Monday, 13 October 2008

Tài năng quý hiếm: Cây “Đàn Tre” kỳ diệu.


Tài năng quý hiếm:

Cây “Đàn Tre”

diệu kỳ.

An Phong Maria Trần Ngọc Tá.

Có những “phát giác kinh khủng”, mà phải sống bươn chải, chung đụng qua năm tháng, mình mới thấy. Điều mà thành viên An Phong nay đã thấy, là: trong gia đình An Phong mình, có nhiều nhân tài từng xuất hiện, mà ta không nhận ra đó thôi. Trong địa hạt âm nhac, mỗi thế hệ An Phong Việt tộc mình, vẫn đếm đủ nhiều tên tuổi như JB Nguyễn văn Thính, Hoàng Diệp, rồi Thành Tâm, Sĩ Tín, Hoàng Đức, Tiến Lộc, Quang Uy, Khởi Phụng...

Tại đất miền “cùng tận của trái đất, ở phía Nam”, bọn chúng tôi cũng vừa khám phá ra một nhân tài không nhỏ, trong địa hạt này. Anh không diễn lộ tài năng sáng tác nhạc Đạo hoặc đời, nhưng đã bật mí để lộ năng khiếu sáng-chế dụng cụ âm nhạc, cho nhiều người. Tên anh là Nguyễn Minh Tâm. Và, nhạc cụ anh sáng chế là cây “Đàn Tre”, xuất hiện từ thập niên ’70, trong trại tù “cải tạo”. Ở miền Ttrung quê nhà. Qua tới nước ngoài, anh lại tạo ra một phó bản, được Viện Quốc Gia Bảo Tồn Nghệ Thuật Úc, ở Canberra, gìn giữ nó như một báu vật hiếm quý, do người làm.

Được biết, Viện Quốc Gia Bảo Tồn Nghệ Thuật Úc có cuộc triển lãm, ở thủ đô Canberra cho dân chúng thưởng lãm tác phẩm nghệ thuật do anh Nguyễn Minh Tâm sáng chế, vào thượng tuần tháng Giêng năm 2009. Đặc phái viên trang nhà “Gia Đình An Phong” ở Úc, đã thực hiện một nghiên cứu tham khảo, ngang qua các niên biểu thời sự ở Úc, tóm lược để giới thiệu với bạn bè/người thân trong gia đình An Phong. Xin mời bạn đọc bỏ ra vài ba giây phút, để thưởng lãm.

Trước tiên, một bắt gặp. Bắt gặp, được phát hiện từ tờ Bản Tin Nghị Luận, nội san chuyên đề về Di Trú và Cộng Đồng Sự Vụ ấn hành tại Tiểu Bang Queesland, vào tháng Giêng năm 1984, trong có đoạn tóm viết về nghệ nhân Nguyễn Minh Tâm, như sau:

“Hôm nay, ngày 10 tháng Giêng năm 1984, một ngày đánh dấu bằng sự kiện lần đầu tiên xuất hiện khuôn mặt có tầm vóc quốc tế, về nghệ thuật sắc tộc: đó là nghệ nhân Nguyễn Minh Tâm, một di dân đến từ Việt Nam, có tuổi đời hằn in dấu vết của cái –gọi-là 6 năm học tập tại trại tập trung cải tạo, A30 tỉnh Phú Khánh.

Anh Nguyễn Minh Tâm, một cư dân sống ở thủ phủ West End, Brisbane đã xuất hiện trên đài truyền hình số 7, trong chương trình “Tiểu Bang Sự Vụ” của đài. Trong buổi phát sóng trên đài số 7 hôm ấy, anh Minh Tâm đã chơi “Đàn Tre” 23 giây do anh từng sáng chế trong thời kỳ còn ở trại tù “cải tạo” tại quê nhà, vì lý do bất đồng chính kiến. Ý thức hệ.

Sự khéo tay, nhuần nhuyễn nghệ thuật đa dạng của nhà thiết kế nhạc cụ sắc tộc Nguyễn Minh Tâm, đã làm triển nở bản sắc văn hoá đa nguyên của Úc, cũng như gia tăng nhu cầu gìn giữ bản sắc và hình thức nghệ thuật trong ngành thủ công sắc tộc. Cả hai, đã đặt chân đến Úc từ khắp nơi, trên thế giới.

Các tiết mục trình diễn bằng nhạc cụ mới lạ của anh Nguyễn Minh Tâm đã dàn trải trên nhiều lĩnh vực âm nhạc, từ nhạc cổ điển cho tới dân nhạc thánh thót, dịu dàng và du dương của bản sắc văn hoá, rất Việt tộc.

Tổng Nha Phục Vụ Di Dân và Hội Đồng Sắc tộc Tiểu Bang Queensland đứng ra tổ chức phong trào giới thiệu các nền Văn hoá Sắc tộc khác nhau trong năm 1984, là để cổ vũ một hình thức nghệ thuật đa dạng mang tính khác biệt và hiếm quý, ở nơi đây.” (x. News and Views-Migration and Community Affairs, January 1984, Vol. 2, No 1).

Ở một nơi khác, trên tờ rời quảng cáo, một ấn phẩm của Viện Quốc Gia Bảo Tồn Nghệ Thuật ở Úc, cũng thấy những giòng giới thiệu sản phẩm “Đàn Tre” do anh Nguyễn Minh Tâm, biếu tặng:

“Nhạc cụ này, do nhà sản-xuất nhạc-khí đồng thời là cựu sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Nguyễn Minh Tâm sáng chế lấy từ các mảnh vụn kim loại và phương tiện tự tạo, góp nhặt tại trại tị nạn ở Phi-Luật Tân.

Nhạc cụ tân tạo, sử dụng phương tiện cơ bản, lấy từ sản phẩm do anh làm ra từ hồi còn ở trong trại tù “cải tạo”, tại Việt nam. Cây đàn nhiều giây, mà anh đặt cho nó cái tên rất nhẹ nhàng “Đàn Tre”, đã giúp anh đạt được mộng ước linh thiêng qua âm nhạc. Và từ đó tới nay, anh vẫn dùng nó để chơi các bản nhạc mang sắc thái dân tộc.

Anh Nguyễn Minh Tâm đã bỏ sản phẩm gốc của anh ở lại trại tù, khi được phóng thích. Và, anh lại chế ra một cây đàn khác trong thời gian còn ở trại tị nạn, để làm dịu bớt nhu cầu tâm linh, bằng phương tiện âm nhạc. Anh Nguyễn Minh Tâm đã mang cây đàn do anh sáng tác từ trại trong hành trình đến Úc, vào năm 1982. Anh chỉ thay đổi có một chi tiết nhỏ, là: thay vì trước kia, thùng cộng hưởng được làm bằng loại thùng thiếc 20 lít, quá lớn so với ống tre và kệch cỡm, anh đã dùng thùng dầu Olive 4 lít để làm thùng cộng hưởng và để nâng đỡ nhạc cụ này” (x. tờ rời chỉ dẫn The National Museum of Australia – The Vietnamese Refugee Experience).

Lúc mới đặt chân lên Tiểu Bang Queensland, anh Nguyễn Minh Tâm đã sinh hoạt một thời gian khá dài với cộng đồng người Việt ở đây. Trong sinh hoạt cộng đồng, anh đã đem cây đàn “bửu bối” của mình, để mượn nó trải rộng tâm tình đầy những xúc cảm mà anh gói ghém từ lâu, nay chuyển đạt đến người nghe, trong cộng đồng mình. Một trong những người đồng hương thời ấy, là Nguyễn Ang Ca, một phóng viên kỳ cựu và uy tín của Việt Nam trước 1975, đã từ Bruxelles bay sang thăm anh tại Brisbane và đã có những giòng chảy kỷ niệm như sau:

“Là nhà giáo, cựu sĩ quan Quân Đội Việt nam Cộng Hoà, từng bị đoạ đày trong lao tù Cộng sản –cùng bạn tù với Lý Tống- anh Nguyễn Minh Tâm còn là một nghệ sĩ.

Đây là một con người, một khuôn mặt, một nhân cách thật xứng đáng, thật đáng hãnh diện cho Cộng đồng người Việt tỵ nạn ở Úc.

Ở đêm văn nghệ do Tổng đoàn Văn Nghệ sĩ Tự Do Úc Châu tổ chức, anh nguyễn Minh Tâm đã lên sân khấu điểu khiển một ban hợp ca, với nhân dáng của một nhạc trưởng một đại ban hoà tấu có tầm vóc quốc tế.

Anh Nguyễn Minh Tâm còn là người sáng tạo được chiếc “đàn tre”. Đặc điểm của chiếc đàn tre của tù nhân cải tạo Nguyễn Minh Tâm được sáng tạo ngay trong trại tù Cộng sản và “nhạc sĩ” Nguyễn Minh Tâm đã qua mặt được cả bọn quản giáo, Công An Cộng Sản Bắc Việt bằng cách đã ký thác vào chiếc đàn tre đó cả tấm lòng, tâm sự u uẩn của kiếp lao tù, hàng ngày chịu đựng, chứng kiến bao nỗi bất công và chua xót…

Anh Nguyễn Minh Tâm cho biết anh đã sáng chế ra chiếc đàn khoảng đầu năm 1976, khi anh đang bị Cộng sản nhốt trong trại tù cưỡng bách lao động, hạ nhục nhân phẩm ở Thanh Bình, Thạnh An ở Pleiku. Đây là vùng cao nguyên khí hậu thật xấu, luôn có mây mù, mưa phùn và tiết trời rất lạnh lẽo.

Cùng một bạn tù, cũng rất giỏi về âm nhạc, là anh Nguyễn Hữu Đức,anh Nguyễn Minh Tâm sẵn dịp mỗi ngày có nhiệm vụ “đẵn tre đốn gỗ trên ngàn”, đã nghiên cứu sáng tạo chiếc đàn tre. Anh nói:

-Anh chỉ nhìn thấy chiếc đàn tre thật thô sơ này, với cái… hộp thiếc đựng bánh (loại biscuit) vứt thùng rác ở đâu cũng có, nhưng muốn thành hình như vậy, và có được âm thanh như ý, chúng tôi phải mất đến… 6 năm. Sáu năm, với bao kỷ niệm. Bởi, sáu năm phải … nằm trong lao tù, chịu đựng bao gay go thử thách, bụng lúc nào cũng đói, không có áo ngự hàn, có khi run lên, đánh bò cạp như đang làm cứ bị rét, bị nhiều chứng bịnh ngoài da, kiết lỵ, tiêu chảy…

Nói đến đây, Anh Tâm thở dài như nhớ lại những kỷ niệm lao tù với các bạn cùng cảnh nghộ, nay tứ tán bốn phương trời. Hoặc giả, có người vẫn còn bị giam giữ, hay có người vĩnh viễn gởi thân nơi rừng núi cao nguyên , dưới từng lớp đất đỏ phẳng lì, không bia mộ. Đoạn, anh chép miệng:

-Cũng may tôi không chết. Cho nên chiếc đàn tre mới còn.

-Trong chốn lao tù, chắc anh và người bạn kia đã sửa chữa chiếc đàn này, nhiều đợt?

-Anh Nguyễn Hữu Đức và tôi đã làm rồi lại huỷ, vì âm thanh không hoàn chỉnh. Đến mấy lượt mới tạm gọi là dùng được. Mãi đến khi tôi đến trại Palawan, ở Phi Luật Tân, tôi mới làm được chiếc đàn tre vừa ý. Bởi, tre của Phi có phần tốt hơn tre ở Pleiku, và cũng thật nhiều vô số kể. Mặc sức mà đốn tre để chọn lựa. Cuối năm 1982, khi sang Úc, đầu tiên tôi ở Sydney, tôi đã sửa cầu trục lại cho tốt hơn và cũng từng đem chiếc đàn tre này trình diễn cho đồng bào được chứng kiến và thưởng thức.

-Nhạc sĩ Phạm Duy và Julie Quang có qua đây, anh có đưa cho nhạc sĩ Phạm Duy và cô Julie xem chiếc đàn tre của anh không?

-Dạ có. Tôi có mời nhạc sĩ Phạm Duy đến nhà và có đàn cho nhạc sĩ lão thành Phạm Duy nghe nữa. Phạm Duy khuyên tôi nên phát triển cây đàn theo chiều hướng Âm giai ngũ cung để dễ diễn tấu những bản nhạc dân gian Việt Nam.

Giáo sư Trần Thế Lý chen vào hỏi:

-Bây giờ anh Tâm hãy kể rành rọt sự việc anh đã sáng tạo ra chiếc đàn tre như thế nào cho anh chị Nguyễn Ang Ca nghe. Rồi, anh phải đàn vài bản cho anh chị Ca thưởng thức chứ. Có phải thế là đúng không, thưa anh chị?

Anh Tâm rót mời chúng tôi cạn tách trà nóng, rồi anh thong thả kể:

“Chiếc đàn này,ngày nay “được xuất ngoại” sang Úc, là công khó cả ở anh Nguyễn Hữu Đức. Là một sĩ quan trẻ từng phục vụ ở miền đất đỏ Pleiku, Đức là người rất thông thạo nhạc lý, âm giai. Biểu độ dây của anh Đức, chỉ khác hơn của tôi chút ít. Nhưng anh Đức được may mắn hơn tôi là khi đưa ra sáng kiến về chiếc đàn tre, vào cuối năm 1976, anh Nguyễn Hữu Đức được trả tự do vì lý do sức khoẻ. Đến bây giờ, đã trải qua nhiều năm, tôi chưa nhận được tin tức của anh Đức. Không biết anh ấy có vượt thoát được ra khỏi chế độ Cộng Sản tham tàn hay vẫn còn kẹt lại ở địa ngục trần gian: Việt Nam?

Tôi phải ngậm ngùi bỏ lại chiếc đàn tre đã làm ở trại Thanh Bình, khi tôi bị chuyển về trại mới. Cứ mỗi lần đến trại mới là tôi cố gắng đem về khúc tre hầu biến chế ra chiếc đàn tre. Bởi thế cho nên, những bạn nào từng ở tù chung với tôi ở các trại 3, tổng trại 4 ở An Trường, tỉnh Bình Định hoặc trại 51, tổng trại 5 ở Củng Sơn vào năm 1978-79 hay trại A30 ở Tuy Hoà (Phú Yên) từ năm 78 đến năm 81 đều biết rõ lịch sử chiếc đàn tre của tôi.

Lẽ tất nhiên, khi vượt biên, tôi đâu có thể ôm kè kè chiếc đàn tre đi theo cho được. Cũng may cho tôi, là tôi được đưa về Phi Luật Tân, xứ có nhiều tre. Tại đây, tôi đã làm lại chiếc đàn tre và đã có dịp trình bày, phát thanh cho đồng bào ở trại tỵ nạn Palawan nghe. Vào tháng 7 năm 1982, tôi cũng có đàn chiếc đàn tre cho các đại diện của Phủ Cao Uỷ Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc thưởng thức. Khi giã từ Phi Luật Tân đến Úc, tôi có mang chiếc đàn mà tôi làm ở Phi sang.

Vì chiếc đàn tre mà tôi đã bị Việt Cộng tra tấn và nhốt vào nhà cùm tại trại A30 (Tuy Hoà).

Nhớ lại vào ngày Tết Độc Lập của Cộng Sản, tức ngày Quốc Khánh của Nguỵ quyền Hà Nội là ngày 2 tháng 9 năm 1979, tên chỉ huy trưởng trại tù A30 ở Tuy Hoà, Phú Yên ra lịnh là tất cả tù nhân nào có năng khiếu nghệ thuật, đều được miễn lao động. Bù lại, những anh em đó phải biến chế ra các mỹ nghệ phẩm từ các cây, gỗ ở rừng hầu triển lãm cho quan khách xem. Chúng tôi biết là năm đó, có cả phái đoàn quan khách người nước ngoài đến tham quan nữa. Giới lãnh đạo nguỵ quyền Cộng Sản có mục đích phô trương các tay nghề của cải tạo viên để quảng cáo là đa số đều học tập tốt, lao động tốt, cùng thi đua sáng kiến, sở năng để phục vụ cho Đảng và Nhà Nước Cộng Sản bất cứ trong hoàn cảnh nào.

Các tên quản giáo đã buộc tôi phải đem chiếc đàn tre đã làm sẵn (không có nghỉ lao động) ra biểu diễn ở đêm văn nghệ liên hoan trước 4.500 tù nhân và phải đem chiếc đàn tre ra triển lãm, thi đua với các mỹ phẩm của các bạn tù khác.

Điều bất ngờ nhất là khi chấm giải, chiếc ‘đàn tre’ của tôi đã làm một cách hết sức thô sơ, lại được chấm hạng nhất. Phái đoàn Sô Viết từ Moscow (Cộng sản đọc là Mát-xcơ-va) đến đã xem và bảo tôi đàn cho nghe thử.

Sau phái đoàn Nga, đến phái đoàn ca kịch Dương Vân Nga (chắc quý vị còn nhớ vì vở hát “Thái Hậu Dương Vân Nga” mà nữ nghệ sĩ tài danh Thanh Nga đã bị ám sát chết một cách tức tưởi cùng chồng là Đổng Lý Văn Phòng Bộ Thông Tin: Luật sư Phạm Đăng Lân). Riêng nữ nghệ sĩ tài hoa của Hà Nội là Tường Vi sau khi nghe qua âm thanh của chiếc đàn, đã hết lời khen ngợi, mặc dù lúc đó ít ai dám công khai bày tỏ cảm tưởng với một tù nhân gốc “nguỵ”.

Có lẻ do lời phê bình của đoàn nghệ sĩ Dương Vân Nga và nữ nghệ sĩ Tường Vi, nên tên Trung tá Cộng sản Hạnh mới ra lịnh cho tôi phải tham gia vào Ban Văn nghệ, đi lưu diễn ở các tỉnh. Trưởng ty Công an tỉnh Phú Khánh, lúc đó là Đại cũng dỗ ngọt tôi, ráng tích cực tập luyện để được dự cuộc thi đua toàn quốc. Y chắc chắn rằng, khi nghe tôi đàn chiếc ‘đàn tre’, danh dự sẽ chắc về chung cho cả tỉnh: Đoạt huy chương vàng.

Lần đầu, tôi viện lẽ đang bịnh. Lần sau, tôi cũng tìm cách thoái thác. Chúng tới, đến 5, 6 lần. Nhưng, tôi nhất định phải từ chối, dù biết rằng nếu tham gia đội văn nghệ tôi được ăn uống đầy đủ hơn, khỏi phải bị cưỡng bức lao động đến bở hơi tai, mòn cả sức. Chắc chắn là bọn Cộng Sản tìm đủ cách đổ trút lên đầu tôi tất cả sự thù hận, nhưng bên tai tôi lại văng vẳng như có tiếng nói của lương tri, của hương hồn những bạn đồng ngũ của tôi, bạn tù chung cảnh ngộ với tôi, từng gục ngã: “Tâm ơi, mày không thể hèn nhát, chịu khuất phục kẻ thù biến ra là một con cờ trong công tác tuyên truyền cho kẻ thù sát nhân cướp bóc.”

Lòng dặn lòng, phải giữ vững tinh thần trước ngọn đòn thù sắp tới. Quả nhiên, bọn quản giáo Cộng sản gán cho tôi tội “chống đối cách mạng” nên tống tôi vào nhà cùm. Sau đó, Cộng sản còn truy tôi ra thêm cái tội “dám chơi nhạc nguỵ” trong nhà tù, nên đã hành hạ, sỉ vả, bỏ đói tôi.

Tôi là người Công giáo. Tôi có giấu đút được sách lễ, Thánh Kinh nên ở một chiều Chúa nhật nhằm mùa Giáng Sinh, khi nghỉ lao động, tôi đã đàn nhạc Giáng Sinh không lời cho anh em cùng nghe. Khi 4 tên công an áo vàng Cộng sản cùng 3 tên trật tự viên xông vào bắt tôi, thái độ của chúng cực kỳ hung hãn, nhưng nhờ chiếc đàn tre từng được giải hạng nhất, tức có thành tích, nên chúng không đập phá, chỉ tịch thu tất cả sách đạo, và Thánh Kinh của chúng tôi. Nhiều anh em đã phải phát khóc, vì những sách đạo đó, chẳng khác nào điểm tựa tinh thần mà anh em chúng tôi đã âm thầm cất giữ từ nhiều năm tháng, đã theo chúng tôi ở qua nhiều lần đổi trại…”

Trước khi dạo đàn cho chúng tôi nghe, anh Nguyễn Minh Tâm đọc lại bài giới thiệu của đài phát thanh 4EB của Tiểu Bang Queensland, trong buổi phát thanh giới thiệu chiếc ‘đàn tre’ của Nguyễn Minh Tâm với đồng bào ở thủ phủ Brisbane.

Điểm độc đáo của cây đàn, là: đàn được làm bằng tre, thứ tre ngày xưa Vua Phù Đổng dùng để đuổi giặc Ân, thứ tre bao quanh làng xã Việt Nam, đã cùng với người Việt Nam chống giặc ngoại xâm, chống lại đồng hoá, thứ tre đã làm tròn đạo quốc phòng, trong suốt quá trình dài của 4 ngàn năm lịch sử, của dân tộc. Tre Việt Nam đã được phổ cập trong đời sống của người dân Việt Nam. Và bây giờ, nó được dùng để thực hiện một khía cạnh nhỏ của văn hoá Việt Nam, một khiá cạnh sinh hoạt tâm linh của dân tộc Việt.

Khi âm thanh từ tiếng đàn tre của nghệ sĩ Nguyễn Minh Tâm phát ra, nghe lạ lùng một cách thích thú: một phần hao hao giống tiếng piano, một phần giống đàn tranh, cũng có phần giốn đàn Harp … Nếu ta nhìn thấy cây đàn trước mắt, khó nghĩ ra là cây đàn có thể phát ra âm thanh như thế. Hoặc ngược lại, ta chỉ nghe âm thanh mà thôi, có lẽ khó tưởng tượng nó phát ra từ một nhạc cụ hết sức đơn sơ như thế. Cây đàn tre còn dạt dào tình cảm, pha trộn hoà lẫn chẳng khác nào khi chúng ta vừa nghe tiếng đàn tranh của Bảy Bá vừa tiếng độc huyền cầm của Chí Tâm. Dư âm rất ngọt, tiếng tơ đồng như bắt người nghe phải nhớ lại những gì mà tâm tư bị cuộc sống lấn áp, nên đã xếp xó, tạm quên… nay có cơ hội bừng sống lại trong lòng, khiến tim mình như bị bàn tay phũ phàng, bóp nghẹt.

Nhìn anh Tâm, dưới vầng trán cao gần như hói, tôi thấy có những làn gân nhỏ. Nhạc sĩ đang để hết tâm hồn vào âm thanh, như muốn mượn âm thanh nói hộ mình bao nhiêu điều đáng nói, phải nói. Phải chăng Tâm là người vì khao khát âm thanh, mượn âm thanh thay lời đổi trao cùng nhân thế, nên anh mới hì hục sáng tạo ra âm thanh giữa vòng lao lý, rất nghèo về âm thanh và mầu sắc? Nhà văn, nhà báo mượn lời văn để diễn tả ra tâm hồn, thì Nguyễn Minh Tâm cũng như bất cứ nhạc sĩ nào trên thế giới, đều đã sử dụng âm nhạc làm ngôn từ. Một thứ ngôn ngữ đặc dị, đặc thù. Một thứ ngôn ngữ chẳng khác nào loại kịch câm, nhưng lại diễn tả tình cảm một cách sâu đậm, tế nhị nhất, vì diễn tả… tình cảm một cách trọn vẹn: khổ đau, chán nản, tuyệt vọng, ê chề, phẫn uất và quật khởi.

Tôi nhìn lại những ngón tay của Tâm. Tâm đang nhấn mạnh từng đường tơ. Ngón tay chắc đã bị chai lì vì đã trải qua hơn 2 ngàn ngày lao động rồi, còn gì nữa! Những ngón tay đó chắc đã nhiều lần thay lưỡi cày, lưỡi cuốc và bao lần bị thương trong việc xâm, xắn từng mảnh đất để tìm mìn, bom? Khó đoán tuổi của Tâm quá! Có lẽ, Tâm độ 37, 38 tuổi. Mà cũng có thể anh trên 42, 43. Khi con người đã bị nhiều thử thách, trải qua kiếp tù có đến 8 phần chết, 2 phần sống mong manh thôi, lẽ tự nhiên phải già trước tuổi. Tự nhiên, tôi nhìn Tâm bằng đôi mắt cảm phục và ngưỡng mộ. Bởi, trong cảnh cùng cực, sinh mạng con người thua thú vật, có lắm nhà trí thức bằng cấp cao, nhiều sĩ quan huy chương đỏ ngực, lon lá lớn, lại vì yếu tinh thần, vì nhẹ bóng vía, đã… cam tâm đầu hàng, khuất phục kẻ thù, bằng cách đã chịu làm …”ăng-ten” cho chúng, kẻ vạch chúng bạn, điềm chỉ không công cho nguỵ quyền Cộng sản thì…Tâm đã tự tạo cho anh một điểm tựa: Khi sáng tạo ra chiếc đàn tre, Tâm đã giải toả được phần nào nỗi uất hờn của kiếp tội tù không ngày mai, khi có thật nhiều bạn bè mình phải chết, chết với nhiều hình thức.

Và, cũng nhờ chiếc đàn tre, Tâm đã chứng tỏ cho kẻ thù, chúng biết rằng: Người sĩ quan cấp uý Việt Nam Cộng Hoà tuy tuổi còn trẻ, không thâm niên quân vụ, nhưng nếu so sánh tinh thần bất khuất, việc sáng tạo, thì … há để chịu thua bất cứ sĩ quan nào khác, ngay cả với các sĩ quan Cộng sản, hay sao?

Đề nghị với các Hội Cựu Quân Nhân Việt Nam Cộng Hoà khắp nơi: Ở các ngày đại hội, họp bàn, hay lễ quân lực 19-6, chúng ta phải làm sao mời anh Nguyễn Minh Tâm góp mặt trong chương trình văn nghệ của Quý Hội. Với chiếc đàn tre của Nguyễn Minh Tâm, khi nghe anh sử dụng, nếu được thêm lời thuyết trình của các xướng ngôn viên, chắc chắn rằng quan khách ngoại quốc vô cùng khâm phục tinh thần, ý chí của quân nhân Việt Nam Cộng Hoà, bất cứ ở đâu, và trong hoàn cảnh nào.

Chúng ta cũng có dịp giới thiệu cùng người Việt Nam chúng ta một tài năng, một thanh niên có tinh thần quật khởi và can đảm: Nguyễn Minh Tâm.” (Nguyễn Ang Ca – Một tài năng gương mẫu của Úc Châu: Nguyễn Minh Tâm với chiếc đàn tre đặc sắc, báo Việt Luận 31-5-1985, tr.40)

Thế đó, chuyện xảy ra hồi đầu thập niên ’80, khi tác giả cây “đàn tre” mới chân ướt chân ráo, đặt đến bến bờ Úc Châu. Từ đó đến nay, nghệ phẩm “đàn tre” vẫn toạ lạc nơi hành lang nghệ thuật, ở thủ đô của nước Úc. Và các chuyên gia quản thủ nghệ phẩm, vẫn tiếp tục điều nghiên và bảo trì thành phẩm hiếm quý này, để nó không bị mai một cả về hình tượng lẫn âm thanh. Một trong các chuyên gia có trọng trách/chức năng, cô Jennifer Wilson thuộc Viện Bảo Tồn Nghệ Thuật Úc, đã có giòng chảy giới thiệu nghệ phẩm của Nguyễn Minh Tâm, qua bài viết trên mạng NMA Canberra, như sau:

“Đàn tre, Câu truyện âm nhạc di dân: cuộc Hội ngộ của truyền thống Âu-Á

Nghệ phẩm đàn tre là một khí cụ âm nhạc bằng tre, sản phẩm thủ công do anh Nguyễn Minh Tâm, một di dân tị nạn người Việt ở Úc, sáng tạo.

Gợi hứng từ các truyền thống âm nhạc Châu Âu và Châu Á, nghệ phẩm đàn tre được anh Minh Tâm chế tạo từ hồi anh còn tạm dung ở trại tị nạn Phi Luật Tân, sau ngày anh vượt thoát, rời Việt Nam.

Cây Đàn tre đã theo anh trong hành trình đặt chân đến Úc, năm 1982.

Nhìn về thể chất, cây đàn này cao không đầy một mét. Nó gồm 23 giây dính liền trên ống tre già, mà đầu ngọn của khúc tre được tiếp nối với thùng cộng hưởng bằng kim loại khi trước dùng để đựng dầu ô-liu, nay được sử dụng như chân đế, gây âm hưởng.

Quản thủ Viện Bảo Tàng Nghệ Phẩm là cô Jennifer Wilson đã có dịp phác hoạ phương cách mà nhạc cụ này ôm trọn trong lòng, để nói lên một truyện kể đầy những cảm xúc về một hội ngộ lạ kỳ, giữa các truyền thống. Và, về một cuộc sống có đổi thay, sau ngày cuộc chiến chấm dứt.

Âm thanh của Câu Truyện Âm Nhạc độc đáo này, được thu gọn vào băng diã để ở hành lang Huynh đệ toạ lạc trong Viện Bảo Tàng Quốc Gia Úc, ngày 8 tháng Tám năm 2007.

Mới đây, vào độ tháng 5/2008, trong chuyến gặp mặt hi hữu với người bạn mới quen ở Canberra thuộc Hiệp Hội Các Nhà Sản Xuất Nhạc Cụ ở Úc, anh Minh Tâm đã có dịp hàn huyên gặp gỡ người viết nhạc lão thành, đồng thời là nhà sản xuất nhạc cụ người Úc, Pat Sephton, ở trên đó. Hai tác giả, trò chuyện rất tâm đắc về kinh nghiệm sáng chế ra các nhạc cụ, ở Úc. Về lại Sydney, anh Minh Tâm nhận được một bài viết xuất hiện trên tờ JAAMIM, nội san xuất bản từng kỳ của Hiệp Hội, trong đó có bài viết của Pat Sephton với tiêu đề: “Nguyễn Minh Tâm và cây “Đàn Tre”, như sau:

“Thông thường, chúng tôi ít có khi nào đậm ghi chi tiết về quá trình bản thân hoặc lý lịch của thành viên mới/cũ trong Hiệp Hội các Nhà Sản Xuất Nhạc Cụ, tại Úc. Nhưng, trường hợp anh Nguyễn Minh Tâm đây là một ngoại lệ.

Trong chiều dài lịch sử chiến tranh Việt Nam, Nguyễn Minh Tâm là một sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, mãi đến khi anh bị đội quân thù địch bắt giữ, nhốt trong trại ‘xà-lim’, chỉ một vài tuần trước ngày Sàigòn sụp đổ. Tại đây, anh đã trải qua những năm tháng giữa đời, sống trong hoàn cảnh khắc khổ của trại tù tàn bạo, như một người tù khổ sai, trong rừng già. Ở nơi đây, người tù khổ sai chỉ biết có lao động và lao động. Suốt ngày vào rừng già chặt tre, đốn gỗ góp nhặt cho dân quân cán bộ miền Bắc xây nhà trại, trú ngụ.

Thời đó, các trại viên chẳng bao giờ đủ thức ăn, để sống còn. Nên, một số đồng sự của anh đã phải bỏ mạng tại bìa trại như một chứng tích của chế độ hà khắc, bức tử. Một trong những phương cách giúp anh Nguyễn Minh Tâm có thể sống sót sau nhiều năm dài cực khổ, là tình yêu âm nhạc của anh. Anh yêu cả nhạc Việt lẫn nhạc ngoại quốc, rất Phương Tây.

Sau một thời gian dài tàn tạ, anh đã vươn mình, tự vực dậy để sống sót. Anh cũng tự nhen nhúm, dấy lên trong đầu cái ý định hiếm có, là: chế tạo một dụng cụ âm nhạc, ít người biết. Anh đã bỏ ra một thời gian khá dài để điều nghiên, sáng tạo. Chí ít, là tìm cho được từ núi rừng trùng điệp miền cao, các chất liệu giản đơn, dễ tìm, hầu thực hiện công trình tuyệt tác, rất hiếm.

Trong gian nan lao động giữa rừng già chốn đồi cao, Nguyễn Minh Tâm đã tìm cách mang về nhà trại, khúc tre già một thước, để làm thử. Và, anh phải giấu nó thật kín sau lán trại. Nguyễn Minh Tâm cứ hì hục khoan đục nhiều lỗ trên khúc tre đẵn, dài một thước. Cài thêm vào đó, là những đinh móc đặt ở trên, làm cầu bắc ống tre, lên giây đàn. Về cộng hưởng, anh có sáng kiến sử dụng chiếc thùng thiếc 20 lít, đựng dầu ăn do Trung Quốc sản xuất, vẫn cung cấp cho binh đội Miền Bắc Việt Nam, như một viện trợ. Phần giây đàn, Nguyễn Minh Tâm đã nghĩ đến việc sử dụng dây cáp điện thoại mầu đen của quân đội Hoa Kỳ bỏ lại: bên trong có 7 sợi dây: 3 sợi cứng và 4 sợi mềm. Nguyễn Minh T6am đã dùng 3 sợi cứng làm dây đàn cho tất cả hệ thống 23 dây của cây đàn tre của anh..

Ngày “N” đến, chính là lúc tác giả gấp rút kiện toàn phần thiết kế. Nay hồi tưởng, tác giả nhớ lại những thanh âm xuất phát từ thùng cộng hưởng, mang dáng dấp âm hưởng lưng chừng giữa chiếc dương cầm, cây tam thập lụcđàn hạc của Phương Tây.

Ba năm sau, anh phải di chuyển hết nhà tù này đến trại tập trung, khác. Nơi nào, người tù khổ sai như anh, cũng bị nhồi nhét trong đầu những tư tưởng lạc lõng mà người quản trại có thói quen gọi nó bằng danh từ “cải tạo”. Theo anh, muốn tiêu hoá những điều được nhồi nhét, anh phải được thay tim ghép não, mới có thể thấm nhuần các tư tưởng tuyên truyền lạc lõng, mà các người quản tù thời ấy vẫn gọi là “cải tạo”, mới được.

Nguyễn Minh Tâm mãn hạn tù vào năm 1981. Ít lâu sau, anh vượt thoát bằng thuyền băng qua biển Đông và cặp bến bờ Phi Luật Tân, đầy phép lạ. Anh đặt chân lên trại tỵ nạn, sống ở đây 17 tháng, trước khi định cư chính thức, tại Úc. Trong hành trình sống tại trại, anh đã tái tạo sao bản đàn tre anh làm từ hồi còn sống ở Palawan, Phi Luật Tân.

Từ ngày đến Úc, Nguyễn Minh Tâm đã có dịp trình diễn âm nhạc bằng đàn tre anh làm, trên truyền hình và các đài phát thanh nơi anh cư ngụ. Nhưng, hồi tưởng sống động tạo âm vang sầu thảm và thấm thiá nhất, vẫn là: những buổi hoà nhạc/dạo đàn anh từng cống hiến cho anh em đồng cảnh, cũng như cai tù. Cả vào lúc, anh buộc lòng phải trình diễn cho mọi người, bạn cũng như thù, theo lệnh của tay trưởng trại, trước một cử toạ đông đến cả ngàn người.

Kể từ đó, sản phẩm Đàn Tre được hiến tặng như báu vật hiếm quý cho Viện Bảo Tàng Quốc Gia ở Canberra, Úc. Nghệ phẩm này, sẽ được triển lãm cho công chúng xem, vào cuối 2008.

Chúng ta hân hạnh mừng đón Nguyễn Minh Tâm, nay gia nhập Hội của chúng ta.

Hỡi Nguyễn Minh Tâm, chúng tôi hân hoan chào mừng Anh, người anh mới đến.”

(Pat Sephton, JAAMIM Journal of the Australian Association of Musical Instrument Makers Inc., Vol. XXVII No 2 June 2008, p. 28)

Read Transcript

Listen Audio MP3

View Youtube Video 1984

Được biết, vào hạ tuần tháng Giêng 2009, Viện Quốc Gia Bảo Tồn Nghệ Thuật Úc sẽ trưng bầy nghệ-phẩm của Nguyễn Minh Tâm để công chúng được thưởng lãm, trong suốt 10 năm sắp tới, kể từ ngày 29 tháng Giêng năm 2009, có đính kèm phần âm thanh thu vào dĩa.

Thật ra, từ ngày cây đàn được biếu tặng cho Viện Quốc Gia Bảo Tồn Nghệ Thuật Úc năm 1990, đã có những cuộc triển lãm ngắn hạn như sau:

Năm 1990: Trưng bày triển lãm tại Viện Quốc Gia Bảo Tồn Nghệ Thuật Úc;

Năm 1992: Trưng bày triển lãm tại Tối Cao Pháp Viện ở Canberra

Năm 1992: Trưng bày triển lãm tại Bảo tàng Địa Phương vùng Fairfield, NSW.

Phóng viên nội san Duc In Altum và trang nhà “GiaĐìnhAnPhong” hẹn sẽ tháp tùng người anh em nghệ-nhân Nguyễn Minh Tâm, vào ngày ấy. Và xin hẹn, sẽ có bài tường thuật với bà con, nhân dịp này.

An Phong Maria Trần Ngọc Tá,

Thành viên Gia Đình An Phong, ở Sydney.

No comments: