Chống báng chủ-nghĩa hiện-thực (tiếp theo)
(Bài
18)
Năm
721 trước Công nguyên, thủ phủ Samaria rơi
vào tay binh đội Assyria. Dân-gian mọi
người bị phân-tán vào chốn lưu lạc không bao giờ quây quần được trở lại theo
cung-cách của một dân nước. Một số người bèn tìm cách chạy xuống phía Nam có thủ-phủ
Giuđa khi xưa cũng bị đánh bại, nhưng đã khôn ngoan biết sử-dụng chính-trị để trao-đổi
chư-hầu với Assyria ngõ hầu tạo chút
độc lập còn rơi rớt lại. Thật sự mà nói, thì ít ra dân-gian xứ này không
bị chuyển về Ninivê đã là phúc rồi.
Trong
số ‘trân châu ngọc quí’ được người phương Bắc cất giấu khi thoát khỏi cơn dịch-tễ
Assyria đã chạy về Giuđa mà lưu trữ, thì người viết truyện
thánh thuộc nhóm Êlôhít được các vị ở
đây đưa về Giêrusalem nhập chung vào với nhóm phò Giavê, thiết-lập tài-liệu thành
hai văn bản xuất cùng một thánh-sử cho dân-nước thống nhất. Đó là thời văn-kiện
Giavê và Êlôhít nhập lại thành một trình-thuật duy-nhất mang tên Tài-liệu Giavê – Êlôhít.
Việc
đan-kết hai tài-liệu làm một ở đây, vẫn không tạo ra được tài-liệu nào cho ăn
khớp, nhưng vẫn mang ý-nghĩa chung, xuất từ một giòng họ. Việc chia đôi đất
nước hợp-thức-hóa tính-chất sử-học qua sự kiện dân-gian có chung một tổ-phụ
là Giacóp đã cùng lúc ăn ở với hai vợ hiền, mỗi bà hướng về người mẹ ở
bên kia đất nước.
Lịch-sử
đây, có câu truyện kể về ông Giuse bị các người em đem đi bán làm nô-lệ cho người
Miđianít. Nhưng truyện ở đây lại bảo:
thật ra, thì ông bị bán cho đám người Ishmaêlít
(X. sách Khởi nguyên chương 37). Thực-chất câu truyện có khác nhau đôi
chút, nhưng tựu trung cả hai đã hợp lại thành truyện duy-nhất và mọi người đều
bỏ qua những sai sót có thể có về lời lẽ diễn-đạt. Lại nữa, truyện kể về Mười
Điều Răn xuất tự truyền-thống Êlôhít ở
sách Xuất Hành chương 20 và ở một văn-kiện khác cũng xuất tự truyện kể về
Giavê Đức Chúa ở sách Xuất Hành chương 34, cùng một tuồng tích.
Có
thể, khi xét nội-dung hai văn-kiện khác nhau mà không thể đúc-kết thành một được,
tác giả chỉ muốn ghi lại câu truyện kể bảo rằng: Môsê đập vỡ bia đá Mười Điều
Răn, rồi quay lại đỉnh núi Sinai khẩn nài Giavê Thiên-Chúa viết lại văn-kiện này,
thêm lần nữa.
Dù
sự thật có ra thế nào đi nữa, thì việc biên-tập tuồng-tích dựng thành truyện kể
thánh-thiêng trước-tác tại Giêrusalem vào thời-điểm trước/sau ngày Samaria sụp đổ, tức năm 721 trước Công
nguyên dưới triều Josiah. Cũng vào
triều Josiah này, mọi người lại thấy xuất-hiện tài-liệu thứ ba nhập chung với thiên
trường-ca thánh-tiến này.
Có
thể, Josiah là vị vua được dân chúng
mến-mộ nhất ở Giuđa, chí ít là khi vương-quốc đây bị cắt thành hai nước
biệt-lập. Ông Josiah hết lòng thờ-phụng
Giavê lại sở-hữu năng-khiếu trời cho, nên ông hành-xử thật đúng phép. Do có
lòng xác-tín sâu-sắc với Đạo, ông ra lệnh sửa-đổi một số địa-danh thuộc đền thờ
Giêrusalem vào năm 621, trước Công nguyên.
Trên
tường thành, do có chủ-tâm hoặc tình cờ thật cũng chẳng ai biết, mọi người
lại thấy xuất-hiện Sách Luật Mới đã cho rằng Sách ấy do Môsê viết (X. 2Vua đoạn
22) *1, nên người ta đặt tên cho Sách
là “Đệ Nhị Luật” (tiếng Hy Lạp là deuteron-nomos). Sau này, Giáo hội cũng gọi đó là Sách Đệ Nhị Luật. Josiah ra lệnh
cho ba quân đem Sách về cho ông xem; nên, sau khi đọc xong Sách, ông ra lệnh
cho thuộc-hạ mọi giới khởi-công canh-cải cuộc sống của người Giuđa. Từ lúc ấy,
mọi người gọi đó là Công-cuộc Cải-tân “Đệ Nhị Luật”. Ông lại đã ra lệnh cho mọi
người tụ-tập tại đất thánh-thiêng, rồi ngang qua Môsê, ông truyền lệnh mới
Thiên-Chúa chỉ thị cho mọi người phải thay đổi mọi sự ở vương-quốc cứ dựa theo Sách
này mà thực-thi, ngay tức thì.
Phần
lớn các thay đổi đây, cốt tập-trung quyền-bính của hàng tư-tế Giêrusalem vào cuộc
sống đạo của tất cả dân con trong nước. Sau cuộc canh-cải này, chỉ mỗi Giêrusalem
là nơi xứng-đáng để mọi người tổ-chức lễ Vượt Qua thôi. Và, đây cũng là nơi thích-hợp
để mọi người tới đó chịu cắt bì hoặc dâng mình vào đền thờ thụ-giới.
Người
hành-hương đi Giêrusalem dự tiệc Tạ Từ, tất cả đều đeo đuổi truyền-thống duy-nhất
bắt đầu bằng cuộc canh-cải do Josiah đề-xướng. Chẳng bao lâu trước khi có Đệ Nhị Luật (cùng một lúc với văn-kiện
thứ ba của Mười Điều Răn chương 6) tháp-nhập vào truyện thánh lúc Giuđa
phát-triển, nhằm trình-bày về Đệ Nhị Luật
mang tính ‘Giavê – Êlôhít’. Đó, là trình-thuật mà 35 năm sau, người
Do-thái-giáo vẫn mang trong mình dọc suốt hành-trình Babylon vào năm 586, trước Công nguyên.
Không
một kinh-nghiệm nào về đời sống đạo-đức của dân Do-thái-giáo lại sâu-sắc hơn vào
thời lưu-đày này. Đất nước Do-thái bị quân Babylon
đánh cho ‘thân bại danh liệt’, dân-quân lại bước vào chốn lưu-đày, nên ý-niệm mà
mọi người vẫn có về Thiên Chúa, cùng lúc trở nên mai-một đã trải dàn khắp chốn.
Nhờ
tài lãnh-đạo của Êzêkien và nhóm tư tế,
tính-chất Do-thái-giáo của dân con lưu-đày vẫn hằn in trên thân mình của nam-nhân
qua việc cắt bì theo luật buộc, và tâm-tư lẫn óc não của họ cũng hằn in dấu vết
về việc tuân-thủ lề-luật và sùng-bái theo truyền-thống. Luật giữ ngày Sabát cùng việc chay kiêng nhiệm-nhặt, đã
khiến người Do-thái-giáo phải tách riêng sống chi ly như nội-qui định sẵn.
Đền
thờ, là nơi dân con lưu-đày giữ niềm tin sống-động tồn tại với lịch-sử nhân-loại.
Nhưng, điều quan-trọng của mục-tiêu chung, là viết lại truyện thánh mà người
Do-thái-giáo vốn dĩ có được, nhờ nhóm tư-tế ở trên cao. Việc này gia-tăng gấp bội
chiều-kích duy-trì luật Torah đồng thời
nâng cao truyền-thống phụng-thờ mà các tiên-tri từng nói đến, rất lâu. Quả thật,
thời của các tiên-tri như thế đã chấm dứt.
Chính
văn-kiện viết lại này, mang tính bảo-thủ về thần-học, tức một thứ lề-luật xuất-hiện
trong thánh-sử của Giuđa mà Nêhêmia đem
đến cho họ, khi mọi người tìm cách tái-thiết Giêrusalem vào thế kỷ thứ V trước
Công nguyên. Và, văn-kiện lề-luật viết lại ở đây, mãi về sau cũng được nhóm Sađuxê và Pharisêu tác-thành và tuân-thủ.
‘Văn-kiện-viết-lại’
cũng đảm-bảo cho dân con Do-thái-giáo tồn-tại theo cách của người dân được định-vị
trong lịch-sử. Trong số bảy áng-văn tuyệt-cú của Do-thái-giáo, hàng tư-tế
tác-giả lại thêm vào đó chương dẫn-nhập cùng với thánh-sử, để rồi ngày nay mọi
người coi đó như truyện tân-tạo được nhiều người biết đến. Trình-thuật đây, lúc
đầu được viết, là cốt để đề-xuất ngày Sabát
như một sự-kiện nổi-bật, hầu buộc mọi người tuân-thủ và coi đó như chứng-minh-thư
nhận-dạng.
Chính
các nhà văn tư-tế, tức các vị từng thêm thắt lời bàn về công-tác phụng-thờ vào
văn-kiện Êlôhít quen kể về Mười Điều Răn
ghi ở sách Xuất Hành chương 20. Thành thử, động-lực và nguyên-do đề-xuất, là để
khống-chế mọi người khỏi rơi vào trạng-thái sùng-bái ngẫu-thần, nhờ đó biết nghe
lời cha mẹ tuân-giữ ngày Sabát cho phải
phép. Cũng từ đó, các khát-vọng này khác càng được định-hình thêm. Và, các biên-tập-viên tư-tế là tác-giả viết
lại chương sách về cơn lụt Đại Hồng-Thủy trổi bật, khiến Nôê phải mang theo mình ông 7 cặp muông-thú thanh-bạch, duy chỉ một
cặp còn sót đôi chút tì-vết được phép đưa vào hòm bia Thiên-Chúa, nói ở đây.
Điều này khiến Nôê và
gia đình có khả-năng tuân-giữ lề-luật của Chúa suốt 40 đến 150
ngày vẫn có đủ thực-phẩm để dùng, cũng như khả-năng
biến-chế của lễ do mọi người dâng lên Thiên
Chúa rất tinh-khiết như
nội-qui đòi-hỏi, mà không cần phải giết thêm thú loài nào hết (Khởi nguyên
chương 7). Câu truyện về
dân con mọi người lang-thang nơi hoang-địa, cũng được các tác-giả là tư-tế ghi lại để rồi chính
Môsê và dân Do-thái-giáo không
vi-phạm luật Sabát bằng việc
gom góp bánh
trái, cùng manna vào mỗi
thứ bảy trong tuần (X.
sách Xuất hành chương 16).
Khác
với công việc của hàng tư-tế/tác-giả, ta có thêm công-trình xuất-hiện cùng lúc
với sách Isaya quyển 2 (Ys 40-55). Các
tiên-tri từng kêu gọi Giuđa hủy việc xác-chứng bộ-tộc của họ bằng cách phác-thảo
cho dân biết, lời kêu gọi chung, trong khi đó các tác-giả tư-tế lèo lái đất nước,
đào sâu hơn bản-chất bộ-tộc của họ, bằng việc định-hình ra Thiên Chúa hợp với ước-vọng của mọi người. Sách Ysaya quyển
2, khi ấy được thiết-lập trở-thành “lời gọi mời từ hoàng-gia” thật chính-xác. Ảnh-hưởng của hàng tư-tế, như
thế đã trải dài mãi đến thời Macabê và cả thời của Đức Giêsu nữa, khi các lãnh-tụ
chính-trị cũng như tôn-giáo ở Giêrusalem di-dời bộ-phận độc-nhất trao quyền
cho hàng tư-tế tối cao
lãnh-đạo.
Bởi không rõ
nguồn gốc và động-lực xuất-phát từ văn-kiện gốc, là
sách Torah, nên ta không thể biết Kinh-thánh có được sử-dụng trọn vẹn hay không. Và, Kinh-thánh cũng không được trích-dịch đưa vào các tranh-luận này khác, hầu chứng-minh xem bản nào là bản gốc, bản nào thực-sự
chỉ được viết mới đây thôi. Nét mâu-thuẫn ở kinh-thánh càng thấy rõ hơn nếu đem
so với các sách mang tính sử-học như Sách
Samuel hoặc Sách Các Vua, là những sách ghi nhiều sự-kiện tương-tự nên đã chính-thức
trở-thành Biên Niên Sử. Thật ra, cả hai văn-kiện nói trên, không thể dung-hòa được
với nhau.
Nếu so
sánh truyện kể về cái chết của Đavít ở quyển 1 Sách Các Vua chương 1 với truyện
kể về cùng cái chết của ông ở Sách Ký Sự chương 28-29, thì ở quyển 1 Sách Các
Vua ta thấy: Vua cha về già bị cơn lạnh xâm-nhập vào người nên mới đau-khổ thực
sự, có đắp bao nhiêu chăn mền dầy cách mấy cũng không đủ để làm ấm xác thể của
ông cho đủ.
Quan
cận-thần khi ấy lại đã khám-ra một trinh-nữ xinh đẹp sống trong cùng vùng đất
(và đây là cuộc thi sắc đẹp sớm-sủa nhất ở Israel), cô được phép ngả mình trong
vòng tay ôm của Vua cha già-khú cốt hâm nóng cơ thể của ông thôi. Abishag là người Shunam đã thắng cuộc, nên cô được phép ngả vào lòng vua để long-thể
của ngài thêm ‘ấm áp’. Xem thế thì, truyện kể về cô đã đi vào truyền-thuyết cùng
với trí tưởng-tượng của dân con Do-thái-giáo, mãi về sau còn tạo nguồn-hứng cho
các tác giả viết lên bài ca thánh-tiến. Đây là truyện thực mang ý-nghĩa dân-dã
khác với các truyện ở sách Ký Sự viết về vua quan, suốt nhiều năm.
Cũng
vào thời này, người ta dựng truyện Vua Đavít rồi coi ông là nhà yêu nước lý-tưởng,
một thứ nguyên-mẫu của Do-thái-giáo được trọng-vọng suốt nhiều năm, để rồi bỗng
nhiên ông trở-thành nhân-vật quyền-lực tối-thượng trong phụng-vụ và trong sách Torah nữa. Trên giường bệnh, Vua cha lại
đã ra lệnh cho dân con Israel hãy dùng
đó làm truyện phổ-biến dân-gian, gọi là lời trăn-trối cuối cùng của ông về sự
khôn-ngoan thần-thánh. Lời này được vua Đavít sử-dụng làm lý-do cho thấy tại
sao ông không xây đền Giêrusalem, lại
chỉ cách xây đền thờ, đồng thời truyền lệnh cho hàng tư -tế cùng nhóm Lêvít biết cách mà hành-xử cho phải Đạo.
Câu truyện kể ở đây quả là kỳ lạ khiến nhiều người ngạc nhiên hết sức.
Những
người bênh-vực cho các sai-quấy ở Kinh Shánh, đã dung-hòa hai truyện này hoặc
ít ra cũng quyết-định là bản nào đúng, bản nào sai. Thật chẳng may, các biện-pháp
luyện tâm-thân như thế, đã để mất đi ý-nghĩa đích-thực của hai cốt truyện. Khi
văn-bản nào đó được người ta rớ tới bằng những vấn-nạn sai quấy, hẳn nó cũng
đưa ra câu trả lời sai chậy. Rủi thay, đây là cung-cách được nhiều người thực-thi
nhát mỗi khi họ tiếp-cận với Thánh-kinh. Vốn ngu-dốt về Kinh thánh đến độ thế,
hẳn các nhận-thức mới mẻ dù được gọi là thành-tựu khoa-học đi nữa, cũng coi như
quyền-uy sức mạnh của Thánh kinh đã bị sói mòn dần.
Khi mọi
người chuyển từ Kinh-thánh Do-thái-giáo sang Thánh-kinh của Đạo Chúa, vấn đề về
tính uyên-bác vẫn không đổi thay. Các học-giả trung-hòa lại có khuynh-hướng bỏ
qua những gì là thái-quá ở Kinh-thánh Do-thái-giáo, nhưng các cụ vẫn đeo bám một
cách kiên-định vào “Tân” Ước, coi đó như ‘Lời lẽ’ không sai chậy của
Thiên-Chúa. Ta không thể chấp-nhận quan-điểm này cách dễ dàng được, bởi toàn-bộ
27 cuốn sách ở Tân Ước, đều trước sau như một, không sai sót, dù vẫn có một số
nguồn-văn không thể định-dạng, trong đó nhiều bản văn lại có trước cả trình-thuật
Thánh-kinh nữa, là đàng khác.
Có
thể, tác-giả Máccô là người viết toàn bộ các cuốn ấy. Nhưng, chỉ một số rất ít
học-giả ngày nay tin rằng ông là tác-giả cả 3 cuốn Tin Mừng. Tác-giả Mátthêu cũng
sử-dụng văn-bản do Máccô đưa ra làm tài-liệu mang tên ‘Q’ hoặc Quelle; và, ông
còn thêm vào đó nguồn-văn mang tên ‘M’
để trước-tác Tin Mừng của chính ông. Tác-giả Luca, lại sử-dụng trước-tác của
Máccô và tài-liệu ‘Q’, nhưng ông sử-dụng
trước-tác này theo cách khác hẳn Mátthêu. Trong khi đó, tác-giả Luca sử-dụng
nguồn-văn riêng một cách đặc-thù mà ta gọi là nguồn ‘L’ nhưng chỉ mỗi thể. Cũng vậy, tác-giả Luca có lẽ chỉ viết một
văn-bản ngắn-ngủi hơn mà ngày nay ta gọi là ‘nguyên-bản
Luca’ kéo dài ít năm sau đó, cộng với trình-thuật thời ấu-thơ của Đức Chúa và
trình thuật Máccô mà thôi.
(còn
tiếp)
Gm John Shelby Spong trước-tác
Mai
Tá lược dịch