Truyện kể rằng
có linh mục kia đang trông coi một giáo xứ miền quê. Vào một buổi chiều nọ, ông
trùm quản xứ vào gặp ngài. Hai cha con ngồi nói chuyện dưới mái hiên của nhà xứ.
Bỗng nhiên, với vẻ trang trọng ông thưa với cha rằng: “Thưa cha, trong suốt 30
năm qua, không ngày nào mà vợ chồng con không cãi cọ nhau.” Nghe đến đó, cha lùi
lại phía sau, nhìn thẳng vào mắt ông trùm và với vẻ ngạc nhiên cha hỏi: “Mỗi
ngày sao?” “Thưa cha, mỗi ngày” ông đáp. Vậy hôm nay thì sao? Ông trùm trả lời:
“Dạ thưa cha, sáng nay cũng thế, cô ta quàng tay sang phía con, tung mền và lôi
con bò dậy rồi lớn tiếng quát “ông không dậy ra khỏi giường mà lo việc, cứ nằm
đó mà nướng.” Thế là lời qua tiếng lại, cuối cùng con vẫn là người chịu thua và
im đi cho yên chuyện.
Trong cuộc sống
gia đình anh chị em thường xuyên gặp phải hoàn cảnh thực tế nói trên. Không
tranh luận, không cãi vã, không có lời qua tiếng lại thì không phải là sinh hoạt
vợ chồng, thế mà anh chị vẫn cứ trung thành sống bên nhau. Cuối cùng cả vợ lẫn
chồng đều nhận ra một thực tế mà cha ông chúng ta đã trải nghiệm, đó là: “Càng yêu
nhau lắm, càng cắn nhau đau.”
Những cuộc cãi
vã thường xuyên xẩy ra trong đời sống vợ chồng thế nào thì mấy ông lãnh đạo thời
Đức Giê-su cũng thế. Mỗi khi các ông Pharisêu và các vị thuộc nhóm Xađốc gặp
nhau là cơ hội họ tranh luận về đề tài kẻ chết sống lại này. Hầu như không có lối
thoát. Phe nào cũng muốn phần thắng lợi thuộc về họ. Không ai chịu thua ai.
Ngoài việc căn
cứ vào Lời Chúa phán trong các sách ngũ thư và truyền thống ngôn sứ, mấy ông
Pha-ri-sêu còn dựa vào hoàn cảnh thực tế mà dân đang phải gánh chịu, như cảnh những
người công chính, ăn ngay ở lành thì bị bách hại, trong khi đó những tay gian
ác, ăng ten và làm tay sai cho chính quyền lại phát tài và ăn nên làm ra. Từ đó
họ mới suy luận và cho rằng Thiên Chúa công minh sẽ can thiệp vào thời sau hết
và không để cho xã hội mãi như thế. Họ không chết trong các nỗi bất hạnh. Chắc
chắn có sự sống đời sau. Lúc đó, Thiên Chúa sẽ làm cho kẻ chết sống lại, ban
thưởng cho bậc chính nhân và phạt kẻ ác. Với suy tư thần học này, rất đông dân
chúng đang sống trong cảnh bị bách hại, theo phe họ.
Trong khi đó, hầu
hết các vị Thượng Tế là những người thuộc nhóm Xa- đốc chủ trương không có chuyện
kẻ chết sống lại. Bởi vì họ đang thụ hưởng một cuộc sống quá sung túc. Thế giới
mà họ đang sống đã là Thiên Đàng rồi, đâu cần một thế giới khác nữa. Giữa họ và
người Pha-ri-sêu luôn luôn bất đồng với nhau về việc này.
Vẫn biết rằng,
Đức Giê-su đã trở thành mối đe dọa cho vị trí và quyền lợi của những người
Pha-ri-sêu và nhóm Xa đốc, cho nên họ luôn tìm cách để nộp Người. Họ luân phiên
nhau chất vấn Đức Giê-su và hôm nay đến phiên nhóm Xa-đốc. Câu hỏi về số phận con
người sau khi chết chỉ là một cái bẫy mà nhóm Xa-đốc dùng để gài Chúa. Họ không
trực tiếp hỏi về cuộc sống sau khi chết, cho bằng dựng nên một câu chuyện, tuy
hơi hoang đường với chúng ta, nhưng phản ảnh nền văn hóa và hoàn cảnh xã hội thời
bấy giờ. Họ dựa vào khoản luật trong sách Đệ Nhị Luật, chương 25:5-6 để chất vấn
Chúa. Điều luật đó như sau, nếu người anh chết mà không có con nối dõi tông đường
thì người em phải lấy chị dâu, nay đã góa chồng, làm vợ và đứa con đầu lòng cô
ta sinh ra sẽ mang tên của ông anh đã chết. Khoản luật này xem ra không hợp với văn hóa của chúng ta
ngày nay, nhưng lại là điều tốt vì có như thế thì người phụ nữ bị góa chồng đó
mới được bảo vệ, ít nhất cô ta còn có con cái phụng dưỡng khi về già.
Những
người thuộc nhóm Xa-đốc đưa ra câu chuyện của một người đàn bà đã trải qua bẩy
đời chồng mà họ là anh em với nhau trong một gia đình. Theo luật Mô-sê thì bà
đã làm đúng. Cho dù, những người thuộc nhóm Xa-đốc không tin vào sự sống đời
sau; nhưng ở đây họ giả định là nếu có sự sống đời sau thì bà này sẽ là vợ ai?
Vì bà đã là vợ của cả bẩy anh em! Điểm then chốt mà họ đưa ra ở đây không phải để
tìm hiểu giáo lý, nhưng để bắt bí Đức Giê-su. Nếu Người cũng chủ trương có sự sống
đời sau thì Người phải đối diện với một tình huống thật khó xử chưa kể là phi
lý nữa. Đức Giê-su lại một lần nữa bị đặt vào hoàn cảnh dường như không lối
thoát. Người sẽ hành xử ra sao trong lúc đối tượng chỉ là những người chống đối
và gây khó khăn cho Người?
Dù
biết được thâm ý của họ như thế nhưng Đức Giêsu vẫn kiên nhẫn trong cách hành
xử để đáp trả vấn nạn mà họ nêu ra. Người không chỉ nói lên quan niệm của Người
về sự sống lại mà còn giải thích cho họ biết về quan niệm của Người. Chúng ta
có thể tóm tắt lời Người giảng dậy như sau:
·
Điểm
quan trọng trước hết là có sự khác biệt giữa sự sống đời này và sự sống đời
sau. Cuộc sống với Thiên Chúa trong thời sau khi chết thì khác hẳn với sự sống
hiện tại. Khác như thế nào không được nói rõ, nhưng hẳn nhiên không phải là một
sự tiếp nối của cuộc sống hiện tại.
·
Điều
thứ hai là không có việc lấy vợ gả chồng trong thời đại đó.
·
Điểm
thứ ba là họ không thể chết nữa vì họ đang sống đời đời.
·
Sau
cùng, những ai đã được cứu độ thì sẽ có lối sống giống như các thiên thần, chầu
chực và ca tụng Thiên Chúa.
Sau
đó, Đức Giê-su còn trích dẫn lời tuyên xưng của Mô-sê, khi ông gọi Đức Chúa hiện
vẫn là Thiên Chúa của các tổ phụ: Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. Người còn khẳng
định rằng Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết mà là người sống, vì
đối với Thiên Chúa, tất cả vẫn đang sống.
Cho
dù bản văn phụng vụ hôm nay không đề cập đến phản ứng và lời đáp trả của một số
kinh sư, đa số thuộc về nhóm Pharisêu. Nhưng nếu chúng ta đọc tiếp thì sẽ thấy
mấy ông kinh sư, ít khi đồng ý và tán thưởng hành động của Đức Giê-su, thế mà
hôm nay lại đứng về phía Người qua lời ca tụng sau đây: “Thưa Thầy, Thầy nói
hay lắm.” Và không có người nào dám chất vấn Người nữa.
Chúng
ta cũng thế, câu hỏi về sự sống đời sau không phải để thảo luận, bàn cãi hay tranh
luận. Đó là vấn đề của đức tin và cũng là một điều bí ẩn. Nó hàm chứa một niềm
hy vọng, một thách đố, một kiếm tìm và một lòng tin tưởng đầy hứa hẹn ở tương
lai. Khi sinh ra, chúng ta đã bước vào cuộc hành trình của sự sống vĩnh cửu. Lời
hứa của cuộc sống đời sau đó giúp chúng ta đối diện với các khó khăn cũng như
nghịch cảnh của cuộc sống này như những con người không để cho sự chết đánh gục.
Tuy nhiên, trước các nghịch cảnh trong cuộc sống, chúng ta sẽ buồn phiền, thậm
chí thất vọng, nhưng không tuyệt vọng bởi vì chúng ta tin rằng cuộc sống mới sẽ
đến. Chúng ta tin rằng có một thực tại tuyệt vời hơn đang chờ đợi chúng ta ở
tương lai.
Chúng
ta yên tâm về Thiên Đàng, chính nhờ niềm tin này mà chúng ta sẽ sống khác với
những ai chỉ thấy thiên đàng tại thế. Chúng ta sẽ sống vì Chúa. Chúng ta sẽ đáp
lại tình thương của Người bằng toàn bộ cuộc sống này. Nói khác đi, cuộc sống
vĩnh cửu không phải là quà tặng ban cho tôi khi tôi đã về già; nhưng nó đã được
khởi động trong ngày tôi lĩnh nhận bí tích Thánh Tẩy để làm Con Chúa của tôi.
Thật
đúng như lời Đức Giê-su đã khẳng định Người là Thiên Chúa của kẻ sống. Đối với
Người thì tất cả đều đang sống. Hy vọng Lời Chúa nói hôm nay đem đến cho chúng
ta sự bình an, niềm vui và hy vọng ngay bây giờ và mãi mãi sau này nữa.
Trong
niềm tin và hy vọng vào cuộc sống đời sau đã được hứa ban, nhất là trong tháng
các linh hồn năm nay, chúng ta xác tín về số phận của những người thân. Họ đã
bước qua ngưỡng cửa, mà chúng ta gọi là sự chết để bước vào nước hằng sống. Quí
ngài đang sống gần Chúa hơn chúng ta, các ngài đang nghỉ
yên để thụ hưởng tình yêu và sự hiệp thông - cho dù chưa trọn vẹn – với Chúa.
Niềm xác tín như
thế được đặt trên căn bản của niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng giầu lòng xót thương,
chậm bất bình và không kể tội của con mình. Hãy xem cách mà Thiên Chúa đã hành
xử với Da-kêu và người con thứ. Cả hai người khi trở về nhà có người nào bị hạch
tội hay phải nhắc lại quá khứ của mình hay chăng, ngược lại họ còn được trọng
thưởng và mở tiệc mừng ăn khao.
Quả thật, nếu
chúng ta tin rằng Thiên Chúa đã săn sóc chúng ta khi còn sống, thì chắc chắn
Ngài còn săn sóc và thương yêu chúng ta nhiều hơn nữa khi chúng ta bước về nhà
Cha. Trong nhà Cha, con người chuyển sang vũ trụ khác, một trạng thái sống không
còn đau khổ, không còn hận thù; nhưng chỉ có bình an, hoan lạc và niềm vui. Tất
cả đều ở trong tình trạng vĩnh cửu. Con người được thu hút vào vũ trụ tràn đầy
tình thương của Thiên Chúa và biết rõ rằng Thiên Chúa biết và yêu thương họ.
Như vậy việc cầu
nguyện cho nhau có cần thiết hay không?
Dạ thưa, cần
và rất khẩn thiết. Tuy nhiên chúng ta không đến ngôi mộ để tìm và cầu cho người
chết. Họ đang sống. Vì thế, việc cầu nguyện của chúng ta không nhằm mục tiêu
đánh thức Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn thương yêu và lo lắng
cho mọi người, Người không muốn cho bất cứ ai bị hư đi. Như vậy, việc cầu nguyện
và tưởng nhớ đến những người thân hay mọi người đã lìa cõi thế của chúng ta nói
lên sự yêu thương, nhớ nhung của chúng ta với các ngài.
Qua việc cầu
nguyện, chúng ta minh chứng rằng thân nhân của chúng ta không chết. Sự chết
không làm đứt đoạn hay tiêu hủy mọi mối dây tương quan mà chúng ta đã thiết lập
và xây dựng. Bởi vì, các mối tương quan đó được đặt trên nền tảng của sự yêu
thương trong Chúa. Chính vì sức mạnh của tình yêu giúp chúng ta xác tín rằng
cho dù thân nhân của chúng ta đã lìa cõi thế về mặt thể lý, nhưng sự hiện diện
của họ tồn tại vĩnh viễn trong lòng yêu thương và sự tưởng nhớ của chúng ta.
Vì, Thiên Chúa
là Thiên Chúa của kẻ sống.
Đối với Người thì tất cả đều đang sống, không còn ai chết nữa. Đây là niềm hy vọng
mà chúng ta dùng để an ủi, nâng đỡ và cầu nguyện cho nhau.
Lm Giuse Mai Văn Thịnh,
DCCT
No comments:
Post a Comment