tôi hỏi Ngài sao cho tôi có được lòng yêu thương như tình yêu Ngài dành cho tôi.
Thượng đế phán: Cuối cùng ngươi đã hiểu được ý ta.
BÙI NGUYỄN QUÝ ANH
(Theo Godslittleacre. net)
Giọng cũ
xa gần
Dân Gầy phụ trách
*Họp mặt ra mắt Chi Hội Trường:
Thật, cũng chẳng nhớ thói quen này có từ bao giờ. Do ai đề xướng. Nhưng nhiệm kỳ này, Chi Hội Trường Sydney rất trẻ là anh Nguyễn Duy Lâm rất hăng say tự nguyện mở rộng vòng tay ôm, để đón tiếp một số anh em trong Gia Đình An Phong, ở Sydney. Một công đôi ba chuyện, vừa làm phép căn nhà mới trên đồi cao ở Baulkham, một quận lỵ giàu sang ấy, vừa để gọi là “rửa lon” Chi Hội Trưởng và đón tiếp đức thần tăng đến từ miệt dưới, xứ Melbourne.
Buổi họp mặt nào, dù lớn dù nhỏ, bao giờ chẳng có màn Khilikhitô. Nhưng điểm son đặc biệt lần này, không phải là chuyện ấy, mà là chuyện thánh lễ Chủ nhật thứ 23 thường niên, diễn ra trong khung cảnh rất bình thường. Rất quanh năm. Nghĩa là, không có bàn thờ, không có giảng mà chỉ là cảnh anh em quây quần chung quanh vị chủ tế và đồng tế, có bà con tham dự. San sẻ Lời Chúa đích thực là những tâm tình áp dụng Lời của Chúa trong cuộc sống đời thường, được sẻ và san. Tuy bắt đầu từ 4.30 chiều và kết thúc vào lúc 10 giờ đêm, nhưng ai nấy chừng như vẫn thấy thiếu.
Thoáng nghe có lời đề nghị từ đâu đó: hay là ta họp mặt kỳ tới ở công viên vùng đồi cao, quanh đây. Hay, ta kéo nhau xuống miệt dưới một ngày rất gần, để hội họp và nhìn lại những khuôn mặt lâu nay, ít hay thấy. Hay, ta mở một công ty có mang tên rất nhẹ như “Vũ Nhuận enterprise”, nên chăng? Hoặc: “An Phong & Co”? Bà con nhà mình có ý kiến gì không đấy? Nghĩa là, cũng vui chơi, làm ăn và cộng tác trong bất cứ môi trường, dịch vụ nào? Cứ chờ và xem thôi. Đành thế vậy!
*Lại nói về vợ-
Đề tài …”vợ” chắc chẳng bao giờ cạn. Chỉ cạn khi nào ngôn ngữ loài người không còn phân biệt giống cái và giống đực, nữa mà thôi. Chí ít, là người tình. Người tình, cũng thế. Chỉ hết chuyện người tình khi tình người, chẳng còn thấy trên thế gian này. Không tin ư? Xin mời đọc tiếp những giòng chảy ở bên dưới:
Sự khác biệt giữa Người Vợ và Người Tình.
Vợ và người tình tuy cùng là... cánh phụ nữ nhưng giữa họ lại có vô vàn điểm khác nhau. Dưới đây là những dị biệt căn bản mà chúng tôi đã tìm hiểu và ghi nhận được từ một số quý ông để các bạn tham khảo.
-Vợ và người tình đều... vòi tiền của ta; nhưng sau đó, người tình ra sức chiều chuộng ta, trong khi vợ lại còn bắt ta... rửa chén, đổ rác.
-Người tình chăm sóc (đắp khăn nóng, pha nước chanh...) khi ta lỡ say xỉn, vợ thì... mắng nhiếc ta như tát nước vào mặt.
-Người tình gọi điện thoại di động cho ta khi cần, vợ đôi lúc không cần cũng gọi... để kiểm
tra.
-Người tình thường xuyên tìm cách 'lên dây cót' bản lĩnh đàn ông của ta, vợ nhiều khi còn tiến hành... 'cấm vận'.
-Người tình luôn tìm ưu điểm của ta để khen ngợi, vợ lại thích soi mói khuyết điểm của ta để... kể khổ.
-Người tình không bao giờ so sánh ta với người đàn ông khác, vợ lại hay đem ta ra đối chiếu với... chồng bà hàng xóm.
-Vợ thường tìm hiểu nguyên nhân tại sao ta vui, người tình quan tâm đến việc vì sao ta buồn.
-Ở bên người tình ta có thể thẳng thắn bộc lộ quan điểm của mình, ở bên vợ tốt nhất là nên... im lặng.
-Khi giận nhau, người tình thường tìm cách làm lành với ta, còn với vợ, ta phải... xuống nước năn nỉ bả trước.
-Người tình nhìn thấy ta là líu lo như ... hát, vợ gặp ta là... lải nhải đủ thứ chuyện trên đời.
-Ta có thể nói lời chia tay nhẹ nhàng với người tình mà còn lưu luyến, còn vợ tìm cách xé xác ta thành trăm mảnh.
Trên đây là ý kiến ghi nhận được từ một số đàn ông vừa có vợ, và vừa có tình nhân, qúy vị nào có thêm ý kiến so sánh thì xin góp lời vào, và mấy bà cũng có thể góp lời vào cho… vui nhà, vui cửa ấy mà.
(Trích Diễn Ðàn Dân Tộc Việt, và có thêm lời cuối).
*Lại nói chuyện…ngôn ngữ.
Ngôn ngữ người mình, rất ư là súc tích. Đa dạng. Đẹp lòng mọi người. Nói đẹp là đẹp, khi người mình có những lúc buồn vui, lẫn lộn. Lẫn lộn, cả về hình thức lẫn nội dung, của ngôn từ. Chí ít, là khi ta có những ý tưởng rất ư nổi cộm. Ý tươi vui. Như, ý tứ của tên gọi các “bộ”, sau đây:
Có thông tin là tỉnh Quảng Bình sẽ sát nhập với Hà Tĩnh, lấy tên là Tỉnh Bình Tĩnh.
Bộ Nội vụ sát nhập với Bộ Công an thành Bộ Nội Công.
Bộ thông tin truyền thông sáp nhập với bộ giáo dục thành Bộ Truyền Dục.
Nhưng theo các nguồn tin mật, Bộ Nội vụ chỉ thích sát nhập với bộ Y tế, lấy tên là Bộ Nội Y.
còn Bộ Truyền thông lại có nhã ý sát nhập với Bộ Lao động Thương binh xã hội thành Bộ Truyền Lao!
*Đôi điều cải chính:
Chủ bút Mười Hai nhờ DânGầy cải chính và điều chỉnh một vài sai sót. Chị Nguyễn Thị Tính còn có tên là Phụng (chứ không phải Vọng, như đã đánh máy sai trên DIA số 63). Và, các chị Hồng Phước và Ánh Mai đã đóng góp cho Nhà Dòng là $120 (chứ không phải $20). Xin thành thật cáo lỗi.
*An Phong Sydney được mùa cưới hỏi:
Chắc đã đến thời. Thời, của thế hệ thứ hai, Gia Đình An Phong đang tiến bước, lấn lướt về phía trước. Chưa thay thế được thế hệ đầu, nhưng cũng đã tạo được cơ hội. Trong cơ hội đó, phải kể đến các dịp gặp gỡ cuối năm 2008. Với đủ mọi lễ cưới hỏi rất linh đình. Cưới hỏi thế hệ thứ hai năm nay, đếm được như sau:
-Ngày 6/9/2008 út cưng anh chị Huỳnh Công Lợi (cùng lớp với anh Thành Tâm-Sỹ Tín, Đức Mầu, Khởi Phụng) là cháu Huỳnh Công Huy Hoàng, sánh duyên cùng cô Nguyễn Thị Hồng Vân, đến từ Hoa Kỳ..kỳ. Buổi tiếp tân cho đám cưới của hai cháu Hoàng-Vân năm nay được sự hỗ trợ của 2 MC nổi đình đám, một là tay chuyên nghiệp đường dài Vũ Nhuận, và một ngôi sao kỳ phùng vừa mới lên đã rớt xuống, là: đức Trần Ngọc Mười Hai, hy vọng MC này sẽ cứ xuống, dài dài.
-27/9/2008, bà con An Phong Sydney quê ta lại được dịp xum họp tề tựu để đón mừng chàng rể quý của anh chị Nguyễn Kim Linh, trong tiệc cưới mừng cô cháu nội của Bác Nguyễn Văn Kim là cô Clara Kim Linh Nguyễn, đẹp duyên cùng chú rể “tây” Curtis David. Tiệc cưới được tổ chức theo truyền thống văn hoá đa nguyên, cùng nhà Đạo. Đạo Công giáo thuần thục. Rất chuyên chăm. Tại nhà thờ giáo xứ Felix de Valois, ở Bankstown. Lễ tiếng Tây, do cha xứ Việt chủ trì. Thần tăng họ Mai cũng từ Melbourne miệt dưới bay lên để cùng đồng tế, tham dự.
-Và 19/11/08 là đám cưới út cưng của anh chị Nguyễn An Bình (cùng lớp với đương kim Phó Giám Tỉnh, Lm Cao Đình Trị CssR), tại nguyện đường ở Strathfield MLC. Nhưng tiệc cưới lại mặn mà tinh hoa, nhiều chất Việt. Tiệc nào cũng vui. Lễ nào cũng đẹp. Những mong rằng, thế hệ thứ hai sẽ thừa thắng xông lên, ta tiếp nối con đường của đàn anh. Mong lắm thay.
*Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa.
Tiếng đồn hôm nay, lành nhiều hơn xưa. Lành, là tiếng tăm của Sydney năm nào. Vẫn liên tục yểm trợ người anh em ở quê nhà. Lần này, lại được nghe giọng cũ rất văng vẳng của người anh em có tên là “Năm Sa Đéc, Nguyễn Minh Sang”. Anh Năm, năm nay được bề trên uỷ thác trông coi nhà Huế. Rất thích hợp. Vì, anh chính cống “Huế miềng” chăm phần chăm. Và, “Huế mình” hôm nay có giọng cũ rất khàn khàn, như sau:
DÒNG CHÚA CỨU THẾ
142 NGUYỄN HUỆ HUẾ VIET NAM
Huế 22/9/2008.
Thân gửi Bạn Trần Ngọc Tá
Cùng các bạn trong gia đình An Phong.
Thay mặt anh em DCCT Nhà Huế, Sang gửi đến anh chị em lời chào thân ái trong Chúa Ki-tô, trong tình gia đình Thánh Anphong.
Sau hơn 30 năm làm Mục vụ trong các họ đạo vùng Sa-đéc, tỉnh Đồng Tháp, thuộc giáo phận Vĩnh Long, Sang ra Huế nhận trách vụ gần 6 tháng nay. Mới đây được anh Mười Hai giới thiệu nhập với nhóm điện thư Gia đình AnPhong, được thông chia tin tức của nhóm. Cám ơn nhóm nhiều.
Nhận nhiệm vụ ở Nhà Huế, Sang không ngại công việc Mục vụ cho bằng rất lo về cơ sở, một cơ sở lâu đời nhất của tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế VN. Về Mục vụ, Cộng đoàn có được 10 thành viên: 3 Thầy Trợ sĩ và 7 anh em Linh mục. Cha nhạc sĩ Phê-rô Hoàng Diệp, 86 tuổi, vừa qua cơn bệnh nặng, nay ngài có thể đi lại tập hát và dâng lễ. Cha Giuse Viết Phục, tuy với tuổi 80, vẫn còn lanh lợi. Rồi đến Sang đây, nối kết với thế hệ Linh mục trẻ: Xuân Đường, Quốc Việt, Thành Hưng và Văn Dũng.
Đã sống trong Nhà Dòng, anh em còn nhớ cơ sở DCCT Huế gồm phần Tu viện và Nhà Đệ Tử, kiến trúc hơn 80 năm. Qua những năm tháng khó khăn, đặc biệt từ 1975, toàn bộ hai cơ sở này xuống cấp khủng khiếp, nay chỉ biết cố gắng chấp vá để xử dụng. Riêng Đệ tử có nhà Préau (Nhà Sinh hoạt, Nhà chơi) dài 40m, ngang 14m, coi như đã bị bỏ phế hoàn toàn. Nay Cộng đoàn có chương trình sửa chữa lại để làm Nhà sinh hoạt Mục vụ cho giáo xứ ĐMHCG và Trung tâm sinh hoạt cho sinh viên thành phố Huế (nơi học hành và các cuộc trao đổi).
Về công việc sửa chữa nhà Préau, Cộng đoàn tìm tiền chỗ này chỗ khác đã lợp được mái tôn với giàn kèo sắt hơn 200 triệu, và đang tô lại vách trong ngoài, thay các cửa sổ và ra vào không dưới 200 triệu. Nhà Dòng gợi ý với Sang làm sao thông chia tin tức với nhóm anh em Gia đình Anh Phong, để xin từng anh chị em góp phần một chút cho vui. Chỉ kêu gọi anh chị em Nhóm gia đình Anh phong chia sẻ mỗi người hoặc mỗi gia đình Một Bộ Bàn ghế để học: cái bàn bằng gỗ dài 2,50m, giá 690 ngàn đồng VN, với 5 cái ghế nhựa (mủ) giá 350 ngàn đồng VN. Chỉ giới hạn 30 bộ bàn ghế như vậy thôi. Nếu mọi sự diễn tiến tốt đẹp, Nhà Dòng sẽ cho sinh viên bắt đầu xử dụng cho việc học hành, trao đổi và cho sinh hoạt của giáo xứ vào đầu tháng 11/2008.
Rất mong anh chị em gia đình An Phong sẳn sàng chia sẻ phần khiêm tốn nhưng với tấm lòng yêu mến và biết ơn Nhà Dòng. Và trong tình hiệp thông, xin Chúa Cứu Thế chúc lành cho anh chị em, và Mẹ HCG nâng đỡ anh chị em luôn. Cám ơn sự chia sẻ của anh chị em Nhóm Gia đình AnPhong.
Thân mến,
L.m GB. Nguyễn Minh Sang, CssR.
*Và cây cầu hiệp thông gia đình-
Nhờ phương tiện truyền thông nhanh như chớp, Gia đình An Phong Sydney đã có hồi âm, rất thực tế. Rất thực tế, như thư phúc đáp của anh Chi Hội Phó nhiệm kỳ này, như sau :
29/9/2008
Sang ơi,
Như đã báo trước với cậu trong tuần rồi, sáng nay Thứ Hai 29/9/08 tớ đã ra dịch vụ gửi tiền/quà về yểm trợ Nhà Huế theo nhu cầu của anh em mình. Nhận được cho tớ biết ngay nhé. Đợt đầu này được $1,800 đô Úc. Dưới đây là danh sách của anh em tặng tiền:
Cụ Bà Đàm Quang Tính $50
Chị Đàm Thị Mai $100
Các cháu Thiên Ân - Minh Thư $100
Trần Ngọc Tá $300
Gia đình bác Trần Tứ Cảnh $500
Lê Văn Khuê (VN) $100
Vũ Đức Nhuận $100
cháu Trần Đàm Việt Quốc $100
Nguyễn Duy Lâm (CHT) $100
Phạm Văn Chương (tức Nguyệt) $100
Nguyễn Tiến Hùng $100
Nguyễn Văn Dũng $100
Lê Văn Thụ Nhân (con của Khuê) $50
Tổng cộng $1,800
Hay là, cậu viết vài hàng để tớ chuyển lời cảm ơn đến những người tặng quà. Vì có người không phải là cựu đệ tử.
Sang chúc lành và cầu nguyện cho mọi người nhé.
Mai Tá
*Và thư của Bề Trên nhà Huế
Đúng là thời buổi vi tính. Mọi việc qua lại theo tốc độ ánh sáng. Kể cả việc trao và nhận quà. Và, đây là kết quả của tính vi, rất điện tử :
Tá thân mến.
Lúc 2:30pm hôm nay (Sept 29) Sang vừa nhận đủ số tiền Tá gửi: $1,800.00 đô Úc. Cảm ơn nhiều.
Nhờ Tá chuyển lời cảm ơn chân tình của Cộng đoàn Nhà DCCT Huế đến từng anh chị và gia đình, đã yêu thương chia sẻ cho công việc Mục vụ của DCCT Huế. Với số tiền này, có thể sắm được gần 20 bộ bàn ghế. Tạm xài.
Hồi nào anh chị em chia sẻ thêm thì đóng cho đủ 30 bộ và mua thêm cả mấy trăm cái ghế. Vừa rồi tổ chức Học hỏi về Gia đình cho sinh viên, qui tụ hơn 500 nam nữ sinh viên. Tổ chức một khoá Anh văn đặc biệt trong 5 tuần, do các anh chị Volunteers, cả Mỹ lẫn Việt kiều về giúp (do hội Education for the poor), cho hơn 500 học viên.
Sinh hoạt giới thanh niên trong Giáo phận Huế, thường được tổ chức tại Nhà Hội của Đệ Tử Dòng mình.
Xin gửi lời cảm ơn đặc biệt đến:
-Cụ Bà Đàm Quang Tính.
-Chị Đàm Thị Mai.
-cháu Thiên Ân - Minh Thư.
-Trần Ngọc Tá ( đương nhiên).
-gia đình bác Trần Tứ Cảnh.
-Bạn Lê Văn Khuê.
-Bạn Vũ Đức Nhuận.
-cháu Trần Đàm Việt Quốc.
-bạn Nguyễn Duy Lâm.
-Bạn Chương Ròm (Phạm Văn Chương- Nguyet).
-Nguyễn Tiến Hùng.
-Nguyễn Văn Dũng.
-cháu Lê Văn Thụ Nhân.
Xin Chúa Cứu Thế và Mẹ Hằng Cứu Giúp chúc lành cho anh chị và các bạn.
Hôm nào đưa vào sinh hoạt, sẽ chụp hình cho các anh chị coi mặt.
Thay mặt Nhà DCCT Huế.
JB.Nguyễn Minh Sang, CssR.
*Xứ gì là xứ Kỳ kỳ ?
Dạ. Đã từ lâu, Dân Gầy mỗ vẫn cứ gọi đó là xứ Hoa...Kỳ kỳ. Nay, có một đồng nghiệp trong ngành những viết và lách, cũng đã nhận ra mấy điều như thế. Rất cảm thông. Xin bầu bạn thông cảm với những vần thơ ở bên dưới, như ri :
Chuyện lạ bên Mỹ Cái xứ gì đâu chán gớm ghê Cái xứ gì đâu ngán làm sao Cái xứ gì đâu, nghĩ ngán thầm Cái xứ gì đâu lạ lắm đây Cái xứ gì đâu chẳng xài tiền Cái xứ gì đâu gỉa quá trời Cái xứ gì đâu bắt đủ bằng Cái xứ gì đâu thiệt lạ lùng Cái xứ gì đâu lạ lắm thôi Chỉ có xứ này mới thế thôi |
*Cái già nó có “xồng xộc”
DânGầy vừa vào vài trang báo điện tử. Bất chợt, đọc được một bài của tác giả Kathy Trần, thấy hay hay. Bèn, xin mạn phép trích đăng, chỉ một đoạn. Đó là đoạn nói về các triệu chứng của “cái già xồng xộc, nó thì…” Xin ghi lại đây để bạn nào không có phương tiện “truy cập” báo điện, có thể thưởng lãm, nhất là xem Kathy Trần nói có đúng không, nhé:
“Lão “thần già” cho ta rất nhiều “điềm” báo trước. Hãy điểm qua một số căn bản mà tiểu muội tin rằng các ông bà sồn sồn đều đang nếm mùi cả:
-Thích kể chuyện đời xưa, lúc mình còn đi học.
-Nói chuyện hay kể bệnh và chỉ nhau thuốc trị bệnh.
-Cả ngày hết đi tìm kính tới tìm chìa khoá xe, tìm giấy má…
-Lên lưới trời đọc thư từ, bài vở là phóng lớn … 150%.
-Thích nhìn mấy cô cậu trẻ đẹp tuổi giữa 20-30 mà mơ tưởng tới… hồi đó mình…
-Vòng thứ hai ngày càng to, vòng số 1 và 3 ngày càng xệ.
-Thích được khen: “Trông ông (bà) trẻ hơn và ốm hơn trước nhiều ạ”, hoặc “trông ông (bà)chả khác năm kia, năm kìa tí nào cả, còn trẻ hơn là trưóc!”
-Thích đi chơi nhưng làm biếng lái xe.
Uống trà hay cà-phê là tối không ngủ được.
-Sáng dậy cỡ bốn năm giờ sáng.
-Dễ cảm động, tủi thân, rơm rớm nước mắt.
-Thích người khác để ý và săn sóc mình hơn.
Ngủ nhiều nhưng làm gì cũng chậm lại (chưa kể về…sex)
-Có điện thoại cầm …chân thì lúc nào cũng tắt cho đỡ tốn pin.
--Đi chơi, cho nhau số cell phone rồi chả mở bao giờ.
-Cell phone (di động) reo ầm ĩ, lúng túng mãi mới lôi được phone ra, khi bắt được thì phone đã tắt.
Nếu là các bà thì dẹp hết mini-jupes và những giầy cao gót nhọn hoắt vì sợ té và hư… chân.
-Ra bãi biển thì … trùm chăn cho chắc ăn, kẻo…gió về bịnh chết!
-Ra đường “bị” gọi bằng cô, chú; lên chức bác thì triệu chứng trầm trọng rồi đó.
-Đi đâu cũng “bị” nhường chỗ là giai đoạn hết thuốc chữa!
-Vẫn mê ăn quà nhưng bánh phở, bún, mì, cơm phải…mềm.
-Thấy đồ ăn ngon thì lấy đầy đĩa mà ăn không hết.
-Ăn xong phải dùng kem đánh răng loại “Extra-whitening”.
-hay hỏi thăm tin tức các bạn cùng tuổi xem “còn khoẻ không?”
-Mở báo ra là tìm trang cáo phó đọc trước.
-Sau chót, “để con cái khỏi lo lắng”, mua “hậu sự” cho mình và cho… cái nửa kia cho chắc ăn!
Xin nhắn bạn đọc nào tự thấy mình “vẫn chưa già”, hãy phối kiểm xem các triệu chứng ghi trên, có đúng không? Kiểm xong có kết quả, xin thư về:
DânGầy tam cá nguyệt san DIA điạ chỉ www.giadinhanphong.blogspot.com,sẽ có thưởng.
*Về hiệp thông/nguyện cầu
Mới đây, DânGầy nhận được thư đi thư lại của anh em trong Gia đình An Phong Sydney Úc và Việt Nam. Thư đi rồi lại thư về, cũng chỉ để nói cho nhau nghe, mình vẫn hiệp thông, nguyện cầu. Thư là thư như sau:
26.09.2008
Anh Thành thân mến,
Từ mấy tuần nay, anh em gia đình An Phong ở Sydney mình, vẫn theo dõi hiệp thông với các anh ở Thái Hà, Kỳ Đồng và Việt Nam. Nhưng không nói ra. Thậm chí, bọn mình còn ký vào thỉnh nguyện thư gửi Thủ tướng Úc, kêu gọi ông ta can thiệp với nhà cầm quyền Việt Nam sao cho Công Lý và Hoà Bình được tôn trọng và thực hiện.
Hôm nay, trong tình anh em mật thiệt của đại Gia Đình An Phong, mình gửi đến Anh, thêm một xác định nữa, là: anh em mình bên Úc này, luôn sát cánh hiệp thông và nguyện cầu cho Anh, cho các anh em mình ở Thái Hà hay Tổng Giáo Phận Hà Nội, và các Nhà, ở Việt Nam.
Xin Anh chuyển đến anh em lời chào hỏi rất thân tình và lời đoan chắc là: lúc nào bên anh em cũng có bọn mình, từ Sydney Úc Châu và từ khắp nơi trên thế giới. Bởi, chúng mình đều cùng chung một gia đình, con cùng một thánh tổ phụ, An Phong.
Xin mạn phép lấy tư cách của Chi Hội Phó, Đại diện cho Chi Hội Trưởng Nguyễn Duy Lâm, còn đang bận và tất cả anh em trong gia đình An Phong ở Sydney gửi đến Anh và anh em lời tâm tình này.
An Phong Maria Trần Ngọc Tá
Và, thư hồi âm của anh Giám Tỉnh VN:
Anh Mai Tá
và tất cả anh em Cựu Đệ Tử ở Úc Châu rất quí mến.
Xin chân thành cảm ơn các anh rất nhiều vì tấm lòng và sự hiệp thông của anh em, tấm chân tình của anh em và lời cầu nguyện của anh em đã nâng đỡ cộng đoàn anh em ở VN rất nhiều.
Chúng ta đã phải chiến đấu trong một trận chiến không cân sức. Không cân sức, vì chúng ta không có một tấc sắt trong tay, nhưng cũng không cân sức, vì chúng ta có sức mạnh vô song của Thiên Chúa, miễn là chúng ta biết sử dụng sức mạnh của chúng ta.
Lá thư PHÁT ĐỘNG CẦU NGUYỆN của tôi gởi cho anh em trong dòng nghiã là gởi cả cho anh em nữa,những người con của Thánh An Phong, anh em là ruột thịt của chúng tôi trong thanh An Phong, xin anh em gop suc voi chung toi de gia dinh chung ta duoc manh me trong đức Tin, vững vàng trong đức Cậy và thiết tha trong đức Mến.
Một lần nữa xin cảm ơn anh Mai Tá và tất cả anh em.
Rất mong có dịp gặp nhau trong tình thương mến.
Trong JMJA
Lm. Vinh Sơn Phạm Trung Thành, dcct.
Giám Tỉnh
29.09.2008
Và một thư khác của người anh em lớp dưới, ở Texas Hoa Kỳ:
Xin chào anh Tá,
Cám ơn anh đã chuyển lá thư của Cha Giám Tỉnh.
Tôi chắc chắn là anh Peter Nguyễn Lân và anh em CDT bên California cũng một lòng cầu nguyện cho nhà dòng thân yêu của chúng ta.
Xin qui anh đọc và phổ biến lá thư của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam do Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn ký tên và gởi cho nhà cầm quyền Hà Nội
Fluctuat nec meergitur.
Xin chúc bình an
Cinq Feu
(trích điện thư do anh Mai Tá chuyển ngày 29.09.08)
*Cũng chuyện đàn ông đàn bà-
Những chuyện như thế, DânGầy gặp cũng nhiều. Nhưng ít khi nào được đọc bài/thơ văn ca tụng, bọn đàn ông. Hôm nay vớ được một bài không đến nỗi tệ, bèn gửi bà con mình cùng chung vui. Thơ rằng:
Đàn ông việc nhà
Là đàn ông tức là mê rửa chén
Mơ lau nhà và háo hức lau xe
Làm đàn ông là tựa cửa đợi vợ về
Nhanh nhảu chạy ra đỡ làn, đỡ nón
Dịu dàng ngồi xuống bằng cánh tay năm ngón
Hỏi nàng xem có uống nước cam không?
Rồi bưng lên trên khay nhỏ màu hồng
Nước giải khát, khăn lau tay, xí muội
Rồi trong khi nàng chân co chân duỗi
Vừa nhấp môi, vừa đọc báo thời trang
Ta tung tăng vào bếp mở làn
Lấy các thứ bày ra bàn chuan bị
Nước tương này xếp vào ngăn gia vị
Hành tím này xếp vào giỏ đồ khô
Đậu hũ đây thì thả vào tô
Còn rau sống bỏ vào thau rửa sạch
Cá chép tươi còn đang phành phạch
Đánh vẩy rồi ta lấy thớt ra
Tay cắt vây, mồm lại hát ca
Làm việc nhà, đó là hạnh phúc
Bắc nồi lên tiện nay ta múc
Nước từ trong máy lọc lưng lưng
Bỏ cà chua, bỏ hành lá tưng bừng
Ta sẽ nấu một nồi canh lịch sử
Trong khi đó vợ ta đang mặc thử
Chiếc áo mới mua về, coi có đẹp chưa
Ta vừa khen, vừa nạo cùi dừa
Để rắc sẵn lên chén chè trôi nước
Ăn cơm xong cho nàng dùng mát ruột
Và kèm thêm lát dưa hấu đẹp da
Nồi canh sôi trong tiếng reo òa
Ta thả cá, rồi làm luôn món mặn
Mở tủ lạnh ra, nhớ lời vợ dặn
Rằng hôm nay nàng muốn ăn cua
Rang với me, thêm dăm quả trứng rùa
Ta nhanh nhảu cho vào trong nồi hấp
Nhớ khi rang phải vặn cho lửa thấp
Cua mới ngon và mới vàng đều
Đang say sưa thì nghe tiếng nàng kêu
'Nước tắm của em, anh yêu ơi, đâu nhỉ?'
Vớ chai dầu thơm trên tràng kỷ
Ta vội vàng chuẩn bị khăn bông
Dầu gội đầu, kèm theo cái lược hồng
Mời nàng vào, không quên mở nhạc
Nàng bước vô, không hề kinh ngạc
Vì chuyện này đã quá thân quen
Ta nhanh tay mở khóa vòi sen
Rồi sung sướng chạy ngay ra bếp
Và vui mừng nhanh chóng xếp mâm
Còn không quên mở lọ khế dầm
Cùng pha sẵn ly tra sâm thơm phức
Nàng bước ra, khăn bông quấn ngực
Như thiên thần sáng rực vẻ thanh cao
Kéo ghế nhanh, nàng yểu điệu ngồi vào
Khen ta là chồng ngoan, chồng tốt
Ta ngây ngất không thốt được lời nào
Ta gắp cho nàng thêm món đồ xào
Ngắm nàng ăn, lòng dạt dào cảm mến
Chính giữa bàn hai ngọn nến lung linh
Tỏa hào quang xuống góc nhà xinh
Hai tâm hồn trắng tinh hòa nhịp
Ta nhai vội để còn nhanh kịp
Vào trải giường và mở tivi
Chờ nàng ăn xong, ta gọi thầm thì
Mời nàng vô đúng kỳ phim nhiều tập
Nàng thong thả chiêu ly trà chống mập
Trước khi xem trai Hàn Quốc ung thư
Dưới chân nàng con mèo nhỏ gừ gừ
Còn xa xa ta hăng say rửa chén
Vừa rửa kỹ ta vừa nhìn lén
Thấy nàng đang khép mắt mơ màng
Với lấy chăn hoa ta đắp nhẹ nhàng
Bàn tay ta dịu dàng khe khẽ
Rắc vào chăn một chút dầu thơm
Đặt cạnh nàng gấu bông nhỏ lông xồm
Vặn bé ngọn đèn rồi ta lui bước
Ta kiểm soát cửa sau, cửa trước
Dắt xe vô và cho chú mèo ăn
Đậy kỹ thức ăn để tránh thằn lằn
Kiểm soát lọ đường, đề phòng bọn kiến
Rồi vươn vai ta hùng dũng tiến
Vô phòng nàng, kéo nhẹ tấm rèm ra
Cho ánh trăng xanh biếc ngọc ngà
Phủ lên bóng nàng đang ngon giấc
Ta dịu dàng ngồi nhẹ như ngọn bấc
Nói thì thầm ba tiếng 'vợ yêu ơi'
Nàng vừa yêu vừa đẹp nhất trên đời
Ta thiếp đi nơi chân giường mát dịu.
Lê Thị Liên Hoan
*Lại chuyện đàn ông/đàn bà…là vợ chồng
Quả là, chuyện đàn ông đàn và vợ chồng, là chuyện dài nhiều tập. Dài hơn cả chuyện hồi xưa ta gọi “Chuyện dài nhân dân tự vệ”. Bởi thế, hôm nay DânGầy lại mạo muội trích đăng ở đây, thêm một bài thơ vợ chồng, rất cồng kềnh. Cồng và kềnh, lền khên như sau:
XIN LÀM CHỒNG MỘT NGÀY
Làm ông chồng sao mà sướng qúa,
Vừa tỉnh dậy đã có cà phê,
Rồi biến nhanh chiều tối mới về,
Dồn đủ việc bề hê cho vợ.
Nào nấu ăn, nào là đi chợ,
Nào nuôi con, dạy học ở nhà,
"Thượng Đế ơi,
Con xin được làm kiếp Người Ta,
Chỉ một ngày biết là sung sướng."
Mai thức dậy chưa kịp được hưởng,
Kiếp đàn ông sung sướng làm sao,
Đã nghe vợ: "Anh lại đây nào,
Rác hôm qua anh sao quên đổ?
Anh cũng đến bàn bên cửa sổ,
Lấy dùm em cuốn sổ cầm tay,
Em phải gọi bạn bè liền ngay,
Hẹn mấy chị hôm nay mua sắm."
Anh ơi anh, cầu tiêu thối lắm,
Anh vào đi, thử ngắm mà xem,
Mấy đứa con xả giấy tèm lem,
Nước không chảy chẳng thèm gọi bố."
Thụt cầu tiêu xong rồi đi sở,
Việc bù đầu làm bở hơi tai,
Xếp hôm nay mặt mũi hãm tài,
Gắt như mắm la hoài nhức óc.
Về đến nhà người chưa hết nhọc,
Vợ lại gọi: "Cỏ mọc lung tung."
Máy cắt cỏ kéo ra "bùng bùng…"
Đi một vòng khắp cùng sau trước.
"Mai thứ bảy anh được nghỉ việc,
Rửa cho em thiệt sạch cái sân,
Mang xe em ra tiệm xe gần,
Thay nhớt xong, mua phân rắc cỏ.
Trên đường về đừng ngó dọc ngang,
Ngồi ở nhà, em đợi sẵn sàng,
Chờ anh vế lấy thang lên mái,
Xem chỗ dột năm ngoái ra sao.
Anh cũng coi ống cống đi nào,
Mùa mưa này thế nào cũng lớn.
Còn chuyện này cũng cần ghê gớm,
Tã con không đủ đến sớm mai.”
Tôi chạy vội bước một bước hai,
Vác về nhà được vài bịch tã.
"Anh ơi, tã này phải đem trả,
Tã hiệu này con chả êm mông."
Đêm hôm nay tôi được làm chồng,
Vợ khen tôi: “Chồng giỏi thưởng công.”
Sáng hôm sau không đâu còn sức,
Nghĩ đến việc phía trước phải xong.
"Thượng Đế ơi,
Bỏ cho con những mong ước cũ,
Xin cho con làm lại phụ nữ,
Làm vợ ngoan con đủ yêu đời,
Làm mẹ hiền an vui mái ấm.”
TNT 12/08/07
Lời bàn của DânGầy: Hy vọng là người ký tên dưới bài thơ TNT, không phải là anh Trần Ngọc Tá, ta vẫn quen gọi là Mười Hai hoặc MaiTá.
*Thân quen tình gia đình, Gia Đình An Phong-
Gia Đình An Phong mình, vẫn có thói quen thư từ trao đổi có xưng hô rất tình nhà. Cùng một nhà, lại sinh cùng một năm thì ta gọi nhau bằng cậu tớ, vẫn là chuyện thường ngày ở huyện. Dù trong huyện, anh có làm lên chức Tuần phủ, linh mục hoặc chỉ là “phó thuờng dân Nam Bộ”, cũng như nhau. Nhận định như thế rồi, xin mời bà con đọc tiếp các tâm tình trao đổi giữa người anh em tuyến 1 và 2 của gia đình rất An Phong như sau này:
15.10.08
Sang ơi,
Như mình đã hứa, sáng nay đã ra dịch vụ và gửi quà về cho Sang rồi. Kỳ này, vì tiền Úc xuống, nên mình gửi bằng tiền Việt cho tiện (phí như nhau). Tổng cộng được 5 triệu 9 trăm 5 chục ngàn đồng VN (tương đươngAUD$500) cộng thêm kỳ trước là AUD$2,300. Quà này của các vị như sau:
Bác Trần Ngọc Liên (Sydney): $100 đô Úc
Anh Trần Ngọc Báu (Thuỵ Sĩ): $250 (tương đương $200 Francs Suisse)
Anh chị Nguyễn Kim Linh (Sydney): $100 đô Úc
Cụ Bà Đàm Quang Tính: $50 đô Úc
Sang nhớ viết vài chữ qua email để tớ báo tin cho các vị gửi tặng nhé.
Chúc anh em luôn vui mạnh, cùng nhau liên kếy hiệp thông trong nguyện cầu.
MaiTá
Và, ngay trong ngày, anh Trần Ngọc 12 lại đã nhận được hồi đáp, láp nháp trong thư điện như sau:
Thăm Tá thân mến.
Sang vừa nhận được số tiền 5,950.000.00VND,(năm triệu, chín trăm, năm chục ngàn VND) lúc 3h15pmVN. Cám ơn Tá nhiều. Tá làm người Trung gian
"chuyển" và "cầu" đắc lực.
Nhờ Tá chuyển đến Ông Bà và các anh chị lời cảm ơn của Nhà Dòng CCT Huế.
Xin Chúa Cứu Thế và Mẹ Hằng Cứu Giúp chúc lành cho :
- Bác Trần Ngọc Liên (Sydney).
- anh Trần Ngọc Báu (Thuy Si).
- anh chị Nguyễn Kim Linh (Sydney).
- cụ Bà Đàm Quang Tính.
Ngày mai Oct.16, lễ Thánh Giêrađô Majella, Bổn mạng gia đinh An Phong, chúc mừng nhau và nhớ nhau đặc biệt trong thánh lễ và cầu nguyện.
TM. Nhà DCCT Huế:
JB.Nguyễn Minh Sang, CssR.
*Tiếng Việt còn, nước ta còn.
Dù tiếng ấy là tiếng Bắc hay tiếng Nam. Dù tiếng này là tiếng nước nhà, có từ trước 1975 hay sau. Vẫn là tiếng Việt mình. Vẫn là nước An-Nam của mình, phải không các Tám nó? Phải hay không phải, cứ hãy lắng tiếng nói, trong tâm hồn này người ơi, con tim chân chính không bao giờ biết đến nói dối. Và, những điều ở bên dưới không là điều, biết nói dối:
Tiếng Việt dễ thương qua 2 miền Nam, Bắc
Bắc bảo Kỳ, Nam kêu Cọ (gọi là Kỳ Cọ)
Bắc than Gầy thì Nam bảo Ốm
Bắc cáo Ốm, Nam khai Bịnh hay Đau
Bắc Cuốc Nhanh, Nam Đi Bộ mau mau
Bắc bảo Muộn thì Nam cho là Trễ
Nam mần Sơ Sơ, Bắc Nàm Nấy Nệ
Bắc Lệ trao`, Nam Chảy nước mắt ra
Bắc nói Úi Chà, Nam kêu Ui Da
Bắc Bước vào kia, Nam Đi vô trỏng
Nam kêu Vạc Tre, Bắc là cái Chõng
Nam Cãi bai bãi, Bắc Lý Luận ngược xuôi
Nam biểu Vui Ghê, Bắc nói Buồn Cười
Bắc chỉ Thế Thôi, Nam là Vậy Đó
Nam làm Giỏ Tre, Bắc đan cái Rọ
Nam Muỗng Cà Phê, Bắc gọi cái Thìa
Nam Muỗng canh, Bắc gọi cái Cùi Dìa
Nam Đi Tuốt, thì Bắc Lìa xa mãi
Nam Nói Dai , Bắc cho là Lải Nhải
Nam kêu Xe Hơi, Bắc gọi Ô Tô
Nam xài Dù, thì Bắc lại dùng Ô
Nam Đi trốn , Bắc cho là Lánh Mặt
Nam la Hơi Mắc, Bắc là Khá Đắt
Nam Mần Ăn, thì Bắc cũng Kinh Doanh
Nam chối Lòng Vòng, Bắc bảo Dối Quanh
Nam biểu Từ Từ, Bắc khuyên Gượm lại
Nam Ngu Ghê, còn Bắc là Quá Dại
Nam Sợ Ghê, Bắc thì Hãi Quá đi
Nam Nói Gì? Bắc hỏi Dạ bảo chi?
Nam kêu Trúng Lắm, Bắc bàn Chí Phải
Nam thì Dạ, Bắc thưa Vâng ạ
Nam kêu BiBu, Bắc nói là Bảo
Nam xài Tui, Bắc lại xưng Tôi
Nam hô Qua, Bắc nhỏ nhẹ Anh
Nam thấy Hên, Bắc thời May Quá
Nam Mắc Cười, Bắc bảo Buồn Cười
Nam chê Mắc, Bắc thì bảo Đắt
Nam nói Ưng Ghê, Bắc nói Hài Lòng
Nam Thây Kệ, Bắc thì Mặc Kệ
Nam thưa Tía Má, Bắc bẩm Thầy U
Bắc gọi thích ghê, Nam kêu là khoái
Nam kêu Hái Bắp, Bắc bảo vặt Ngô
Bắc thích cứ vồ, Nam ưng là chụp
Nam rờ Bông Bụp, Bắc vuốt Tường Vi
Nam nói: mày đi ! Bắc rên: cút xéo.
Bắc bảo: cứ véo ! Nam: ngắt nó đi.
Bắc gửi phong bì, bao thơ Nam gói
Nam kêu: muốn ói, Bắc bảo: buồn nôn!
Bắc nói tiền đồn, Nam kêu chòi gác
Bắc nói khoác lác, Nam bảo xạo ke
Mưa đến Nam che, gió ngang BFc chắn
Bắc khen giỏi mắng, Nam nói chửi hay.
Bắc nấu thịt cầy, Nam chê thịt chó.
Bắc vén búi tó, Nam bới tóc lên
Anh Cả Bắc quên, anh Hai Nam lú
Nam: ăn đi chú, Bắc: mời anh xơi!
Bắc mới tập bơi, Nam thời đi lội
Bắc đi phó hội, Nam tới chia vui
Bắc kéo xe lôi, xích lô Nam đạp
Bắc bảo Cao to, Nam cho là lớn
Ðùa mà không thật, Bắc bảo là điêu
Giỡn hớt đã nhiều, Nam kêu là xạo
Nam thời mập bạo, Bắc bảo béo ghê
Bắc bảo Sướng Phê, Năm rên Đã Quá!
Bắc hay đi phá, Bắc đả bằng gươm
Nam chọc bị lườm, kiếm Nam, Nam thọt
Bắc ngồi Bia Bọt, Nam nhậu La-De
Bắc Bùi Bùi lạc rang, Nam Thơm Thơm đậu phụng
Nam tròm trèm ăn vụng, Bắc len lén ăn vèn
Nam toe toét "hổng chịu đèn", Bắc vặn mình "em chả"
Bắc giấm chua "cái ả", Nam bặm trợn "con kia"
Nam chửi "tên cà chua", Bắc rủa "đồ phải gió"
Nam nhậu nhẹt thit chó, Bắc đánh chén cầy tơ
Bắc vờ vịt lá mơ, Nam thẳng thừng lá thúi địt
Bắc gọi cái rèm, Nam kêu cái màn
Bắc gọi cái màn, Nam kêu cái mùng
Bắc bảo đắp chăn, Nam biểu đắp mền
Bắc gọi cái môi, Nam kêu cái vá
Bắc gọi là nem Nam kêu thịt nướng
Bắc gọi là ruốc Nam kêu thịt chà bông
Bắc gọi là ninh Nam kêu là hầm
Bắc gọi con lợn, Nam kêu con heo
Bắc xuýt xoa "Cái Lan đẹp cực!", Nam trầm trồ "Con Lan đẹp dễ sợ!"
*Còn có khác biệt giữa Nam & Nữ:
Thật ra khác biệt cũng không nhiều. Sơ sơ cũng chỉ bây nhiêu, đây:
Để quý vị hiểu được phụ nữ nhiều hơn, dưới đây là ý 9 câu nói, mà quý vị “liền bà” thường dùng:
1)”Được”: là câu mà “liền bà” họ hay dùng để chấm dứt cuộc đấu khẩu mà họ nghĩ là họ có lý, và “liền ông” các anh phải “câm miệng đi!”
2) “chỉ 5 phút thôi”: Nếu vị “liền bà” ấy đang mặc quần áo, thì “chỉ 5 phút thôi” có nghĩa là nửa giờ. 5 phút chỉ là 5 phút nếu “liền ông” các chỉ được cho phép coi đá banh trên truyền hình, trước khi tắt máy lo công chuyện, như dọn dẹp nhà cửa, chùi cọ nhà tắm.
3) Không có gì: Đây là lúc biển lặng yên như tờ, trước khi giông tố bão bùng xảy đến. Điều này có nghĩa là cái gì đó sắp xảy đến, mà “liền ông” các anh lo mà chuẩn bị đứng vững. Có thể là môt tranh cãi to tiếng mà đoạn kết không có gì để vui.
4) Cứ thế mà làm: Đây là thách thức, chứ không phải chuyện cho phép. Đừng tưởng bở, nghe lời là chết đấy.
5) Thở dài to tiếng: Thực ra, ở đây bạn không nghe thấy tiếng. Đây chỉ là một tuyên ngôn không thành lời, mà phần đông bọn đàn ông thường không hiểu. Thở dài to tiếng có nghĩa: nàng nghĩ anh là tên ngu xuẩn và nàng tự hỏi sao mình lại phung phí thời gian đứng ở đây mà cãi vã với anh về những chuyện không đâu vào đâu, rất mất giờ. (x câu 3 để hiểu thêm ý nghĩa “không đâu vào đâu”)
6) Thôi được rồi! Đây là một trong những tuyên ngôn nguy hiểm nhất chưa từng thấy ở “liền bà”, nhất là tuyên ngôn lại chĩa về phía “liền ông”. Thôi được rồi! có nghĩa: nàng cần suy nghĩ lâu hơn và chín chắn hơn trưóc khi quyết định rằng làm sao và khi nào thì “liền ông” các anh sẽ trả giá cho những sai lầm mình mắc phải.
7) Cảm ơn! : Khi người đàn bà nói tiếng Cảm ơn với anh, đừng gạn hỏi, hoặc té xỉu. Chỉ nên nói: không có chi! (Xin mở ngoặc ở đây: chuyện này có thực đấy, trừ phi nàng nói “Cảm ơn anh/bạn rất nhiều” tức ĐƠN THUẦN chỉ là lời mai mỉa, và thật ra nàng chẳng có cảm ơn anh gì hết. CHỚ NÓI “không có chi’ khi nàng cảm ơn rất nhiều, bởi khi đó sẽ khiến nàng hét lên tiếng “bất cứ thứ gì, là thứ tiếng Đan mạch, để chửi thề.
8)bất cứ thứ gì: là cách thức người “liền bà” nổi nóng, nói tiếng Đan Mạch đấy.
9)Thôi không sao, để tôi lo: đây lại là tuyên ngôn rất nguy hiểm, nữa. Có nghĩa: đây là chuyện người đàn bà biểu người đàn ông làm, đã nhiều lần. Nhưng bây giờ, quyết định chính mình làm lấy. Để sau đó, đi đến kết cuộc là: người đàn ông sẽ kêu lên: có gì là sai trái đâu? Và, kết cuộc lại bắt người đàn bà nói câu “Không có gì” (ở số 3).
*Hà nội mùa này … toàn sông với nước;
Dân Gầy vừa nhận được một bài thơ, nhái lại bài hát “Em ơi Hà Nội phố” có những tình tiết như sau:
Em ơi, Hà Nội phố…
Ta còn em vì kẹt xe
Ta còn em vì nước lũ.
Con đường vắng ào ào cơn mưa đổ
Em đứng chờ ai, đến sủa xe giùm…(Quê Choa)
Hà Nội mùa này chiều không buông nắng
Phố vắng nghiêng nghiêng vài phao bơi,
Quán cóc liêu xiêu một ca-nô
Hồ Tây, hồ Tây mất bờ…
Thơ và nhạc về Hà Nội, là như thế.
Thế còn thơ và văn người nhà Đạo thì ra sao?
Vâng. Thơ và thư của người nhà Đạo Sydney, là Chi Hội Trưởng NguyễnDuyLâm, thì như ri:
Kính gửi anh em gia đình An Phong Sydney và các nơi,
Cách nay ít hôm, cha Giám Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam là Lm Vinvent Phạm Trung Thành có gửi cho anh Trần Ngọc Tá (còn gọi là Mai Tá), tức Chi Hội Phó Sydney, một điện thư ngắn, nhắn nhủ với anh em chúng ta về chương trình trùng tu xây dựng lại Nhà Sách Đức Mẹ. Đây là một trong các nguồn thu nhập chính cho Tỉnh Dòng Việt Nam. Công tác này đang trên đường kết thúc vào trung tuần hoặc cuối tháng 12/2008. Hiện thời, Tỉnh Dòng VN đang gặp một vài trở ngại và khó khăn về tài chánh. Vì thế, cha Giám Tỉnh đã kêu gọi anh chị em trong gia đình An Phong ở Sydney hải ngoại phụ giúp chút ít bằng cách ủng hộ và phổ biến cuốn biên khảo mới in xong của cha Rock Nguyễn Tự Do có đầu đề là “Hành Hương Công Giáo”.
Vậy anh chị em nào có lòng nhớ đến nhà Dòng và muốn phụ giúp Tỉnh Dòng Việt Nam đôi chút, xin liên lạc với anh Trần Ngọc Tá để đặt mua, khi sách đến Úc. Địa chỉ điện thư của anh Tá như sau:
hoặc xin liên lạc bằng đường bưu điện, nếu anh chị nào không dùng hệ thống điện thư email.
Đại diện cho anh em trong Gia đình An Phong ở Sydney, xin có lời kêu gọi.
Nguyễn Duy Lâm
Chi Hội Trưởng Sydney.
Và thư đi thư lại giữa Lm Giám Tỉnh DCCT VN và anh chị MaiTá, thì cũng như ri:
14.11.08
Anh Thành thân mến,
Như đã viết trong thư trước, bọn tôi dự định sẽ ứng tiền 100 cuốn sách của cha Rock Nguyễn Tự Do, cho anh vào ngày mai Thứ Bẩy 15/11 vào khoảng buổi chiều. Trong số tiền ứng này, anh Nguyễn Duy Lâm đương kim Chi Hội Trưởng (địa chỉ email là lam.nguyen@au.unisys.com) là $1000 đô. Và, số tiền ngày mai bọn tôi gửi là $3,500 đô.
Vậy xin anh cho biết là: anh có mặt ở Kỳ Đồng vào chiều mai hay không? Nếu không, có thể trao cho anh Cao Đình Trị được không? Anh em muốn tiền đô Úc hay tiền Việt? Bên này, họ không chịu giao tiền Mỹ, nên bọn tôi phải qui thành tiền Úc vậy. Hiện giờ, có vài thân hữu trong gia đình An Phong ở Sydney đã và sẽ ủng hộ nhà Dòng được $600 Úc rồi. Hy vọng tổng cộng số tiền ủng hộ này sẽ lên thêm, dù sách của cha Do chưa về tới.
Anh Thành chúc lành và cầu nguyện cho các thân hữu này, nhé.
Và thư hồi âm từ cha Giám Tỉnh:
Thứ Bẩy 15/11/2008
Anh Tá thân mến.
Em vừa về từ Pleiku, những ngày ở đây em không có phương tiện để liên lạc, sáng nay em đã nhận được $3,500 AUD, cám ơn anh và gởi lời cám ơn tất cả ân nhân
Ngày mai em phải ra Hà nội, ra đó em sẽ viết thư thăm anh, còn nợ một tâm sự.
Cầu nguyện cho nhau.
Phạm trung Thành, dcct
Và thêm một thư tâm tình, từ anh MaiTá:
Anh Thành thân mến,
Tôi biết anh em bên nhà rất bận, nên mới hỏi trước. Dù sao, công việc cũng đã hoàn thành. Xin cảm ơn anh Thành đã hồi âm, cho tụi này yên tâm. Trong số tiền ứng trước này, tôi đã được sự ủng hộ của anh em như sau, dù sách chưa về:
hai bác Trần trọng Luật: $150
Anh chị cựu đệ tử Trần Trọng Dũng (lớp Les Gabriels): $200
Em gái của anh Dũng : $50. Tổng cộng gia đình
bác Luật ủng hộ $400.
Anh Tôma Nguyễn Văn Quý:$20
Còn 2 hoặc 3 người nữa đã hứa ủng hộ, nhưng tôi chưa nhận được.
Khi nào nhận được sách hoặc tiền ủng hộ của ai, tôi sẽ viết email cho anh em biết ngay.
Anh Thành chúc lành và cầu nguyện cho các vị đã ủng hộ, nhé.
MaiTá
Và một thư khác, từ Lm Phạm trung Thành,dcct:
Anh Tá thân mến,
Vừa đọc bài "trái tim ngục tù" của anh, bây giờ nó như vậy đấy, những phiêu bồng bay bổng trong khung trời yêu thương không còn nữa, người ta "dạy" làm ngục tù của nhau ! Ca từ của XHCN như vậy đấy, mang đầy tinh "giáo dục", buồn thay.
Phạm Trung Thành, dcct
16/11/2008
*Tin buồn từ Phụ tỉnh hải ngoại:
Cùng ngày 16/11/08, DânGầy nhận được điện thư từ người anh em trong Gia đình An Phong, ở Mỹ:
“Xin thông báo cùng Quí Cha , quí anh chị cựu đệ tử và thân hữu:
Lm Gioan baotixita Vũ Minh Nghiễm, CssR đã được Chúa gọi về hồi 7:15 tối ngày Thứ Bẩy 15/11/2008 tại tu viện DCCT Baldwin Park, California. Thánh lễ An táng sẽ được cử hành vào 10:00AM sáng Thứ Bẩy 22/11/2008 tại thánh đường St Christopher Church, California. Sẽ bổ túc thêm, nếu có thay đổi.
Cha Vũ Minh Nghiễm, sinh ngày 1 tháng 7, 1919; chịu chức linh mục ngày 22/9/1951. Cha cùng lớp với quí cha Giuse Nguyễn Thế Thuấn, Giuse Lê Quang Phụng, cha Giacôbê nguyễn Hữu Sơn, cha Felix Lê Bích Lang…, và các anh Trần Văn Huy, Lê Văn Phó, nguyễn Quang Cẩn, Nguyễn Duy Miên, Lê Xuân Hồng, Phãm Văn Hưởng, Nguyễn Văn Phúc, August Lộc, anh Thăng (cựu Đại Biểu Miền Trung).
Xin hợp ý cầu nguyện cho linh hồn Cha Gioan Baotixita sớm được hưởng nhan Chúa.
Lợi Vũ
Cựu Đệ tử
Người Con Dâu của Nước Mỹ
Tác giả, theo sau, nhờ bức tường đá đen ghi danh 58,000 tử sĩ trong chiến tranh Việt Nam, ông bà nội người Mỹ tìm thấy nàng dâu và đứa cháu nội chưa từng biết mặt. Mong tác giả sẽ tiếp tục viết.
***
Tháng tư thường cho tôi nhiều nỗi buồn và nhớ. Buồn vì từ đó ta làm thân mất nước không nhà và nhớ vì trước đó có quá nhiều kỷ niệm không bao giờ còn tìm lại được.
Giữa lúc lòng tôi đang chơi vơi thì chị bạn rủ theo đoàn nguời về thủ đô Hoa thịnh Đốn để coi hoa Anh Đào nở và nhất là đi thăm bức tường đá đen, ghi lại tên tuổi của hơn năm mươi tám tử sĩ Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, đã bỏ mình để bảo vệ tự do của miền Nam xưa. Với tôi đó là một dịp may đến thật tình cờ.
Tôi vẫn thường nghe nói về vườn hoa Anh Đào mà vương quốc Nhật tặng cho nhân dân Mỹ khi xưa ở thủ đô, đang khoe sắc mỗi độ xuân về. Thật như thỏa tấm lòng vì cả hai, được nhìn những cành hoa mà cả một thời tuổi trẻ ước mơ và đến tận nơi bức tường đá đen để tìm tên một người đã là điều tôi mong muốn từ lâu. Thế nên tôi thu xếp hành trang vôi vã đi ngay.
Hơn hai mươi bốn giờ ngồi trên xe theo nhóm người du ngoạn đã đưa tôi từ miền Texas xa xôi về tới thủ đô.
Con đương Ohio chạy dọc theo bờ sông Potomac hoa Anh đào đã nở rực rỡ một màu hồng phơn phớt trắng. Hơi lạnh đầy trong không khí của một mùa đông dài còn sót lại, vương qua mùa xuân, đọng trên những cánh hoa dọc theo con đường Constitution dẫn đến bức tường đá đen nằm kia, trầm mặc u buồn.
Tháng Tư, hoa đã nở từ lâu. Xác hoa rơi lả tả làm hồng cả một khỏang không gian quanh những con đường chạy dọc theo công viên. Hoa Anh Đào thật đây rồi, những cánh hoa mà tươi xinh ngày xưa tôi chỉ được nhìn thấy trong phim ảnh rồi thầm cảm mến những kiếm sĩ của xứ Phù tang, cô đơn vung đường gươm, để hoa rơi trong tuyết lạnh, thì hôm nay đang rực rỡ khoe sắc trước mắt tôi đây.
Tôi tách ra khỏi nhóm người đi bộ một mình dưới những tàn cây. Tôi vẫn thích đưọc đi một mình để nhớ về những ngày tháng đã dần qua.
Ngày xưa chưa mất miền Nam gia đình tôi đã có một cuộc sống ấm êm hạnh phúc. Chồng tôi, một người lính trận, mỗi lần về phép thường hay cùng đi với một quân nhân Mỹ, cố vấn trong đơn vị. Hai người cùng làm việc, cùng chung sở thích và ý nguyện nên rất thân nhau.
Thuở ấy tôi không biết nhiều về đất Mỹ như bây giờ nhưng qua lời anh diễn tả, cũng đủ hiểu rằng người lính Mỹ ấy đến từ một vùng quê xa xôi miền trung bắc Hoa Kỳ. Ngoài cái vẻ bên ngoài rất tài tử, râu ria xồm xoàm vì những ngày tháng lăn lóc trong chiến trận chưa kịp cắt tiả thì Mike Wright thật nhân hậu và hiền lành. Tôi cũng ngạc nhiên với tấm lòng rộng lượng hồn nhiên của nguời Mỹ. Họ đã mang biết bao nhiêu tài sản, cả sinh mạng khi đến giúp đất nước tôi, hòa nhập vào đời sống người dân bản xứ, tươi vui trong cuộc sống. Bởi thế , anh chàng râu tia xồm xoàm Mike chiếm được cảm tình của gia đình, nhất là bà chị lớn chưa chồng của chúng tôi ngay. Chuyện tình của một người lính viễn chinh từ một đất nước xa xôi với người con gái Việt Nam còn nguyên nền nếp gia phong diễn ra thật êm đềm hạnh phúc với một đám cưới đậm chất phương Đông. Chị tôi khăn đóng , áo dài bên cạnh anh Mike cũng áo dài khăn đóng. Trông họ cũng thật vừa đôi.
Từ đó tôi không còn cô đơn trông ngóng hằng đêm mà có cả chị tôi là kẻ đồng tình, đồng cảnh. Chúng tôi đã có những ngày đợi chờ trong lo lắng, đã có những ngày đoàn viên trong hạnh phúc. Những tháng tươi vui của một thời son trẻ tưởng như không bao giờ dứt cho đến một ngày kia.
Tôi không quên được cái ngày người chỉ huy hậu cứ tiểu đoàn đích thân đến báo cho tôi biết là chồng tôi và đơn vị của chàng không về nữa. Cả người cố vấn Mỹ dễ thương đang là anh rể của tôi cũng cùng chung số phận. Một đơn vị oai hùng, thiện chiến, tưởng như là không bao giờ thua trận đã nằm lại đâu đó trên vùng đất Hạ Lào của mùa hè khói lửa. Tôi và người chị, ngày ấy thực sự bị cuốn vào những cơn ác mộng, nhất là khi chị tôi biết được rằng mình vừa khó ở, chưa thông báo cho Mike biết về đứa con vừa thành hình trong bụng chị.
Về sau khi miền Nam lọt vào tay phương Bắc là một quãng đời địa ngục trần gian đến với chúng tôi. Nhất là chị với đứa con lai đã hứng chịu trăm đắng ngàn cay bởi vì sự dè bỉu, khinh khi cũng như phân biệt đối xử của người cai trị mới. Chị tôi bị hành hạ, bị lăng nhục , bị đe dọa đưa vào cái trại gọi là phục hồi nhân phẩm mà thực hcất là tước đoạt hết nhân phẩm con người. Chịu đựng bao nhiêu đắng cay khổ sở nhưng chị tôi vẫn cắn răng làm việc nuôi dạy con khôn lớn nên nguời. Có một điều làm tôi lạ lùng là tình yêu của chị dành cho anh hơn hẳn những thường tình. Chị luôn nhắc tới anh với những lời yêu thương trang trọng, với sự bùi ngùi thương tiếc của một người góa phụ tưởng nhớ thương chồng.
Chị không đòi hỏi gì ở anh cũng như đất nước anh. Khi chương trình tái định cư những người con lai bắt đầu tôi cũng tưởng chị vui suớng lắm. Nhưng không,chị từ chối ra đi chỉ bởi vì còn nặng lòng với mảnh đất được sinh ra và đứa cháu tôi cũng vui vẻ vâng theo lời mẹ.
Tôi không giống, và cũng không chịu đựng được như chị. Tôi chọn ra đi để đưa các con tôi về với tự do. Khi con thuyền mong manh đưa chúng tôi ra biển, tôi đã thầm cầu nguyện ơn trên cho chúng tôi vượt sóng đươc bình an. Tôi đã chọn tự do hay là chết và chân thành cầu xin đó là một sự chọn lựa đúng đắn và may mắn nhất trong đời..
..Cứ mải suy nghĩ và đi theo con đường hoa, tôi đến trước bức tường đá đen tự bao giờ. Con đường dần xuống thấp để những dòng tên trắng hiện ra. Một cặp vợ chồng người Mỹ trắng đã già lắm, run rẩy dắt tay nhau bước lên bực thang. Mắt người đàn bà còn ướt đỏ. Tôi đóan rằng bà ta vừa mới khóc. Gặp nhau trên bực thang đầu tiên, tôi vui vẻ chào hai người rồi hỏi lớn.
-Ông bà từ đâu tới.
-Chúng tôi từ Ohio, còn cô.
- Thưa ông bà tôi từ Texas.
Người đàn ông râu dài nhưng cắt tỉa gọn gàng, dáng vẻ hiền từ thân thiện. Ông ta mỉm cưởi hỏi lại.
-Tôi muốn hỏi cô người nước nào. Phi,Tàu, Nhật hay Thái lan.
-Thưa ông tôi là người Việt Nam.
Bỗng nhiên tôi thấy gương bặt người đàn bà dường như đổi sắc. Hình như một sự giận dữ bất ngờ chợt làm bà ta vùng vằng cố bước lên bậc thang ngắn tiến về phía trước. Tôi ngạc nhiên nhìn ông già chờ đợi một lời giải thích về cử chỉ bất thường của bà. Chắc có một điều gì không ổn vì tôi biết đa số người Mỹ thường lịch sự, ít ai bày tỏ ngay những điều khó chịu trong lòng. Như đóan được ý nghĩ của tôi ông buồn rầu giải thích.
-Cô đừng buồn với thái độ của vợ tôi. Bà ấy đang buồn rầu. Chúng tôi mất đứa con trai duy nhất ở Việt Nam, nên mỗi khi thấy người Việt Nam vợ tôi lại xúc động, không ngăn được cảm xúc nên có những cử chỉ bất thường.Tôi nhìn bà già đã ngồi xuống chiếc ghế đá bên lối đi, đang run rẩy cố chống hai tay lên đùi, mắt vô hồn nhìn vào quãng không gian phía trước. Nếu tôi mất con cho một cái xứ xở xa lạ nào chắc gì tôi còn giữ được bình tĩnh như bà. Lòng tôi rạt rào niềm thương xót để nói với ông rằng tôi thông cảm tâm tình của những bà mẹ mất con cho một dân tộc họ không hề mảy may biết tới. Trong lúc xúc động tôi cũng nói với ông là chính tôi và gia đình tôi cũng mất mát rất nhiều trong cuộc chiến phi lý đó. Và đau đớn hơn thế nữa, chúng tôi đã mất cả quê hương, tổ quốc.
Ông già Mỹ luôn luôn lập đi lập lại rằng tôi biết chúng tôi biết, rồi xin phép tôi chạy đến săn sóc cho bà đã ngồi xuồng ghế đá cách đó không xa lắm. Ông nói lớn, chào từ giã khi tôi đi lần xuống phía dưới để dò tìm những hàng chữ mang tên người anh rể ngoại chủng năm xưa đã nằm xuống ở Việt Nam
Tôi biết vần W sẽ nằm ở hàng cuối cùng nhưng cũng mất một lúc lâu mới tìm thấy cái tên Mikes Wright, tên người anh rể tôi năm kia, khiêm nhừơng giữa tên của bao nhiêu người. Nhỏ bé và đơn giản trong một không gian bao la, nhưng thật hào hùng độ lượng như cuộc đời anh và đất nước đang cưu mang chúng tôi đây.
Tôi lặng chìm trong những giấc mơ xưa về một gia đình hạnh phúc mà nhớ đến chồng tôi. Tên của Mikes người ta còn nhớ chứ tên của chồng tôi kẻ thù đã xóa đi. Ngay cả miếng đất nhỏ bé mà chồng tôi an nghỉ người ta cũng đang toan tính cướp mất của anh. Tôi nhớ đến nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Nhớ đến giây phút vật vã khóc lóc nhìn anh được gắn lon giữa hai hàng nến . Nhớ đến những khuôn mặt lầm lỳ, chai sạn vì gió bụi của những nguời lính bồng súng chào chồng tôi lần cuối khi đưa chàng về với đất mẹ năm xưa.
Giữa lúc lặng yên tưởng nhớ thì mấy bà bạn tôi xuất hiện. Các bà gọi la tên tôi ơi ới, trách tôi xé lẻ tìm vui một mình. Cả bọn trầm trồ, chỉ trỏ reo vui với những cái tên lạ, nói cười vui vẻ như không cần biết gì về những niềm đau. Ôi nhân thế thường mau quên để sống, chỉ có mình tôi hay đi ngược thời gian về những dòng sông cũ.
Chúng tôi lại rủ nhau đi thăm viện bảo tàng không gian gần đó. Một đoàn người vừa đi vừa cười, vừa hỏi thăm đường rộn vui lên góc phố. Ở đây người ta quen mắt với những cái lố lăng của du khách từ khắp mọi miền trên thế giới nên chẳng thấy phiền hà.
Đến trưa lúc sắp ra về tôi lại gặp cặp vợ chồng người Mỹ ban sáng. Lạ một điều là tôi thấy ông già có nét gì rất quen. Lần này bà có vẻ vui hơn, mỉm cười khi tôi chào gặp lại. Chắc ông đã giải thích cho bà biết rằng ai cũng có những nỗi buồn, những mất mát khác nhau chứ không phải riêng bà. Chúng tôi đứng ngoài hành lang nói chuyện. Ông bà cho tôi biết sẽ về lại Ohio chiều mai, một nông trại xa xôi nằm sát biên giới tiểu bang Indiana. Ông nói thế nhưng tôi chẳng hình dung được gì ngoài những con số mà tôi đoán rằng đất đai chắc là rộng lớn. Tôi cũng cho ông biết chúng tôi còn ở đây thêm vài ngày, đi thăm một vài nơi nữa rồi chào từ giã theo dòng người thăm viếng.
Buổi sáng hôm sau tôi có thói quen thức dậy thật sớm trong lúc mọi người còn say trong giấc ngủ. Tôi mở cửa bước ra ngoài, đi bộ theo con đường Ohio dọc theo bờ sông, rồi tình cờ bước dần về phía bức tường đá đen. Trời còn sớm quá nhưng tôi thấy dưới chân bức tường thấp thoáng bóng ngươi. Bước tới gần hơn tôi bất ngờ nhận ra ông bà già Mỹ hôm qua đang ở đó tự bao giờ. Bà ngôi hẳn xuống đưa tay sờ lên những hàng tên như vuốt ve một vật gì quý giá. Gặp lại nhau tôi lên tiếng.
-Chào ông bà. Ông bà ra đây sớm quá. Tôi cứ tưởng chỉ mình tôi đi bộ trong khu này..
Ông ôn tồn giải thích.
-Chiều nay chúng tôi trở về lại Ohio rồi nên thu xếp thời gian thăm lại nơi đây lần nữa.
Bà vẫn không nói, đưa tay sờ lên phiến đá. Tôi chắc bà thương yêu người con và đau đớn lắm khi nhìn lên hàng chữ có tên con mình. Mắt tôi tò mò nhìn theo và ngạc nhiên thấy tay bà đang đặt trên hàng chữ của vần W. Như có một linh tính báo trước chuyện lạ lùng tôi buột miệng hỏi ông.
- - Con trai của ông bà tên là gì nhỉ. Anh ấy mất ở Việt nam năm nào?
- - Con trai tôi tên là Mikes Wright, Tử trận ở Việt năm năm 1972. Tên nó đây, ngay đây này.
Vừa nói ông vừa chỉ về phía tay bà đang xoa xoa che khuất cái tên mà trước đây tôi đã đặt tay vào. Chính đó là tên anh rể của tôi. Cha của đứa cháu mồ côi mà chị tôi yêu quý như báu vật của cuộc đời mình.
Tôi đứng lặng người nhìn ông rồi lại nhìn bà. Sao cuộc đời lại có sự tình cờ kỳ diệu đến thế này. Để chắc chắn mình không nằm mơ tôi hỏi lại những chi tiết rất chung chung mà tôi còn nhớ về anh.
- Anh Mikes của ông bà rất nhiều râu và vui tính lắm phải không.
-Cô nói gì tôi không hiểu. Dĩ nhiên ngày ấy Mkes còn trẻ lắm nên râu ria mọc là thường.
Tôi nhìn lại ông và mơ hồ thấy nét quen thuộc mà tôi chợt khám phá ra hôm qua là ông trông rất giống Mike ở cái cằm vuông vức và bộ râu rậm dài. Ông già bùi ngùi nói tiếp.
-Vợ tôi buồn một điều là đáng lẽ ra Mikes đã hết hạn phục vụ ở Việt nam trở về Mỹ nhưng vì yêu thương một người con gái bản xứ nên tình nguyện phục vụ thêm một thời hạn nữa và cái thời hạn đó không bao giờ chấm dứt.
- Thế ông bà có biết tin tức gì về người con gái ấy không.
-Mikes có gởi cho chúng tôi một tấm hình, thông báo là đã thành hôn. Lâu quá rồi nhưng chúng tôi còn giữ tấm hình ấy trong tập ảnh gia đình ở Ohio. Chỉ có thế mà thôi.
Tôi muốn nói với ông chính tôi là em người con gái Việt Nam ấy nhưng sợ rằng mình nhận lầm, vì biết đâu có một anh Mike nào khác nữa nên chỉ nói với ông.
-Hơn ba mươi năm trước đây tôi cũng có một người anh rể tên là Mike Wright, quê quán ở miền trung bắc Mỹ. Tôi chỉ biết thế không biết có phải là anh Mike con của ông bà không. Tôi từ Texas lên đây chơi nhưng chính là để nhìn thấy tên anh Mike Wright một lần trên tấm bia đá này.
Ông mở mắt nhìn tôi kinh ngạc rồi kéo bà lên, nói với bà tin tức quan trọng đó. Ông luống cuống, mời tôi ngồi xuống tấm ghế đá trong khi bà cứ há miệng ra thẫn thờ chờ đợi. Rồi ông dồn dập hỏi.
-Tôi chắc là đúng rồi. Đấy cô coi có cái tên Mikes Wright nào khác đâu. Thế chị cô bây giờ ở đâu. Tôi muốn hỏi thăm tin tức về Mikes trong những ngày cuối cùng.
-Thưa ông bà, chị tôi vẫn còn ở Việt Nam. Chắc rằng chị tôi cũng chẵng biết gì hơn ông bà. Như chính tôi đây chẳng biết gì hơn tin tức cuối cùng của chồng tôi và Mikes. Đầu tiên người ta chỉ thông báo cho chúng tôi là hai người đã mất tich sau một đợt tấn công của địch và cả tuần lễ sau mới tìm thấy xác mang về.
-Thế thì đúng như cô nói, chắc đúng là Mikes rồi. Khi chúng tôi đến nhận xác Mikes thì đã không mở ra được nữa vì những điều kiện vệ sinh.
-Nhưng tôi có một tin quan trọng về anh Mike, không biết ông bà có muốn nghe không.
-Tin gì vậy, thưa cô. Chúng tôi không còn gì trên đời này ngoài hình ảnh của Mikes và những gì liên quan đến đứa con yêu thương của chúng tôi.
- Chị tôi có một người con với anh Mikes. Chính anh Mikes cũng không biết vì lúc vừa mới có thai, chưa kịp thông báo thì anh Mikes và chồng tôi đã không về nữa.
Ông bà liên tục kêu lên những lời thống thiết, không rõ là lời đau khổ hay mừng vui.
-Chúa ơi, thật thế sao. Chúa ơi. Chúa ơi.
-Thật thế thưa ông bà. Cháu giống Mike lắm. Nếu ông bà thấy cháu là nhận ra ngay thôi.
-Thế bây giờ cháu ở đâu thưa cô.
-Cháu vẫn còn ở Viêt nam. Vì thương mẹ nên cháu không về Mỹ theo chính sách trở về quê cha của những đứa con lai.
Tôi và ông bà Wright cùng bước đi như trong cơn mơ vì sự gặp gỡ bất ngờ. Tôi cho ông bà địa chỉ, số điện thoại của tôi và nhận lại của ông bà ở Ohio để tiện bề liên lạc. Những thông tin ban đầu mặc dù đã chính xác, nhưng tôi muốn biết chắc tấm ảnh ngày xưa có phải là của chi hay không.
Chiều hôm đó ông bà Wright về lại Ohio. Tôi đoán ông bà vui vẻ lắm. Mất một đứa con cho cái xứ Việt Nam xa xôi nhưng ông bà sẽ được nhận lại một đứa cháu ngoan ngoãn và đứa con dâu còn giữ đúng truyền thống Việt Nam. Tôi biết chị tôi là
một người đàn bà Việt Nam hiền thục. Tôi đã đoán không sai vì ba hôm sau khi tôi còn ở khách sạn thì tiếng điện thoại lại reo. Lần này ông bà Wrigh theo xe trở lên, mang cả gia đình đứa con gái gồm con rể và hai đứa cháu. Họ lái một chiếc xe van lớn mang theo cả tấm ảnh ngày xưa. Gặp nhau tại công viên ông bà đưa tôi tấm ảnh và giải thích.
- Vội quá nên chúng tôi không book được vé máy bay. Vả lại Nathalie, em gái của Mikes và chồng con nó ở gần đó cũng muốn đi nên chúng tôi lái xe cho tiện.
Tấm ảnh chụp cách đây hơn ba mươi năm giờ đã ố vàng. Màu sắc phai theo thời gian nhưng vẫn còn sắc nét. Tôi cầm tấm ảnh như đưa tay chạm vào một phần quá khứ xa xăm. Trong ảnh, chị tôi người con dâu đất Mỹ, e ấp đứng bên người chồng râu tia xồm xoàm, đang đưa cánh tay khỏe mạnh ôm vòng lấy người con gái như ôm ấp chính cuộc đời cô.
-Đúng là chị tôi rồi.
-Ông bà Wriht mừng vui như mở hội.Bà như trẻ trung hẳn lên. Bao nhiêu bệnh tật gần như tan biến. Mấy người đi theo cũng lộ nét mừng vui hớn hở. Bà hỏi tôi những chuyến bay về Việt Nam với những dự định đi thăm viếng đứa cháu, con của người con tưởng như đã mất, bỗng dưng còn để lại trong cuộc đời này.
Tôi thưa với ông bà rằng tôi đã nói chuyện với chị tôi qua điện thoại. Chi cũng rất vui mừng về sự gặp gỡ này. Chị sẵn sàng cho cháu về quê nội cũng như chính chị sẵn sàng về làm dâu ông bà, chăm sóc cho ông bà trong lúc tuổi già đúng như truyền thống của người Việt nam. Tôi đã biết tình yêu của chị dành cho Mike nên không ngạc nhiên với quyết định này.
Ông bà chăm chú nghe tôi giải thích phong tục Việt nam là người vợ phải làm dâu phụng dưỡng cha mẹ chồng. Ông kêu Chúa ôi liên tục sau mỗi câu nói làm tôi có cảm tưởng như đang kể cho ông bà nghe về chuyện phong thần, nhưng tôi biết bây giờ đối với ông bà, đất trời là cả một mùa xuân.
Sau đó một thời gian dài, tôi lại bận bịu vì phải lo lắng dẫn ông bà Wrigt về lại Việt Nam. Bận bịu nhưng lòng tôi sung sướng. Tôi không dấu được xúc động khi nhìn thấy ông bà lần đầu tiên gặp lại đứa cháu nội sau hơn ba mươi năm thương nhớ người con đã khuất. Ông bà cứ kêu lên những lời vui mừng vang một góc sân và làm ngạc nhiên những nguời hàng xóm Việt Nam vốn không thiếu sự tò mò.
-Oh my God, He just looks like his father. Oh my god.
Bây giờ chị tôi, một người con gái Việt nam về làm dâu muộn màng trên đất Mỹ đang thay cha mẹ chồng cai quản một nông trại trồng bắp ở Ohio với đứa con duy nhất của một cuộc tình nở vội trong cuộc chiến Việt Nam
……………………..…………. LƯU HỒNG PHÚC
Đàn bà
ba mươi
Những năm tháng phải lòng, yêu đương, cuồng nhiệt đã trôi qua sau lưng lúc nào không nhận ra. Đàn bà ba mươi có hai cuộc sống. Một là gia đình, một là khao khát.
Gia đình tức là có nơi về, yêu thương con, chăm sóc chồng, vun vén cuộc sống ít vui nhiều lo âu. Những người phụ nữ ba mươi tất bật, bình yên và quyến rũ bởi đầy đặn, bởi từng trải, bởi thành tựu và yêu thương. Có những người quyến rũ được kẻ khác bằng cả vẻ đảm đương, an phận của mình, thật lạ.
Khao khát tức là khi đã bỏ sau lưng mười năm yêu trắng tay, đã từng tha thiết, tưởng hy sinh tất cả, tưởng sẽ trời đất dài lâu, tưởng sẽ trọn đời. Rồi tuổi ba mươi đến, càng thành đạt càng hoang mang, mình đang ở đâu, ai sẽ đến trong đời mình.
Bất hạnh cho ai bị giằng xé giữa hai cuộc sống ấy, ở trong gia đình vẫn khao khát, hoặc độc thân nhưng đầy gánh nặng.
Đôi khi tôi tự hỏi tôi là ai.
Những người đàn bà đang đi tới tuổi ba mươi thường hoảng hốt, những người đàn bà vượt qua tuổi ba mươi rồi thường bình yên.
Thì ra đàn ông cũng đã phân biệt, thứ nhan sắc họ thèm và thứ nhan sắc họ cần. Đàn ông có lẽ đã như nhau, tôi thèm có được hoa hậu, nhưng tôi cần một người đàn bà đích thực ở bên.
Vậy còn điều gì đàn bà ba mươi đã thua kém chính mình khi đôi mươi? Có lẽ đó là quyền lực thanh xuân, thứ quyền lực mà đàn bà ba mươi cố tình không muốn nhắc đến nhất.
Lúc đôi mươi tôi mặc một chiếc áo sơ mi trắng dài, thật rộng và nhảy nhót, tôi thật gợi cảm. Lúc ba mươi nếu tôi vẫn nhảy nhót trong một chiếc sơ mi dài và thủng, tôi thật lập dị và gớm ghiếc.
Lúc đôi mươi tôi có quyền không son phấn ra phố, buộc tóc đuôi gà, ngồi lơ đãng bên bờ hồ tưởng tượng những lãng mạn. Lúc ba mươi, không son phấn là một cách bất lịch sự, và bên hồ, những người đàn bà chỉ ngồi để chảy nước mắt đau đớn.
Vì năm tháng đã trôi qua lặng yên, có thứ đã đến, như thành đạt, như từng trải, như tiền. Nhưng có thứ không níu nổi, như tuổi trẻ. Đàn bà ba mươi tối kỵ ngồi một mình, nghĩ một mình, làm một mình, và sống quạnh hiu.
Đàn bà ba mươi không yêu nổi người đã tha thiết yêu khi mười tám. Lại khao khát kết hôn với người chồng mà khi mười tám có đánh chết cũng không muốn lấy. Có người bảo, đó là bởi đàn bà đã thực tế hơn thiếu nữ, hiểu mình muốn gì. Tôi thì cho rằng đó là bởi người đàn bà ba mươi đã nếm đủ những đòn đau của cuộc sống, trong tình yêu và hôn nhân, họ sợ tương lai nhưng họ còn sợ quá khứ hơn!
Sách nói đàn bà ba mươi chỉ mơ hai thứ, chưa chồng thì mơ yêu đương nhiều hơn, có chồng thì mơ tiền nhiều hơn. Đàn bà ba mươi chỉ có yêu và tiền. Báo chí dành cho tuổi ba mươi thường là tạp chí tiêu dùng thời thượng hoặc mục tâm sự tình duyên éo le. Để đàn bà ba mươi tiêu những lo âu vào đó.
Chúng ta giống nhau không phải bởi cùng bước qua ngưỡng cửa ba mươi, mà bởi đã chọn được cách dung hoà với cuộc sống. Ba mươi là lúc chấp nhận những thay đổi mà cuộc đời dành cho ta, không kháng cự, chỉ uyển chuyển lợi dụng để những đổi thay cuộc đời biến thành động lực để ta đi tới.
Tôi nghĩ người đàn bà ba mươi có năng lực hay không, chỉ phân biệt bởi điểm đó, bởi lúc vượt qua trắc trở khó khăn. Chứ không phải những người phụ nữ có xe đẹp nhà đẹp, chồng đẹp con cũng đẹp là người có năng lực, chỉ nên gọi họ là người phụ nữ may mắn mà thôi.
Đàn bà ba mươi đã thoát ra được những viển vông tuổi đôi mươi. Họ không cần lãng mạn, một sự ấm áp, một khoảnh khắc đẹp, mà mong muốn sở hữu, muốn có con, có người tình, những điều có thật trong đời. Mơ ước của tuổi ba mươi đã thật hơn, đã không còn chỉ là mơ ước.
Đi qua ba mươi
Có thể nghĩ một buổi chiều mưa đổ của năm đi qua ba mươi, như hôm nay, là một thời điểm không, khi cảm thấy điều gì làm tôi mạnh mẽ thì chính nó đã làm tôi yếu đuối. Khi không còn quyền quyết định tương lai của mình nữa, mà chỉ còn chờ đợi một may mắn nào đó cho tôi quyền được nói.
Có phải tình yêu, sự phải lòng là đặc quyền của thanh xuân, và nó quá xa xỉ với những người phụ nữ đã quá ba mươi?
Nếu lúc đó tôi dừng lại, hoà vào đám đông, ở lại với say mê đấy, cuộc đời tôi rồi sẽ ra sao? Lần đầu tiên tôi nhận ra những tình cảm gì làm cho cô thiếu nữ hạnh phúc thì lại làm cho người đàn bà đau đớn. Và thời gian đã cướp đi của người đàn bà không phải là nhan sắc, thời gian, mà là trái tim mở cửa. Có những cánh cửa đã lần lượt đóng lại trong đời đàn bà, cho dù người đàn bà khăng khăng, vẫn tự tin và luôn duyên dáng.
Là cánh cửa cổ tích tuổi lên mười, là cánh cửa băn khoăn tuổi dậy thì, hay là cánh cửa mơ mộng khép lại sau mối tình đầu tuổi mười bảy với nước mắt lẳng lặng trong đêm sao?
Là cánh cửa vào khu vườn hạnh phúc người nào đã vĩnh viễn khoá lại trong khi người phụ nữ vẫn còn mong chờ ở bên này cửa. Lúc thấy người mình yêu đi khỏi đời mình, tưởng sẽ còn có ngày gặp lại. Mà phải đến cuối đời mới biết, những năm tháng đó đã thực sự khép lại sau phút chia tay sau cùng, mãi mãi không bao giờ gặp lại người mình đã yêu, cho dù người đàn bà sẽ đi tiếp bao nhiêu dặm đường xa, mong mỏi.
Tôi tin nếu tôi hai mươi, tôi đã đứng lại trong đêm đó, ngắm lâu hơn gương mặt làm tôi yêu thương bất chợt, mở cửa đời mình cho một lần yêu thương, dù được đáp hay không cũng vô cùng đẹp đẽ hạnh phúc. Bởi lúc đó hai mươi, có quyền theo đuổi, có quyền cởi lòng ra trước tình yêu.
Vậy tại sao ba mươi vẫn phải lòng đôi mươi? Vẫn chỉ yêu được tuổi trẻ, trong khi đã bay qua thời thiếu nữ từ năm nào? Hay cuộc đời chơi xỏ chúng ta, bắt ta già đi nhưng bắt tình yêu đứng lại ở tuổi đôi mươi. Bắt ta mãi mãi phải lòng tuổi trẻ, một người bạn trai cầm ghi ta hát giữa sân trường.
Cay đắng khi thấy trước khi ta năm mươi, và khóc vì phải lòng một cậu bé.
Có người nói, cuộc đời đàn bà gọi là hoàn hảo nếu có được ba người đàn ông. Lúc đôi mươi yêu người đàn ông ba mươi, được yêu, được bảo bọc, được chiều, được khám phá cuộc sống. Lúc ba mươi tốt nhất là có được người con trai hai mươi. Đàn bà học lại cách theo đuổi, cách chinh phục, và cách hưởng thụ cuộc sống với tình yêu. Và khi đàn bà năm mươi, tốt nhất có được người đàn ông năm mươi, để cùng bầu bạn sớm chiều, đến đầu bạc răng long.
Không cần đàn bà, đàn ông vẫn khẳng định được bản lĩnh.
Ngược lại, quá tốn đàn ông để đàn bà nhận ra được mình.
Khi ta không còn trẻ, những thứ ta được và những thứ ta mất ngày càng trừu tượng hơn. Những người đàn ông dù già cũng vẫn luôn có người tình trẻ hơn đứng chờ đâu đó trước mặt, phụ nữ thì không, không ai chờ phụ nữ già.
Đến lúc đã bay qua thời thiếu nữ, mới biết đã bỏ lỡ cơ hội hôn những người yêu quý, những tình đáng quý, và giờ đây, ngay cả nụ hôn cũng đã trở nên hiếm hoi.
Và nhìn nhau ngỡ ngàng khi hiểu ra sự thật ấy không phải là thời gian xa cách, không phải tình cảm chia cách, không phải công việc bề bộn, mà là tuổi tác đã khiến chúng ta quên hôn.
Và tôi ao ước người con trai không phải hôn tôi giờ đây tuổi ba mươi ba, mà là hôn cô gái ngày xưa lần đầu gặp, ở ngã rẽ, nhìn thấy nhau lần đầu tiên, mở lòng ra cho một tình yêu mới đến, trong cái nhìn tin cậy.
Dù tôi đã bay qua thời thiếu nữ lâu rồi.
Trang Hạ
Người Bán Sách Trên Bãi Biển Nha-Trang
Tôi trở về thăm quê hương sau hơn mười lăm năm, kể từ ngày vượt biển ra đi. Tôi quyết định điều này qua bao nhiêu đêm ưu tư trằn trọc. Tôi chẳng còn ai thân quen bên ấy để về thăm. Mẹ tôi mất hồi tôi mới lên ba. Cha tôi chết cuối năm 1976 trong trại tù cải tạo Đá Bàn, khi tôi đang ở một trại tù khác tận núi rừng Việt Bắc và mãi năm năm sau tôi mới nhận được tin buồn. Đứa em gái mà tôi thương quí nhất, mang hình ảnh của người mẹ mà tôi chỉ còn mơ hồ trong ký ức, cũng đã kết liễu cuộc đời ở cái tuổi tưởng chừng lúc nào cũng có cả một bầu trời xanh bao la trước mặt. Còn bạn bè tôi, thằng chết, đứa ra đi, gởi thân khắp bốn phương trời. Biết là lần trở về này, rồi cũng chẳng khác gì cái ngày cách đây mười sáu năm, từ một trại tù miền Bắc trở về, tôi bơ vơ lạc lõng trên chính nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Tôi cũng không có ý định về đây để tìm lại những kỷ niệm ngày xưa. Những “hang động tuổi thơ” chắc cũng đã biến mất trước bao nhiêu dông tố năm nào bất ngờ ụp xuống. Bây giờ chỉ còn sót lại chút ít trong lòng những người tha phương lưu lạc. Bản thân tôi có quá nhiều đớn đau và mất mát ngay trên chính cái thành phố một thời xinh đẹp này. Tôi sợ phải nhìn lại cái quá khứ hãi hùng và tang thương đó. Tôi về chỉ để làm một điều, mà nếu không làm được, lòng tôi sẽ ray rứt khôn nguôi. Có lẽ đến khi chết tôi vẫn không làm sao nhắm mắt.
Tôi về để tìm lại phần mộ của cha và em tôi, cải táng đem về bên cạnh phần mộ của mẹ tôi trong nghĩa trang gia tộc ở quê tôi ngoài Vạn Giã. Điều ước mơ của cha tôi, mỗi lần ông kể cho tôi nghe về mẹ tôi và chuyện tình khá lãng mạn nhưng cũng nhiều cay đắng của ông bà. Cha tôi được chôn cất sơ sài trên núi Đá Bàn, bên ngoài một trại tù cải tạo lúc xưa. Còn em gái tôi, được gia đình một cô bạn thân chôn cất tại một nghĩa trang ngoài Đồng Đế. Khó khăn và may mắn lắm tôi mới tìm được tin tức về mộ phần của cha và em tôi sau hơn hai mươi năm. Nhờ một người bạn cùng tù với cha tôi, chính tay ông đã đào huyệt cho cha tôi, và gia đình cô bạn thân của em gái tôi, vượt biên từ năm 1978, hiện định cư tận bên Hòa Lan, cung cấp chi tiết và vẽ cả bản đồ hướng dẫn cho tôi.
Ngồi trên máy bay, tôi lo lắng đủ điều. Mộ em tôi nằm trong một nghĩa trang, dù chưa được xây, nhưng có tấm bia đúc bằng xi-măng nên có lẽ dễ tìm, nhưng phần mộ của cha tôi, nằm trong núi, và cái trại cải tạo ngày xưa bây giờ đã biến thành một khu kinh tế mới. Gần ba mươi năm rồi, có biết bao sự đổi thay.
Cuối cùng thì tâm nguyện của tôi cũng hoàn thành được một nửa. Trái ngược với những lo lắng ban đầu, tôi dễ dàng tìm ra phần mộ của cha tôi. Mặc dù bối cảnh chung quanh thay đổi, nhưng bà con ở vùng kinh tế mới này đa số là dân thành phố bị cưỡng bách “tự nguyện” lên đây, một số ngày xưa là lính và công chức. Họ biết đây là mộ của những người tù cải tạo, nên họ thương mà rào lại và giữ gìn. Những dịp cuối năm họ đều thắp hương, tảo mộ và kẻ lại tên trên những tấm bia bằng gỗ, dù đã rong rêu qua bao nhiêu mùa mưa nắng. Riêng phần mộ của em tôi, mò mẫm suốt cả hai tuần tôi vẫn tìm không ra. Cả khu nghĩa trang bây giờ thay đổi. Người chết nhiều quá. Nhiều ngôi mộ mới xây, nhưng cũng có một số đã được cải táng, dời đi nơi khác. Nhà cửa cất san sát bên nghĩa địa. Người sống bây giờ ở chung với người chết. Tôi bắt chước người xưa khấn vái, xin hồn thiêng em tôi về chỉ cho tôi ngôi mộ của em nằm. Nhưng lời vái của tôi vẫn không thiêng.
Tôi thuê người cải táng phần mộ của cha tôi. Đi từng nhà trong khu kinh tế mới cám ơn lòng tốt của mọi người. Đưa hài cốt của cha tôi về an táng bên cạnh mẹ tôi, trong nghĩa trang gia tộc, thuê thợ xây lại tất cả những ngôi mộ đã bao nhiêu năm không có ai chăm sóc.
Còn một ngày nữa là hết hạn visa. Tôi muốn đi một vòng, tìm lại chút gì của Nha-Trang xưa. Mùa hè Nha-Trang bây giờ dường như nóng bức hơn ngày xưa. Tôi thuê một chiếc xích lô chạy dọc theo con đường Duy Tân cũ. Vừa để cho mát, vừa muốn tìm lại những lùm cây dương ngày trước, thuở chúng tôi và bạn bè hẹn hò sau những lúc tan trường. Một số lùm dương vẫn còn đó, nhưng trơ trọi, điêu tàn. Tôi bảo anh phu xe cho tôi xuống trường Võ Tánh. Anh phu xe còn trẻ, thắng xe lại, ngạc nhiên. Tôi hiểu, nên tôi bảo tôi sẽ chỉ đường, anh cứ theo tôi. Ngôi trường cũ, nơi tôi có biết bao kỷ niệm của ba năm theo học, bây giờ không những cái tên trường, mà tất cả đều trở thành xa lạ. Những hàng cây phía trước không còn. Ngôi trường đứng chơ vơ, chẳng còn sót lại chút gì thơ mộng, gây trong tôi một cảm xúc bẽ bàng hơn là thương tiếc.
Bất giác tôi nhớ đến em tôi. Đứa em gái xinh đẹp dễ thương, đã cho tôi cái ấm áp của cả một gia đình, trong những ngày chúng tôi lớn lên không có mẹ. Em học bên trường Nữ Trung Học, nhưng thường đến đây chờ tôi để hai anh em cùng ra biển. Em tôi thích tắm biển, nhưng ngại đến đó một mình nên thường rủ tôi đi theo hộ tống. Tôi tha hồ làm tình làm tội mấy anh chàng muốn đến làm quen, tán tỉnh em tôi. Tôi đi bộ dọc theo bãi biển, tìm đến khu có nhiều cây dừa trước trường Bá Ninh lúc trước, nơi ngày xưa em tôi thường ngồi ở đó.
Tôi đưa mắt nhìn một vòng từ xa. Nơi bậc xi măng tiếp giáp bãi cát, một người tàn tật đang khó nhọc dùng cánh tay duy nhất còn lại giữ thăng bằng trườn xuống. Trông anh ta giống như một con cóc. Len lỏi trong đám người đi tắm, anh hướng về phía tôi ngồi. Lưng anh mang túi vải chứa đầy sách, và kéo lê trên cát một cái túi vải nữa, cũng toàn là sách. Anh lê lết từng quãng, từng quãng ngắn. Bất ngờ anh ta ngước lên. Thấy tôi gật đầu chào, anh ta nhìn tôi cười rạng rỡ, để lộ hàm răng trắng. Khuôn mặt tuấn tú, râu quai hàm, vầng trán cao với mấy sợi tóc vắt ngang rất nghệ sĩ. Anh dùng bàn tay duy nhất lôi một cuốn sách trong túi vải đang nằm trên mặt cát và từ từ mở ra. Tôi líếc qua. Cuốn sách có cái tựa viết bằng tiếng Anh, nói về chuyện chuyến tàu Titanic. Tôi nhớ đến cuốn phim cùng tên, mới quảng cáo rầm rộ trên truyền hình Nauy mà tôi chưa kịp đi xem. Bỗng tôi tròn mắt ngạc nhiên khi nghe anh mở lời chào và giới thiệu cuốn sách bằng tiếng Anh mà anh phát âm rất lưu loát, không thua kém gì những người Việt đã sinh sống lâu năm ở nước ngoài. Anh lầm tưởng tôi là người Nhật hay Đại Hàn gì đó. Tôi thán phục anh vô cùng và bảo với anh tôi là người Việt, định cư ở Nauy, nên trình độ tiếng Anh của tôi chỉ vừa đủ nói dăm ba câu xã giao, chứ làm gì có thể thưởng thức được văn chương. Tôi cám ơn anh và móc ví ra định biếu anh một chút tiền, nhưng anh vội đưa tay ngăn lại
- Cám ơn anh, nhưng xin anh để dành tiền cho những người còn nghèo khổ hơn tôi. - Anh nhỏ nhẹ bằng một giọng thân thiện và lễ độ.
Câu nói và thái độ của anh làm tôi rất đỗi ngạc nhiên. Vì từ khi trình giấy thông hành vào nước, trước những người mang lon, đội mão đại diện cho cả một quốc gia mà cũng không có được phong thái thanh tao như anh; và chẳng lẽ ở trong cái thành phố ” mũi nhọn du lịch ” này lại còn nhiều người khốn khổ hơn anh ?
Tôi đành mua một cuốn sách để anh vui lòng nhận tiền, nhưng rồi thấy anh cứ loay hoay moi hết túi nọ đến túi kia, để tìm đủ tiền thối lại cho tôi.
Tôi muốn hỏi thăm anh vài câu, nhưng anh đã nhoẻn miệng cười và gật đầu chào tôi rồi vội vàng lết sang mấy người khách nước ngoài đang nằm phơi nắng trên hàng ghế phía trước.
Từ hôm ấy, hình ảnh người tàn tật bán sách trên bãi biển Nha-Trang cứ lẩn quẩn trong đầu và theo tôi về tới Nauy; để rồi nếu có ai đó lỡ lời nói điều gì không mấy tốt về những người nghèo khổ ở Việt Nam, tôi có cảm tưởng như đang xúc phạm đến anh, người bán sách khả kính mà tôi bất ngờ được gặp.
Năm sau, tôi lấy một tháng hè về lại Việt Nam. Lần này tôi mua vé và nhờ cha cô bạn của em tôi, từ Hòa Lan, cùng về với tôi. Ông là người đã giúp chôn cất em tôi ngày trước. Tôi không ngờ là mình phải về lại Việt nam lần thứ hai. Một điều mà trước đây tôi không hề nghĩ tới. Nhưng tôi phải làm tròn bổn phận của người anh với cô em gái, mà nếu trước kia tôi lo lắng cho nó chu đáo hơn, biết đâu bây giờ nó còn sống để cho tôi khỏi cảnh côi cút một mình.
Sau một chuyến bay dài, tôi mệt đừ người. Tôi trở về từ vùng Bắc Âu lạnh lẽo, bây giờ lại gặp cái nắng oi nồng của vùng nhiệt đới. Sau khi thuê khách sạn xong, tôi chạy ngay ra biển tắm. Nằm dài trên bãi cát, tôi bỗng nhớ tới người bán sách năm xưa. Tôi thả bộ theo bờ biển về hướng mấy cái lều có bóng dáng nhiều người ngoại quốc đang từ khách sạn kéo ra, bỗng mắt tôi sáng lên khi nhìn thấy người tàn tật đang lê lết theo sau. Cũng hai cái túi vải đựng sách. Đúng là anh tàn tật bán sách năm trước chứ còn ai. Tôi mừng thầm như sắp sửa được gặp lại con người mà bấy lâu nay tôi thường nghĩ tới với lòng mến mộ. Tôi suy nghĩ làm cách nào để anh ta vui lòng nhận sự giúp đỡ của mình. Nhưng người tàn tật lúc nào cũng bám sát vào những người nước ngoài. Tôi để ý thấy người ta cũng không mua sách và chỉ cho anh tiền. Tôi ngạc nhiên khi thấy anh ta cười, hớn hở nhận tiền rất điệu nghệ, không nghe anh nói cái câu thật tử tế mà một năm trước anh đã lễ phép nói v ới tôi “Cám ơn anh, nhưng xin anh để dành cho những người còn nghèo khổ hơn tôi”. Một cái gì đó thật đẹp vừa bị sụp đổ trong lòng. Tôi cảm thấy người nóng hừng hực. Không biết là sức nóng giữa ban trưa hay vì máu nóng bốc lên đầu. Tôi cắm đầu chạy lao vào những đợt sóng cuồng nộ đang từ ngoài khơi đổ vào bờ.
Nước biển trong xanh, sóng biển như những cánh tay ôm tôi vào lòng vuốt ve, dỗ dành. Mặt nước mênh mông, trải rộng đến những dãy núi mờ xanh tận cuối chân trời. Tôi nghe văng vẳng trong không gian như có ai đang dạo đàn bản Nha Trang Ngày Về. Thiên nhiên phần nào giúp tâm hồn con người rộng mở và dễ cảm thông hơn.
Sau một hồi quần với sóng biển, tôi cũng tạm quên người tàn tật bán sách đã làm tôi hụt hẫng. Nhưng khi vừa bước lên bờ cát,_thì tôi lại trông thấy anh ta đang o bế mấy người nước ngoài và đưa tay xin cả thức ăn thừa. Tôi nghi ngờ, có thể là người tàn tật này không phải là người tàn tật năm xưa. Tôi đến gần hỏi thăm. Nhưng chưa hỏi hết câu hắn đã ” Đ.m. cái khứa đói rã họng ra mà còn làm cao ấy hả. Chết mẹ nó rồi..”
Chỉ nghe cái giọng lỗ mãng của hắn, tôi đủ biết chắc hắn ta không phải là anh - người tàn tật bán sách mà năm trước tôi đã gặp -. Tôi theo người bán sách này với ý định hỏi thăm thêm về anh cho ra lẽ, nhưng thấy hắn ta chẳng mấy tha thiết. Hắn di chuyển chậm, nhưng mắt hắn lại quan sát thật nhanh về những đám người đang xuống bãi ở quãng xa. Và khi đi ngang qua chỗ ngồi của người đàn bà bán cua luộc, hắn hất hàm bảo ” Đó, vợ khứa đó ! “
Tôi liền chụp ngay cơ hội, hy vọng tìm ra manh mối. Nhưng khi tôi lân la lại gần, thấy chị bán cua luộc này có vẻ nghiêm trang khác với những người bán hàng rong bình thường, tôi không biết phải bắt đầu làm sao. Tôi mua hết con cua này tới con cua khác mà chẳng ăn con nào. Và cứ mỗi lần chị định quảy gánh đi chỗ khác, tôi gọi giật lại mua thêm một con nữa để giữ chân chị. Vừa lúc chị nhận ra người khách mua cua này cũng có gì khác thường, tôi buột miệng :
- Chị là vợ của người tàn tật bán sách trên bãi biển này mấy năm trước ?
Chị ngớ người ra, im lặng nhìn tôi. Có lẽ thấy tôi là một người xa lạ sao lại tò mò vào một chuyện riêng tư. Tôi kể cho chị nghe cái cảm tình đặc biệt mà tôi đã dành cho anh ấy. Tôi muốn tìm cách giúp anh một phần nào nỗi thống khổ tật nguyền. Tôi tha thiết muốn biết về anh. Dường như những lời chân thật của tôi làm cho chị xúc động. Chị nhìn tôi, đôi mắt thật buồn :
- Em không phải là vợ của anh ấy. Tụi em cùng cảnh khổ nên đùm bọc lấy nhau mà sống. Một số người đùa, gán ghép tụi em rồi quen gọi thế thôi, anh ạ. Anh ấy đã chết cách nay hơn tám tháng. Em đã lo chôn cất anh ấy.
Lòng tôi thắt lại, một phần vì cảm thương anh trong cảnh khốn cùng, một phần ân hận là giá năm trước mình tìm cách giúp đỡ anh, biết đâu đã cứu được anh. Tôi có ý muốn nhờ chị đưa tôi ra mộ để thắp cho anh nén hương. Chị ngại ngùng nhưng cuối cùng gật đầu hẹn bốn giờ chiều chờ tôi trước khách sạn tôi ở.
Tôi thuê chiếc taxi, và xin phép cùng ngồi với chị ở băng ghế sau để dễ dàng trò chuyện. Trên đường ra nghĩa trang, chị say sưa tâm tình cùng tôi, như từ lâu lắm chị không có dịp nói ra những điều bao năm dấu kín ở trong lòng. Chị tên Trang. Cha chị trước kia là một trung sĩ địa phương quân, bị thương năm 1968, trong trận tết Mậu Thân, nên được giải ngũ. Mẹ chị mất từ khi chị còn bé lắm. Cha chị không chịu tục huyền mà ở vậy nuôi đứa con độc nhất của mình. Nhờ số tiền trợ cấp ban đầu, ông mua được một căn nhà tôn trong khu dành cho thương phế binh, nằm phía sau ga xe lửa. Ông xin được cái chân bán vé cho hãng xe đò Phi Long ở bến xe Xóm Mới. Lương ba cọc ba đồng cộng với tiền hưu bổng hàng tháng, ông dành dụm cố lo lắng cho cô con gái học hành. Năm 1974, xong lớp 12, chị thi đậu vào trường sư phạm. Sau ngày Nha trang “giải phóng”, chị bị loại ra bởi lý lịch “ngụy quân” của cha. Lúc này, gia đình trở nên bi đát. Cha chị, tất nhiên, không còn được lãnh tiền hưu bổng ngày trước, chị không tìm ra bất cứ việc làm gì. Cuối cùng cha chị đành phải bán một nửa căn nhà vốn đã chật chội, để mua một chiếc xích lô làm phương tiện sinh nhai. Còn chị thì đi bán hàng rong từ dạo ấy.
- Đến bây giờ ông cụ vẫn còn đạp xích lô ? Tôi tò mò hỏi.
- Ông mất lâu rồi anh ạ. Tội nghiệp, ông thương anh Bá lắm, xem anh ấy như con.
Tôi ngạc nhiên :
- Anh Bá nào ?
- Người tàn tật bán sách đó.
Đến bây giờ tôi mới biết tên của anh.
Chị cho biết anh Bá ngày xưa là trung úy phi công. Máy bay của anh bị bắn rơi vào những ngày Sài gòn nguy khốn, khi yểm trợ cho mặt trận Long Khánh của Sư Đoàn Tướng Đảo. Anh được anh em bộ binh tiếp cứu, nhưng bị thương rất nặng, phải đưa về Tổng Y Viện Cộng Hòa. Sau cuộc giải phẫu khá dài, anh tỉnh lại. Nhưng khi biết được mình bị mất hai chân và một cánh tay, anh ngất xỉu và hôn mê suốt cả một tuần. Ngay sau khi Sài gòn vừa “giải phóng”, anh bị đuổi ra khỏi Tổng Y Viện khi vết thương chưa lành. Gần hai tháng sau cha em gặp anh ấy trên bến xe Xóm Mới. Biết được phần nào hoàn cảnh thương tâm, cha em lấy xích lô chở anh về nhà chăm sóc vết thương và anh sống với cha con em từ dạo ấy.
- Anh ấy không có thân nhân. Tôi hỏi
- Anh có một cô em gái ở đây, nhưng mà chết lâu rồi. Ban đầu không nghe anh nói điều này. Mãi sau này thấy trên đầu giường của anh có thờ tấm ảnh của một cô con gái và có nhiều đêm rất khuya anh ngồi bất động trước tấm ảnh, cha em hỏi mấy lần, anh mới bảo đó là cô em gái duy nhất của anh.
- Anh không còn bạn bè ?
- Nghe nói anh đang học một khóa phi hành ở đâu bên Mỹ, rồi nhờ có trình độ anh ngữ khá, anh được lưu lại Mỹ làm sĩ quan liên lạc không quân. Nghe tin miền Nam nguy khốn, anh tình nguyện xin về chiến đấu. Vừa về nước, anh ra chiến trường ngay và bị nạn khi đang bay phi vụ thứ hai. Có lẽ vì vậy mà không nghe anh nhắc tới bạn bè.
Xe dừng lại, tôi bước xuống trả tiền và bảo anh tài xế chờ tôi hoặc có thể quay lại sau ba mươi phút. Tôi bước vào nghĩa trang khi lòng còn vương vấn một câu chuyện buồn. Tiếng chuông nhà thờ từ đâu vọng lại càng làm cho lòng tôi chùng xuống. Đi quanh co một lúc, chị Trang bảo tôi dừng lại và chỉ cho tôi ngôi mộ của anh Bá, nằm bên cạnh ngôi mộ của cô em gái. Cả hai ngôi mộ được xây bằng đá đơn giản, trên tấm bia có cả tấm ảnh. Tôi ngạc nhiên khi thấy trên mộ bia anh Bá có hình một thập tự giá, vì đây là nghĩa trang Phật giáo. Tôi đến trước mộ anh, thắp ba nén hương thầm khấn vái cho anh được sống an bình trong một thế giới chẳng còn thù hận, và nói lên lòng cảm mến của một người đồng đội cũ. Tôi nhìn kỹ tấm ảnh của anh trên mộ bia, tấm ảnh chụp lúc anh còn là sinh viên sĩ quan không quân, phong độ, hào hùng. Trông khuôn mặt quen quen. Có lẽ do bộ quân phục, làm tôi nhớ tới khuôn mặt của những bạn bè ngày trước.
Tôi bước sang mộ cô em gái, thắp ba nén hương cho một người không hề quen biết. Tôi tò mò bước lên xem tấm ảnh trên mộ bia. Bỗng đầu óc tôi choáng váng, mắt tôi mờ đi như chẳng còn trông thấy những gì trước mặt. Trời ơi, có điều gì lầm lẫn hay không ? Người trong tấm ảnh chính là An Bình, cô em gái yêu dấu của tôi.
Tôi cố gắng lấy lại bình tĩnh, mở đôi mắt thật to để nhìn kỹ lại tấm ảnh. Không thể nhầm lẫn được. Chính tấm ảnh của em tôi mà tôi vẫn treo trên bàn thờ cùng với ảnh của cha và mẹ của tôi. Tôi vẫn thường đứng hằng giờ trước những tấm ảnh này mỗi khi thấy mình quá đỗi cô đơn trên xứ lạ quê người. Làm sao tôi có thể nhầm lẫn được. Bỗng dưng tôi khóc sụt sùi.
Trang nhìn tôi ngạc nhiên :
- Anh có quen biết em gái anh Bá ?
Tôi im lặng không trả lời, bảo chị cùng đi với tôi. Chiếc taxi vẫn còn đợi tôi tự nãy giờ. Tôi móc bóp tìm địa chỉ của cha cô bạn thân của em tôi, đã từ Hòa Lan về đây trước tôi hai ngày, và chúng tôi hẹn gặp nhau ngày mai. Bác trọ ở nhà một người em trong khu cầu Xóm Bóng. Tôi đưa địa chỉ cho anh tài xế. Chỉ hơn năm phút sau là anh ta đã tìm được. May mắn là bác có ở nhà. Tôi xin lỗi bác là đã đến tìm bác sớm hơn ngày hẹn. Báo cho bác là tôi đã bất ngờ tìm được mộ của em tôi. Xin bác cùng đi với tôi ra nghĩa trang để xác định lại vị trí ngôi mộ của em tôi mà ngày trước bác đã có lòng chôn cất hộ.
Trở lại nghĩa trang, tôi đề nghị bác dẫn đường, như muốn để xác minh chắc chắn là bác biết rõ ngôi mộ ấy. Bác mò mẫm gần hai mươi phút, mới tìm được ngôi mộ của em tôi. Bác ngạc nhiên là ngày ấy bác chỉ kịp dựng một tấm bia, chứ không có xây mộ đá như bây giờ, và trên bia cũng chỉ có tên chứ không có hình ảnh của em tôi.
Tự nãy giờ Trang vẫn còn ngạc nhiên, không biết rõ việc gì. Tại sao cô gái này là em gái duy nhất của anh Bá mà cùng là em gái của tôi ? Tôi xin lỗi vì xúc động quá, tôi sẽ kể cho Trang nghe trên đuòng về nhà.
Tôi đưa cha cô bạn của em tôi về lại nhà trọ, cám ơn bác và hẹn gặp lại bác vài hôm sau. Trên đường về, tôi kể lại cho Trang nghe về hoàn cảnh của gia đình tôi. Tôi đi lính xa nhà, mỗi năm chỉ về phép một đôi lần. An Bình, đứa em gái duy nhất của tôi ở Nha-Trang với cha tôi. Ông là một thầy giáo, ngày xưa dạy ở trường Pháp-Việt lúc tôi mới lên ba. Sau ngày về hưu ông được bà con mời làm chủ tịch hội đồng xã. Ông bị bắt vào trại cải tạo Đá Bàn sau ngày Nha-Trang “giải phóng”, rồi vì tuổi già sức yếu, không chịu nỗi sự tra tấn, ông đã chết gần một năm sau đó. Em gái tôi nối nghiệp cha, sau khi tốt nghiệp ở trường sư phạm Qui Nhơn, vì gia cảnh, được về dạy ở Nha-Trang. Có lần tôi về phép, em kể cho tôi nghe về mối tình của em với một chàng sinh viên sĩ quan không quân. Em có đưa cả tấm ảnh cho tôi xem và hẹn sẽ giới thiệu với tôi khi chàng ta ở Mỹ trở về. Em lo lắng vì anh ta là người Bắc di cư, công giáo, không hiểu có khó khăn gì cho cuộc hôn nhân. Tôi bảo nó yên tâm, ba tôi theo tây học, nên ông quan niệm về tôn giáo rộng rãi lắm.
Sau khi cha tôi vào trại cải tạo, căn nhà của chúng tôi bị chính quyền mới tịch thu để làm hợp tác xã mua bán. Em tôi không được tiếp tục dạy học nữa nên ra Xóm Bóng ở chung với cô bạn học nối khố tự ngày xưa, chắt chiu số tiền còn dành dụm được để thăm nuôi cha tôi. Ngay sau ngày Sài Gòn mất, em có vào tìm thăm tôi và người yêu của cô. Hơn hai tuần đi thăm hỏi khắp nơi, em tôi về nằm khóc cả mấy ngày liền, nói với tôi là người yêu của nó đã chết mất xác ỏ chiến trường Long Khánh. Tôi an ủi em tôi, bảo nó về Nha-Trang cố gắng thay tôi lo lắng cho cha, chờ ngày cha và tôi trở về sum họp. Tôi vào tù hơn sáu tháng, hai lần được phép gởi thư về nhà, vẫn không thấy em gái hồi âm. Cho mãi trước khi được chuyển ra Bắc, tôi mới nhận được thư của cô bạn thân của nó, báo tin là nó không kiếm được việc gì làm, túng quẫn, buồn chán, nên đã uống nguyên một ống thuốc ngủ. Gia đình cô chở vào bệnh viện, nhưng không cứu được, vì bệnh viện không tìm ra thuốc giải.
Chị Trang suy nghĩ miên man và như chợt nhớ ra được điều gì. Chị bảo khi còn sống, anh Bá không đi làm vào ngày chủ nhật. Anh đi lễ nhà thờ rồi đi ra mộ suốt cả ngày. Chính anh đã dành dụm tiền bạc, thuê người xây lại ngôi mộ và mua phần đất dành cho mình. Khi chôn cất anh xong, chị tìm thấy một tập nhật ký dấu kỹ dưới đầu giường. Chị vẫn còn để trên bàn thờ, chờ ngày giáp năm thì đốt luôn. Chị bảo tôi cùng về nhà với chị, để chị trao lại cuốn nhật ký, kỷ vật duy nhất của một người cùng sống chung trong cảnh khốn cùng với cha con chị trong gần ba mươi năm, và bây giờ mới biết đó là người yêu của cô em gái thương quí của tôi.
Chị bảo taxi dừng lại trước một ngõ tắt phía sau ga xe lửa. Tôi trả tiền, theo chị băng qua hai con đường sắt, đi quanh co theo mấy con hẻm thì đến nhà. Tôi xin phép thắp hương trước bàn thờ của ba chị và Bá, trên một cái kệ nhỏ bằng gỗ treo trên vách. Tôi khẩn khoản xin chị nhận một số tiền để chăm sóc ngôi mộ của ông cụ, em gái tôi và Bá, một ít làm vốn buôn bán để đỡ vất vả hơn xưa. Tôi xin nhận Trang là cô em kết nghĩa, và từ nay Trang là người thân quen duy nhất của tôi còn lại ở Nha-Trang. Tôi chia tay, đi bộ về khách sạn, cầm theo cuốn nhật ký trên tay, mà cứ tưởng như mình vừa nhận một món quà quí giá của người thân gởi về từ một cõi nào đó thật xa xăm.
Ngày 2/5
Vết thương còn đau đớn và máu còn thấm đỏ qua mấy lớp băng, vậy mà mình bị người ta đuổi ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa, trong hoàn cảnh tứ cố vô thân. May mắn nhờ một ân nhân nghèo nhưng lại giàu lòng bác ái, đùm bọc, nuôi nấng và chăm sóc vết thương.
Nhiều lần, trong vực sâu tuyệt vọng, mình không muốn sống thêm một ngày nào nữa, nhưng lòng mình lúc nào cũng hướng về chúa Kitô, và xin phó thác tất cả ở nơi Ngài.
……..
Ngày 20.6
Cuối cùng, thì mình quyết định trở về Nha-Trang, bởi lẽ mình không còn có một chỗ nào khác để trở về. Mình về đây để tìm lại những kỷ niệm đẹp đẽ nhất của đời mình, của những ngày mình còn có An Bình. Từ ngày gặp An Bình, mình nghĩ là mình đã thuộc về Nha-Trang, miền thùy dương rạt rào thơ mộng này. Đau đớn thay, hôm nay mình chẳng phải là mình ngày trước, mình chỉ là một kẻ tật nguyền thê thảm. Mình sẽ không bao giờ gặp lại An Binh, mà chỉ mong về đây để được sống với hình ảnh của nàng.
Ngày 08/7
Ngày hôm nay có lẽ là ngày đau đớn nhất trong đời mình. Đau đớn hơn cả cái ngày mình tỉnh dậy trong quân y viện và biết mình trở thành một người tàn phế. Mình lê lết khắp nơi hỏi thăm tin tức An-Bình, được biết là em đã quyên sinh.. An Bình ơi, xin em hãy tha thứ cho anh. Trong vận cùng của một đất nước mà anh chỉ là một thằng lính hèn mọn nhỏ nhoi, làm sao có thể giữ được bầu trời Nha-Trang này cho em, và cho những kỷ niệm của chúng mình..
Một hồi chuông nhà thờ làm tôi giật mình. Ngẩng đầu lên mới biết mình đang đứng trước nhà thờ đá. Tôi thẫn thờ bước lên những bậc “tam cấp”, đến trước tượng Đức Mẹ. Tôi là người ngoại đạo, không biết phải cầu nguyện như thế nào. Tôi chấp hai tay trước ngực, kính cẩn xin Thiên Chúa Từ Bi và Đức Mẹ Maria cứu vớt linh hồn của hai người hoạn nạn và xin cho họ được cùng phục sinh với Chúa để tình yêu của họ mãi mãi vĩnh hằng trong một thế giới bình an, không còn có hận thù.
Tôi không còn ý đinh dời ngôi mộ em tôi về bên cạnh cha mẹ. Tôi về quê, quỳ trước mộ cha mẹ tôi để xin phép được xây lại hai ngôi mộ của em tôi và Bá chung trong một vòng thành. Không ai có quyền bắt họ chia lìa thêm một lần nữa, dù bây giờ chỉ còn là một thế giới vô hình.
Cũng như lần trước, ngày cuối cùng, tôi thuê xích lô đi một vòng dọc theo con đường Duy Tân cũ. Con đường đẹp nhất của Nha-Trang. Những cơ sở công quyền, những dinh thự của cán bộ bây giờ đựơc dựng lên nguy nga đồ sộ. Nhìn lá cờ màu đỏ trên mấy nóc nhà, bỗng dưng tôi lạnh toát cả người. Chẳng lẽ những thay đổi “to lớn” ấy mà phải xây trên máu xương, trên những đớn đau, chia lìa thảm khốc của bao nhiêu thế hệ đã từng một thời góp sức tạo nên cái thành phố hiền hòa thơ mộng này. Bỗng chốc, tôi không còn nhìn thấy thành phố Nha-Trang đâu nữa. Trước mắt tôi bây giờ chỉ còn là một bãi tha ma, dài ra, vô tận. Tôi nghe trong gió văng vẳng tiếng đàn dạo bài Nha-Trang, mà ngày xưa đài phát thanh Nha-Trang dùng làm nhạc hiệu mở đầu. Tôi nhớ tới cái chết thảm khốc của nhạc sĩ Minh-Kỳ, tác giả bản nhạc quen thuộc một thời này, ông cũng đã bị giết vào tháng 8/75, khi cùng bị nhốt chung với tôi trong trại tù cải tạo An Dưỡng, Biên Hòa.
phạmtínanninh
(Viết chung với Đoàn Mai Tâm)
No comments:
Post a Comment