Sunday, 20 September 2020

Suy niệm Chúa Nhật thứ 26 thường niên năm A

 

    “Khi ấy Đức Giêsu nói với các thượng tế và kỳ mục trong dân rằng: “Các         ông nghĩ sao: Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ     nhất: "Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho." Nó đáp:"Con không         muốn đâu!" Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. Ông đến gặp người thứ     hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp:"Thưa ngài, con đây!" nhưng rồi lại             không đi. Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người             cha?"Họ trả lời:"Người thứ nhất." Đức Giêsu nói với họ:"Tôi bảo thật các     ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa         trước các ông. Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông,         mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái     điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi các ông vẫn không chịu hối     hận mà tin ông ấy."(Mt 21: 28-32)

“Ở cũng bâng khuâng, đi chẳng đành,”

“đêm trời, sao cũ sáng long lanh.”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Bâng khuâng đi chẳng đành, nên người đời có ra đi nhưng miệng mồm nào đã nói. Đêm trời sáng long lanh, nên đời người dù có hứa, nhưng chân mình rày chẳng buớc. Chẳng bước đi, dù miệng mình vẫn cứ nói. Nói và làm, trình thuật thánh sử viết hôm nay.

Trình thuật thánh Mát-thêu nay kể về dụ ngôn hai người con có những lời lẽ và lập trường thực hiện rất khác biệt. Cả hai hành xử kiểu đối nghịch. Người con đầu nói mình sẽ không làm điều cha muốn, nhưng cuối cùng vẫn thực hiện. Còn người kia, tuy nói làm nhưng lại không thực hiện lời mình nói. Tức, một người những nói và nói, nhưng không làm. Còn người kia, vẫn làm mà không cần nói. Dụ ngôn đây cho thấy: chính hành động nói nhiều hơn lời nói, ngoài cửa miệng.

Thời của Chúa, dụ ngôn được dùng như huấn dụ để khen ngợi những người hành động thiết thực hơn là nói. Bằng dụ ngôn này, Chúa bênh vực đám người bị khích bác, chê bai như đám đĩ điếm, dân thu thuế bệ rạc hơn giới thượng lưu, Pharisêu, ký lục chỉ nói và nói chứ chẳng làm gì để đổi thay con người mình. Thời của thánh Mát-thêu sau đó, dụ ngôn còn được dùng để đề cao người ngoại đạo hơn một số người Do thái cứ tự hào mình chuyên chăm đạo hạnh. Thế kỷ 20 lại dùng dụ ngôn hôm nay nhằm nâng đỡ đám người nghiện ngập dám làm sửa đổi chính mình hơn những người chỉ những nói và nói, khiến người khác bị khùng điên.

Áp dụng vào nhà Đạo, thấy dân con Đạo mình nhiều lúc có cả hai. Tức, nhiều khi ta những nói và nói, mà không làm. Có những lúc, ta vẫn làm mà chẳng nói, lấy một lời. Điều này làm ta nhớ về nhân vật trong phim dài nhiều tập có đầu đề “Cha Phó Xứ Đạo Dibley” luôn bắt đầu câu nói của ngài bằng những tiếng “Không! không! và không!” để rồi sau đó kết thúc bằng chữ “Có”. Có làm thực. Có hợp tác. Và đôi lúc nghĩ lại thấy mình từng nói “Có! có! Nhất định sẽ làm”, nhưng cuối cùng vẫn thành: Không! Không làm. Và cũng chẳng làm điều mình từng nói từng hứa, giống nhiều người trong ta.

Đi vào thực tế, giống truyện kể về cuối buổi lễ, các vị chủ tế có thói quen đứng ở cuối nhà thờ nói năng chào hỏi hết mọi người. Có lần, vị linh mục hỏi một giáo dân: tuần sau có đi lễ không đó? Rất nhiều người cứ trơn tru trả lời: “Dạ thưa cha, có chứ!” Thưa thì thưa “có”, nhưng các tuần sau đó lại khó mà thấy mặt vì nhiều lý do. Chính đó, là hiện trạng của người đi Đạo ở trời Tây, hôm nay. Hôm nay đây, có thể cũng có người lúc đầu tình thật không dám nói, nhưng sau đó suy đi nghĩ lại, vẫn cứ đến. Có người coi đây là chuyện linh mục không nên hỏi, vì ai nào dám thưa.

Nghiên cứu khảo sát hôm nay nhiều khi cho thấy: thế hệ trẻ hôm nay, và cả người cao niên cũng thế, lại cứ tính chuyện lời lãi mỗi khi được hỏi, ở nhà thờ hay ngoài ngõ, về bất cứ chuyện gì cần lấy ý kiến. Nói chung, nhiều người chỉ muốn dính dự vào các cuộc khảo sát với phỏng vấn khi biết mình chắc chắn có được lợi lộc, nếu trả lời. Tức là, họ chỉ muốn làm người dưng, trên trời rơi xuống. Chẳng muốn dính vào chuyện gì, dù thuộc vấn đề trong Đạo. Quần chúng hôm nay ra như lạc lõng ở đâu đó. Chẳng muốn ai ngó ngàng hỏi han mình điều gì, dù là ý kiến riêng tư. Kín đáo. Hoặc ép buộc. Khi xưa, ở phương Tây, các linh mục còn có thói quen đến từng nhà thăm viếng, hỏi han về cuộc sống của mỗi người. Ngày nay, làm thế tức vi phạm đời tư, rất nguy hiểm và dễ bị ra toà.

Nhiều năm về trước, mỗi khi có đề tài cần hỏi han góp ý hay tranh luận ở giáo xứ, còn có người chủ trương phóng khoáng. Bảo thủ. Hoặc trung lập. Ngày hôm nay, lại đã thấy những người như thế đi đâu mất. Hoặc, họ còn đó nhưng chẳng thiết tha gì chuyện bàn luận hay tranh đấu cho sự sống còn của Hội thánh. Nói chung, người đạo hạnh hôm nay không còn muốn dính dự vào chuyện chung của Hội thánh. Nhiều vị vẫn lành thánh, chuyên chăm chuyện lễ lạy, đạo hạnh. Nhưng không còn thiết tha chuyện tham gia nhóm hội đoàn thể có sinh hoạt tập thể, năng nổ tích cực. Mà chỉ muốn rút vào vỏ sò, sống riêng rẽ, cho khoẻ.

Nhiều người nhận ra rằng: thế giới nhà đạo họ đang sống nay khác trước rất nhiều. Khác nhiều thế giới của người phàm thực tế luôn trong sáng. Đầy dẫy thông tin. Đủ mọi chọn lựa. Nên, họ vẫn hết mình với mọi người. Nơi sở làm, ngừời người đều hăng say trách nhiệm. Vẫn cứ làm, vì chuyện chung. Nhưng trong Hội thánh, nhiều người đã bắt đầu ít nói. Không cà kê như trước. Dù, chuyện hội đoàn. Thế nên, khi hỏi:

Anh/chị tính sao? Có định tham dự chầu Thánh Thể thứ sáu này chứ?

Câu trả lời thường là:

“Không dám đâu! Tụi này bận lắm. Chẳng kiếm đâu ra giờ, để đi chầu!”

Nếu hỏi:

“Anh/chị tính sao? Có định tham gia biểu tình phản đối đôi ba chuyện chính phủ làm không?”

Câu trả lời, chắc cũng thế. Giống như người hành tinh vừa chợt ghé bến. Không chuyện trò, cũng không trao đổi. Chẳng bước đi về nhiều phía.

Dụ ngôn hôm nay, câu Chúa hỏi cũng tựa như thế: “Các ông nghĩ sao?” Hỏi như thế, không có nghĩa Chúa yêu cầu ta bắt chước những người chỉ biết nói chứ không làm, hoặc chỉ làm chứ không nói. Chúa không có ý khen ngợi hai lớp người nói ở trên. Ngài cũng chẳng giải thích sao Ngài lại không làm thế. Hoặc, vẫn làm như thế. Ngài chẳng nói hoặc có nói, bất cứ thứ gì. Ngài cũng không đi vào chi tiết để cho biết tại sao Ngài có lập trường như vậy. Dù, lập trường đó có là bê trễ, biếng nhác. Dù, đó có là kế hoạch, hoặc cảnh tình nào đó khó đoán. Dù, đó là chuyện đáng quên đi. Hoặc, chẳng lý gì về công kia việc nọ, cần công chúng tôn trọng. Điều Ngài hỏi chỉ là: “Các ông nghĩ sao?”

Liên tưởng chuyện này, có thể ta sẽ nghĩ mình đang đi vào loại hình nào đó của Hội thánh, vào thời buổi rất khác trong lịch sử. Một Hội thánh từng đòi rất ít ở dân con trong Đạo. Đòi và hỏi, về thời gian và thiện chí. Một Hội thánh không đòi những gì là ngoại lệ, nơi con người. Một thánh hội từng học hỏi cung cách biết tôn kính hết mọi người. Tôn và kính, chuyện riêng tư của dân con nhà Đạo. Học hỏi và trân trọng, việc phục vụ họ hơn việc sắp xếp để họ phục vụ Hội thánh, mà thôi.

Phục vụ dân con, còn có nghĩa: không dùng bạo động để dính dự cuộc sống đích thực của dân con. Phục vụ dân con, còn có nghĩa: tôn trọng phẩm cách tư riêng của mỗi người. Chính đó là nền tảng của việc yêu thương lẫn nhau. Nền và tảng, của việc trở nên cộng đoàn dân con sống thân thương như thế. Nền và tảng, để dân con sống, với lập trường hăng say đi đến mà nhận lãnh Thánh Thể Tình Yêu đích thật, ngày Chúa Nhật. Đó là những người con đang sống rất khác biệt. Sống rất đẹp, ở thế giới cuộc đời, cũng rất thực. Một đời người, luôn tham gia giùm giúp rất đắc lực.

Bởi thế nên, lời Chúa ở dụ ngôn hôm nay với câu hỏi: “Các ông nghĩ sao?” sẽ là lời nhắc nhở về động thái ta phải có trong đời, với người đời. Dù, người đó có là bạn đạo hay bạn đời, cũng như thế.

Trong cảm nhận tình Ngài thương ta qua câu hỏi ấy, cũng nên ngâm lại lời thơ trên, để còn nhớ:

“Tôi cũng chưa đi hết dặm đường,

Đời dài, mới đến nửa sầu thương.

Một đêm trở bước cho lòng nghĩ,

Sao biếc rơi tàn mộng phấn hương.”

(Đinh Hùng – Đêm Khuya Trờ Bước)

 

Trở bước hay cất bước, để rồi đi. Đi rồi, sẽ nhớ lời Thầy dặn. Dù đời mình ra sao đi nữa, vẫn cứ bước. Cứ ra đi rao truyền lời Thầy vẫn hỏi và vẫn răn dạy. Để rồi, mọi người tin vào Thầy. Ở đây. Bây giờ.

 

Lm Kevin O’Shea biên soạn

Mai Tá lược dịch ________

Thursday, 17 September 2020

Suy niệm Tin Mừng CN 25 thường niên năm A 20/9/20

 

         "Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào    làm việc trong vườn nho của mình. Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ: "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng." Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ: "Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?" Mt 20: 1-6

 

“Cùng rủ nhau về góp một thành hai,”

“Những bưóc chân người góp đi làm đến.”

(dẫn từ thơ Nguyên Sa)

 

Rủ nhau về góp sức, góp cả “những bước chân người đến”để cùng làm, là tình huống vẫn thấy có, ở đời thường. Tuy cùng làm, nhưng mỗi người lại hưởng lương tiền khác biệt, đó mới là tình huống bất ưng của công nhân thợ thuyền được thánh sử kể lại ở trình thuật, rất hôm nay.

Trình thuật nay kể, là kể về dụ ngôn có tình tiết/lớp lang rất đời thường, ở mọi thời. Một thời, có đám công nhân càm ràm về công bằng với công lý mà người chủ thực hiện. Người chủ ở đây, quyết hiện thực đường lối chi trả rất khác lạ của riêng ông. Vào cuối ngày, ông gọi những người đến làm việc vào giờ chót và cho họ trọn lương hướng của nguyên ngày. Đám thợ này, không phản đối đã đành và mừng khen chủ mình nhân hiền, rộng lượng. Họlẳng lặng chấp nhận. Còn, đám thợ làm nguyên ngày cũng chỉ nhận bấy nhiêu thôi. Bởi thế nên, đó mới là duyên do ta nghe có tiếng phản đối đường lối xử sự khá bất công của người chủ.

Cứ tưởng tượng tình huống trong đó có người đứng suốt ngày ở đầu đường để tìm việc. Hoặc, những người cứ lân la nơi phòng tuyển dụng hoặc cơ sở từ thiện hòng được giúp đỡ, nên nếu có ai gọi tên mình vào giờ phút chót, cũng rất cám ơn. Thế nên, mấy người này thấy mình hạnh phúc hơn bao giờ hết. Bàn cãi chi cho nhiều, ai cũng thấy là những người lâu nay để mấtđi niềm hy vọng, nay được gọi đến cho việc làm, lại được trả lương hậu hĩnh, thì quả là không hạnh phúc nào lớn hơn thế.

Hãy liên tưởng đến trường hợp khác, trong đó có người thợ suốt ngày đổ mồ hôi sôi nước mắt, sẵn sàng chấp nhận đồng lương ít ỏi để sống qua ngày. Và người đó còn phải lo cho gia đình nheo nhócđang trông chờ mình về. Thợ như thế, hay tính toán giờ giấc, giá cả cũng như loại hình lao tác mình có thể làm. Họ suy tính công việc có thể thương lượng được với chủ, để tiền mang về đủ nuôi sống nhiều miệng ăn. Họ làm việc có hợp đồng, luật lệ công minh như thường thấy ở nhiều nơi.

Nay, hãy liên tưởng đến người kiếmđồng lương có giao kèo/thoả thuận hẳn hòi, nhưng không tính đến khoản phụ trội, tưởng thưởng hoặc phụ thu hầu thêm mắm muối cho bữa cơm hằng ngày. Nhưng, những người này vẫn trông chờ những quà tặng không tên phụ vào ngân sách gia đình như:đồng lương tăng vì vật giá, lạm phát. Tiền mất giá. Không có các khoản này, người thợ sẽ không mấy hài lòng, dù tiền thưởng không hẳn là quà ngẫu nhiên, do người chủ rộng tay độ lượng.

Cũng nên liên tưởng đến giới thợ nào thấy mình chẳng bao giờ được hưởng những thứ đó, nên vẫn lảng vảng quanh phòng tuyển dụng, hoặc chốn nhà thờ. Những người này, sẽ hiểu công bằng/chính trực theo lẽ tự nhiên. Những điều, những lẽ ít thấy trong cõi đời. Thế nên, thái độcủa họ là thái độ của người thợ làm việc theo cách tiêu cực, nghĩa là: chỉ làm theo mức tối thiểu, chỉ bỏ vào đó đủ sức lao động của mình, thôi. Hoặc, những người suốt ngày cứ chống cằm lên bàn, khi thấy không có ai dò xét, để ý. Vì họ cứ nghĩ: mình dại gì mà làm cho lắm, chỉ lợi cho chủ, thôi.

Những liên tưởng ở trên, không chỉ xảy ra nơi sở làm hoặc công trường lao động, mà thôi. Nhưng nó vẫn xảy đến cả trong Hội thánh nữa. Xưa nay, nhiều người đi Đạo vẫn ao ước có được nhiều quyền, nhiều tiền và nhiều qui chế dễ thở để được hưởng thụ, nhiều hơn nữa. Với hàng giáo sĩ, thì nhiều vị phục vụ nhiều năm trong âm thầm/tăm tối, nay muốn về giáo xứ/họ đạo sung túc, hoặc đông đúc bổn đạo cho bõ công ngày tháng chôn vùi đời mình trong bóng tối. Nên, hễ thấy thế hệ trẻ mới ra trường lại có được chỗ tốt thơm, mới đem lòng căm tức và nhìn xuống đám trẻ bằng đầu mũi.

Với hàng ngũ giáo dân, có người lại chỉ muốn có chân trong hội đồng giáo xứ/mục vụ, để ưu tiên hưởng được nhiều thứ. Là thành viên ca đoàn, có người chỉ thích hát những lễ nào đông người dự. Hoặc, hát vào các giờ lễ thích hợp giờ giấc của mình thôi. Những người có kinh nghiệm mục vụ trong giáo xứ/giáo đoàn, thấy mình tài giỏi hơn người mà chẳng bao giờ được giao phó công việc tốt. Trong khi đó, những người được điều động từ nơi khác đến chưa từng có lấy kinh nghiệm lao tác/hục vụ, lại được giao phó những công việc khó,đòi nhiều kinh nghiệm, thấy cũng lạ.

Đời sống thiêng liêng, cũng thế.Nhiều vị ngỡ rằng chỉ mỗi mình là người được Chúa cho lên thiên đàng thẳng cánh. Những người như thế, những tưởng rằng chỉ mình họ, vốn nhiều năm chuyên chăm làm điều tốt, nên dễ bất bình khi thấy mình không được ưu đãi hơn người khác, nên nghĩ rằng Chúa cũng thiên vị, khi Ngài ban ơn lành cho kẻ xấu, tức cho cả những người chẳng bao giờ làm điều tốt lành hết. Thế nên, nhiều vị lại hay ganh tương/tị nạnh với kẻ biếng nhác chẳng lo chuyện đạo hạnh, mà vẫn được Hội thánh trọng dụng, bởi vì họ biết hoán cải, vào cuối đời.

Dụ ngôn hôm nay khuyên ta nên thayđổi não trạng vẫn có xưa nay. Dụ ngôn thử thách ta cởi bỏ những động thái/tưtưởng nào không cần thiết cho Nước Trời. Thử và thách, chuyển đảo mọi giá trị, do ta đặt ra.

Nơi thế giới của những người chỉ tính chuyện làm ăn và với các thánh hội chỉ những lo toan chuyện làm ăn/ăn làm, không bận tâm gì chuyện thiêng liêng/đạo đức của dân con đi Đạo, cũng như thế. Tức, cũng suy tính về những gì hoặc những việc không có Chúa dính dự, ngự trị. Trường hợpấy, Chúa chẳng khi nào lập toà hoá giải, cũng không có toà kháng án, hoặc văn phòng công lý/khiếu kiện, để mình xin.

Khi nghĩ rằng Chúa ban ơn lành cho hết mọi người, ai cũng hiểu Ngài ban theo kiểu rủi may, giống xổ số. Cứ nghĩ rằng, có thể là ân huệ mình nhận được chắc cũng ít, hoặc rất kém. Bởi, họ lại nghĩ:Chúa đã rộng tay ban phát cho nhiều người, thì còn đâu mà cho mình. Thật ra, ân huệ Chúa ban vẫn dư dật, tràn đầy. Dư và đầy, đến độ ai cũng có phần. Chẳng ai là người thua thiệt, tủi phận hết.

Ân huệ Chúa ban là điều ta có được ngoài mức tưởng tượng, đợi trông. Rất nhưng-không. Chúa không nợ nần gì ai. Và, ta cũng chẳng có công gì để đáng được nhận nhiều hơn người khác. Lâu nay ta nhận ân huệ dồi dào, vì Chúa thương yêu hết mọi người. Ngài yêu thương vô điều kiện. Không bớt xét. Thế nên, tất cả mọi người trước sau gì cũng được. Tất cả đều là ân huệ. Tất cả đều được ơn.

Đọc dụ ngôn hôm nay, nhiều người thường hiểu vườn nho mà thánh sử đề cập ở trình thuật, chỉ là nước Do thái hoặc thánh hội rất Công giáo. Người làm vườn, là kẻ được mời đến chốn thánh thiêng, các văn phòng hoặc thánh bộ. Thật ra, không phải thế. Chúa đâu cần thợ ở vườn nho. Ngài cũng không cần công nhân lao động ở mọi chốn. Điều Ngài muốn và cần, là mọi người được mời đến để Ngài tặng ban ơn lành, cách nhưng-không. Để rồi, ta nhắn nhủ mọi người hãy trao cho nhau tình thương yêu ân huệ ấy. Chí ít, những người đang cần được ta thương yêu.

Đó là sứ mệnh phục vụ. Đó, không là món hời dễ ăn. Nhưng, là tương quan hai chiều. Và ta được mời đến để phục vụ.Phục vụ, ở nơi ta đang sống hoặc ở chốn miền ta hoạt động rất lao lực. Bất kểta là ai. Bởi cuối cùng, rồi ra người được mời cũng sẽ ngạc nhiên/thích thú được ban và nhận ơn như thế.

Trong thời gian đợi chờ Chúa ban ơn, ta hãy trở về với công việc liên quan đến mỗi người, và mọi người. Chúa vẫn đểtâm chăm sóc đến ta khi ta kết thúc một ngày lao động đường dài. Ngài chẳng kỳthị ai, hoặc bất công với ai trong lao động. Ngài là Đấng Nhân Hiền Độ Lượng, luôn rộng ban ơn lành cho hết mọi người. Chắc chắn ta sẽ nhận dù không là những gì mìnhđáng hưởng vì công của mình, nhưng nhận rất nhiều. Nhiều hơn cả những điều ta dự đoán.

Trong cảm nhận tình thương ân huệ Chúa ban, cũng nên ngâm lại lời thơ còn dang dở:

 

“Chỉ những miệng cười góp lạ thành quen.

Góp những giọng hò làm trống ngũ liên.

Góp những bàn tay dựng thành đại hội,

Cánh tay chắp cánh tay cho dài thêm nửa với.”

(Nguyên Sa – Bài Hát Cửu Long)

 

Góp sức hay góp giọng, thành đại hội. Gạo quanh nồi, góp lại thành bữa cơm chung. Để sáng ngày làm sông làm biển. Thứ biển sông, mênh mông tình Chúa vẫn ban ơn cho hết mọi người. Ở đời.

 

Lm Kevin O’Shea DCCT biên soạn

Mai Tá lược dịch

 

Sunday, 13 September 2020

Đầm Mình Trong Vũng Tội ư?

 

Duc in Altum 113 Quí 1 -2021


                                                      LTS-

Khởi từ số này, DIA sẽ đăng tải loạt bài thần học do Gm. John Shelby Spong biên soạn và Mai Tá lược dịch có tựa đề là “Đầm Mình Trong Vũng Tội ư?” Mong quí độc giả hoan hỉ đón nhận. 

 

Đầm Mình Trong Vũng Tội

Lời Tựa

 

Nhiều người lại cứ nghĩ: chuyện tình dục xảy ra trong đời người, hãy để ra một bên, mặc dù hoặc vì lý do cho rằng: tình-dục ở con người sẽ thẩm thấu ngập tràn cuộc sống tạo ảnh hưởng lên hành-vi con người dù tốt/xấu. Tình dục, có lúc được coi là quà tặng to lớn dành cho con người, đồng thời lại cũng là điều bí-ẩn không kém quan-trọng trong cuộc sống của ta.  

Gọi là quà tặng, theo nghĩa niềm vui thú có một không hai với mọi người. Thêm vào đó, nó còn có nghĩa như điều bí ẩn ở khả-năng tiềm-tàng hủy-hoại con người và cả đến tương-quan giao-dịch của ta nữa. Bởi thế nên, cũng không lạ khi thấy tình dục là một trong các khía-cạnh khó nhất ở đời người có khả-năng thâm-nhập cách đặc biệt vào Đạo nữa.

Quí vị đang cầm trên tay cuốn sách của Gm John Shelby Spong đậm nét đặc-trưng/đặc-thù vốn khai-thác một cách thẳng thắn, xua tan mọi  bí-ẩn bao trùm các đoạn Sách thánh kết nối vai trò của phái-tính cũng như húy kỵ chống lại tình dục. 

Sự việc các học giả cứ mải tranh-cãi về những tương-đồng hoặc khác-biệt giữa phái-tính được người viết hôm nay đây tìm hiểu bằng nhãn-giới của thành-viên hệ-cấp Kitô-giáo lớn ở phương Tây. Độc giả ở đây, phải công-nhận rằng nét đan xen khiến tác-giả biện-luận về đạo-giáo với khoa-học là chuyện ít khi thấy, cả vào thời-đại tân-kỳ này nữa. Bằng việc nối kết các nhận-thức về Đạo dựa trên niềm tin cộng với hiểu biết khoa-học đặt nặng lên thực-tại, Gm John Spong quyết tạo niềm hy-vọng gửi đến nhiều người xưa nay từng nghĩ: tư-duy nào dựa trên lý-trí không được tôn-giáo lớn hoan-nghênh, vui thích.

Một giáo-sĩ can đảm lại ưa tranh-luận, đã chọn đề-tài này đưa lên bục giảng để mọi người hiểu rõ hơn. Người đọc, hôm nay cũng được chọn để tác giả nhắn bảo rằng: ta hãy thông qua mọi giả-định và sự phi-lý ở nhiều chương/đoạn Kinh/Sách, thay vào đó, hãy căn cứ phần chú-giải nền-tảng hầu đưa dẫn người đọc đi vào thế ít thiên-vị, sợ hãi và chán ngán.

Gm John Spong trước nhất là tín-hữu hăng say tin vào sự thật, một tín-hữu đầy sủng-mộ lại cũng là vị giám-mục có đầu óc cởi mở. Truyền thống Đạo Chúa cũng như Do-thái-giáo, ắt có nhiều giáo-sĩ cũng từng có tầm nhìn tương-tự như các nhà thần-học tu-đức đầy tâm-tư cảm-tức, nhưng Gm John Spong  lại đã công-khai phát-biểu rõ ràng tầm nhìn này. Ông đưa ra tầm nhìn thay thế đầy sức thuyết-phục vào thời buổi khó khăn, hôm nay.

Ông là tín-hữu có chỗ đứng, ngang qua tư-cách chứng-nhân lịch-sử cho tình thương trong Đạo lẫn lòng vị tha nơi con người. Ông cũng tin cả đến các yếu-tố can-dự vào cuộc cách mạng sinh-lý, đi từ những sự-kiện còn tiếp-tục diễn-tiến coi như hậu quả từ những tiến-bộ của khoa-học và như thế chắc chắn sẽ khơi dậy một tranh-luận đáng kể giữa các nhà lãnh-đạo tôn-giáo và các bậc thày trong Đạo. Nhưng ai có tính nghi-hoặc có thể sẽ bảo rằng: ông đã thất-bại vì đồng thời không tán-thành qui-luật xoàng xĩnh.

Đầm Mình Trong Vũng Tội ư? Đề-cập đến một số vấn-đề sống còn vốn dĩ để tâm đến sự trưởng-thành của tôn-giáo lớn sống trong một xã-hội vốn cứ coi tình-dục như thứ gì đó lẽ đáng ra phải được che đậy. Dù đầu đề ở đây có thể tạo ra một số ý-niệm có sẵn, đặc-biệt đối với những người mà sách này chủ-tâm nói với, tức: những kẻ tin. Tôn-giáo lớn hôm nay đang ở vào thời buổi phải đương đầu với chuyện tình-dục vào những năm vừa qua.

Sự việc đang diễn tiến ở đây, hôm nay, có thể gọi là sự hỗn-hợp giữa tư-tưởng theo giáo-điều và các tư-thế phản chống. Sự việc đây, được nhiều người bàn-luận về cơ-cấu tổ chức của gia-đình và trách-nhiệm của mỗi cá-nhân đang tùy-thuộc vào nhau trên một hệ-thống niềm tin không thay đổi về sứ-vụ mang tính sinh-lý của ta trên trái đất.

Bằng vào chuẩn-mực dành cho những người này, chúng ta phải phát-triển một cách hữu-hiệu, không đổi thay. Làm ngược lại, tức đã kình chống cả đến luật-lệ thiên-nhiên lẫn luật thánh. Chẳng thế mà ta không lạ gì khi thấy rằng những người từng duy-trì niềm tin-tưởng như thế luôn tỏ ra cứng ngắc rất giáo-điều về các lề-thói mới mẻ về tình-dục.

Tuy nhiên, mối lo sợ về các lề-thói dục-tình luôn luôn theo sau động-thái chẳng biết gì cả và còn có ý-niệm sai trái nữa. Thế cho nên, đơn-giản là vì chúng ta không có thì giờ để tiếp-cận vấn-đề nền-tảng này và luôn thấy hãi sợ dựa trên sự ngu si dốt nát đối với các tín-điều đã lỗi thời.

Khái-niệm cứng-ngắc đối với tình-dục con người đã thấm-nhập vào các chuyện hoang-đường/thần-thoại vốn tha-hóa và xúc-phạm nhiều người. Có lẽ đó là lý do tại sao các tôn-giáo lớn trên thế-giới, vốn mang trong mình niềm tin sai quấy, có trước thời đại khoa-học về chuyện tự-nhiên, lại khó khăn dữ dội đối với khoa-học-gia.

Là cột chỉ đường cho cuộc sống, tôn-giáo không thể coi thường bài học của thiên-nhiên: tính đa-dạng của nó là sự sáng-tạo từ Thiên-Chúa ở mức-độ cao cả nhất.

Bí-ẩn của sự sống là ở chỗ tự bản chất chúng ta đã ra khác hẳn trong khi từ bên ngoài, ta lại cứ tìm cách giữ nguyên tình-trạng tương-đồng với mỗi người. Các kỳ-công trong việc vận-dụng mầm giống, thay đổi hành-vi và giải-thích nền-tảng của chất hóc-môn để xâm lấn và thích-thú dục-tình đang mở ra trước mắt chúng ta và không còn nghi-ngờ gì nữa, chắc chắn sẽ đe-dọa niềm tin của ta thôi.

Giả như ta coi các kỳ-công này là của Thiên Chúa, chứ không phải của ta, ban cho ta như quà tặng để giúp ta sống chung với nhau, thì ta sẽ có khả-năng nhận ra rằng khoa-học có thể đóng góp rất nhiều cho tôn-giáo. Tôn-giáo không có bổn-phận phải lên án con người hoặc dùng vũ-lực làm thay đổi kết quả tiến-trình của thiên-nhiên được. Ta phải thay đổi cung cách tư-duy về con người và tình-dục. Sách của tác-giả này sẽ đem đến cho người đọc một cơ-hội để đổi-thay. Đây, là một dẫn-nhập đi vào thời đại mới.

Xưa nay vẫn có và sẽ còn có mãi thái-độ đạo-đức-giả nơi tôn-giáo (chí ít là các thể chế tôn-giáo lớn), nhưng với tôn giáo, sẽ còn là vấn-đề lớn hơn nếu họ coi thường chuyện này. Giả như tôn-giáo nào đặt nền-tảng vào niềm tin luôn được sự tin tưởng cũ xưa hoặc thần-bí nuôi dưỡng vốn dĩ lo âu, xung khắc với bằng-chứng của khoa-học, thì các vấn-đề trong xã-hội sẽ trở nên tồi tệ hơn. Sẽ có nhiều tín-hữu cứ thế lạc đường và sự chia rẽ cứ thế mở rộng.

Sự thể là, những gì phi-lý liên-kết với tâm-trạng “cám dỗ” của mỗi cá-nhân con người, việc nhạo báng/kết án lề lối xử-sự của giới trẻ về tình-dục nảy sinh từ tuổi dậy thì và sự chia cách người đồng tính luyến ái  mới chỉ là một số ví dụ lẻ tẻ về tính đạo-đức-giả nơi người Đạo Chúa, dựa trên mối lo âu sợ sệt đứng đằng sau các chương/đoạn Sách thánh và thần-bí.

Khía cạnh độc-đáo/duy-nhất nơi phương-án tư-tưởng và hành-động của Gm John Spong là ở chỗ: nó đang giáp mặt với đạo-đức-giả và sự ngu dốt về quan-điểm dục tình vẫn đang tiến về phía trước. Đây không là công-tác dễ dàng và thoải mái thực hiện cả đâu, nhưng chắc chắn sẽ là công việc cần thiết hàng đầu ở thời-đại này. Nó sẽ làm giảm bớt đi mối lo-âu sợ sệt nơi người đọc và chắc chắn người viết cũng không muốn dấy lên động-thái sửng-sốt, thất-kinh chút nào hết.

Robert G. Lahita, M.D., Ph.D.

Phó Giáo sư Đại học Y-khoa Cornell                                                  

New York City.

 

Giọng cũ xa gần

Dân Gầy phụ trách

 

Ta Tran


 

 

Anthony Tran

ataSf1Su1p Slfepoaiinlmmsteomrembndesrd at 1ecrl5:a06  · 

Chuyện kể rằng...

Ngày xửa, ngày xưa...

Có một vì sao sáng...trong đêm lặng lẽ...

Nhạc buồn xa vắng...mênh mông trần thế...

***

Nay thì bác ơi...

Một ánh sao đã vụt tắt trong gia đình thân thương...

Một đốm lửa vừa lóe sáng trên vòm trời thiên quốc....

***

Vẫn nhớ mãi tiếng hát...

Ngày dù xa khơi...có luyến tình người...

Ánh mắt sáng ngời...lòng trời u tối...

Không gian xa vời...

***

Và vẫn chẳng thể nào quên được...

Tiếng hát Một dòng xanh xanh...

Trong một buổi văn nghệ gia đình ở nhà anh Phú chị Kim Anh năm nào...

***

Là tiếng hát mơ hồ...mời đón lòng ta...

Là tiếng hát mời đón Dòng sông xanh...

Một dòng tràn mông mênh...

Một dòng nồng ý biếc...

Một dòng sầu mấy kiếp...

Một dòng trời xao xuyến...

Một dòng tình thương mến...

Một dòng còn quyến luyến...

Một dòng nhớ...

Quay về miền...đời lúc huyền mơ...

***

Tiếng hát ấy cất lên...

Từ những ngày ở ca đoàn nhà thờ Hàm Long Hà Nội...

Thời Đức Hồng Y Trịnh Như Khuê làm Linh mục chính xứ giáo xứ Hàm Long...

Và Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn làm Linh mục phụ tá cho Linh mục Khuê và giáo xứ...

Rồi tiếng hát ấy theo làn sóng di cư...

Bay vào ca đoàn nhà thờ Núi Nha Trang...

Nay thì...

Tiếng hát ấy đã bay xa...xa mãi...

***

Vẫn biết sinh ly là tử biệt...

Nhưng...

Dù đến rồi đi...Tôi cũng xin tạ ơn Người...

Tạ ơn Chúa...Tạ ơn Mẹ...

***

Sẽ có...

Ánh dương lên xôn xao...hai bên bờ sông sâu...

Cười ròn tiếng người...đẹp lòng sớm mai...

Hát lên cho vui...

Đời là khúc nhạc...

Đời là tiếng thơ...

Sông về...

Sông cười ròn tiếng...

Ngỡ mình vui trong ánh sáng...

Muôn sao Thiên Đàng...

***

Xin nghiêng mình vĩnh biệt bác lần cuối...

Tiếng hát thân thương trong đại gia đình họ Trần...

Nay chỉ còn 5...trong số 15 anh chị em do ông bà nội sinh ra...

Bác Anna Trần Thị Ngọc Dung (14/02/1936-04/09/2020)