Trước khi tìm
hiểu về dụ ngôn “Người cha nhân hậu” mà chúng ta vừa đọc, xin phép đặt vấn đề với
các bạn: nếu trong gia đình các bạn có hai người con mà cách sống của chúng giống
hệt như hai người con trong dụ ngôn thì quý phụ huynh sẽ yêu thích người con
nào hơn? Nói chung, chúng ta có lẽ sẽ yêu anh con cả hơn, bỏi vì ít nhất anh đã
không làm cho các bậc cha mẹ phải buồn phiền và lo lắng.
Còn đối với cậu
con thứ, thì chúng ta hơi khó chấp nhận việc làm của cậu; cho dù đó là việc mà
chỉ có ai đủ can đảm và liều lĩnh mới dám chọn lựa hướng đi này. Và nếu như vậy,
thì xem ra chỉ vì sự an bình của bản thân mà đôi khi chúng ta dễ dàng hơn trong
việc chấp nhận và yêu thương những người con chỉ biết vâng lời, và không làm điều
gì trái ý chúng ta; một kiểu vâng lời tối mặt, một dạng con cái khi gặp khó
khăn sẽ chạy trốn vì chưa bao giờ tự mình đối diện với khó khăn hay thử thách.
Còn những người con muốn có một cuộc sống tự lập thì thường có khuynh hướng làm
trái ý của cha mẹ thì lẽ dĩ nhiên sẽ được quý phụ huynh thương yêu ít hơn!
Trong dụ ngôn
hôm nay, người con thứ muốn tìm kiếm một lối sống trưởng thành, tự lập và không
muốn mãi là người con chỉ biết ăn bám vào cha mẹ. Anh đến gặp cha và thưa rằng:
“Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng.” Anh không tham lam, chỉ
xin những gì mà anh được hưởng theo qui định mà thôi. Có một số người cho rằng
qua lời yêu cầu chia gia tài này anh mong muốn cho người cha mau chết. Thật ra,
không ai biết anh có ý nghĩ đó hay không? Phải chăng đó là kiểu gán ghép điều
mình nghĩ cho người khác. Chúng ta chỉ biết là lời thỉnh nguyện của anh ẩn chứa
ý nghĩ là anh muốn được tự do để tự mình sắp xếp cuộc sống cho chính mình.
Tuy được sự chấp
thuận của cha, nhưng cậu con thứ vẫn chưa đi ngay, ít ngày sau đó anh mới lên
đường. Anh dùng mấy ngày vắn vỏi này để gom góp sản nghiệp thuộc phần mình và
có lẽ cũng xem xét lại các dự án một cách cẩn thận và chu đáo hơn. Và sau khi
đã ổn định mọi sự, anh từ giã quê cha đất tổ và khởi sự lên đường. Như vậy, cuộc
ra đi của anh đã được tính toán cẩn thận và có chuẩn bị chứ không phải là một
cuộc đi hoang như chúng ta thường hay nói.
Trên đường tìm
kiếm một lối sống cho riêng mình anh vẫn mang theo của cải đã được cha anh chia
cho. Tuy cô đơn trên hành trình tìm kiếm, nhưng một cách nào đó những gì mà anh
có hiện giờ vẫn là của người cha ban cho, chứ anh tự mình chưa làm ra được điều
gì! Nhưng, ngay lúc này anh lại không nhận ra điều đó. Bởi vì, lòng tham vọng để
thỏa mãn “cái tôi” đã làm mờ mắt anh và từ đó mối tương quan gia tộc, sợi dây
liên kết tình cha con nay bị gián đoạn và không được anh quí trọng.
Hậu quả của việc
tìm kiếm để thỏa mãn những ước mơ như: có một cuộc sống tự do, sung túc mà
không cần lệ thuộc vào sự chăm sóc của cha đã dẫn anh đi vào ngõ cụt của dòng đời.
Vì không còn có cha bên cạnh, nên anh đã tiêu pha một cách phung phí hết tài sản
của cha đã trao cho; anh không còn kềm chế được hành vi của mình nữa, thả lỏng
dây cương và trôi dạt vào những bến bờ vô định. Anh đã mất tất cả. Thậm chí,
ngay cả môi trường mà anh đang sống cũng chống lại anh. Nạn đói trong vùng càng
làm cho anh thêm túng quẫn. Thậm chí, anh ước mơ có công việc của một hạ nhân
là chăn nuôi heo để có thể ăn thức vật của heo ăn mà cũng không ai thèm mướn.
Mọi cánh cửa
dường như khép lại. Và chính trong hoàn cảnh khốn cùng như thế anh bắt đầu hồi
tâm và tìm cho mình một lối thoát. Quá trình này được khởi đầu bằng việc nhìn lại
chính mình - ta có thể coi giai đoạn này như là thời gian ‘vào sa mạc’ của anh.
“Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ - He came to himself.”
Nhìn lại chính
mình không phải để trách móc hay than thân trách phận, nhưng là đặt mình trong
tương quan với cha và ôn lại các kỷ niệm khi còn ở với cha; anh nhớ lại rằng
ngay những kẻ ăn người ở trong nhà cũng có được một cuộc sống cơm dư gạo thừa,
còn anh thì lại chết đói. Mái nhà xưa đã không đủ ấm cúng để giữ chân anh, thì
giờ đây lại là mục đích mà anh hướng đến.
Nếu trước đây
‘cái tôi’ đã làm anh mù quáng và sống trong mơ mộng và chỉ nghĩ đến tham vọng của
bản thân, thì giờ đây nhờ việc anh đặt mình trong tương quan với các thành viên
khác trong gia đình của anh đã giúp anh thay đổi. Sự thay đổi này được diễn tả
không chỉ trong tư tưởng mà còn ở việc làm của anh nữa.
Anh khám phá rằng
chính lúc anh để mất tất cả, mất luôn quyền thừa tự lại là lúc anh cảm nhận được
diễm phúc làm con, một người con không còn gì để mất nữa. Việc nhận ra sự thật
này là điều căn bản giúp anh có được một chọn lựa chính đáng, đó là chọn sự sống
hầu thoát khỏi cái chết. Anh cũng biết rằng quyền được làm con mà anh có thể sẽ
được phục hồi không phải do các nhân đức của anh, nhưng hoàn toàn tùy thuộc vào
lòng thương xót và sự định liệu của cha anh.
Chúng ta thường được nghe nói là người con thứ có cuộc sống
hoang đàng. Thật sự mà nói, tôi không dám sử dụng cụm từ “hoang đàng” để diễn tả
hành vi của cậu. Việc cậu chọn lựa và thực hiện dự án nói lên tính tự nhiên của
con người là tìm kiếm cho chính mình một lối sống tự do và rồi sẵn sàng chịu
trách nhiệm về cuộc sống của mình. Người con thứ không muốn bị trói buộc bởi
các luật lệ của tiền nhân và cũng chẳng muốn thụ động trong các tương quan, dù
là tương quan gia tộc.
Qua ngòi bút của Thánh Luca, chúng
ta thấy anh con thứ đã thành công trong việc này: Anh đã mất tất cả, trở thành
một kẻ nghèo cùng cực, không còn gì để mất; và vào chính lúc anh không còn gì để
mất thì anh lại tìm thấy hướng đi lên. Khởi đầu của hướng đi này là sự cảm nhận:
anh cảm nhận được bản chất đích thực trong thân phận làm người, đó chính là anh
không thể sống một mình, nhưng là sống trong tương quan với người khác, những
người trong gia đình, đặc biệt là cha anh.
Anh đã nhìn cha bằng cái nhìn khác,
không giống như lúc còn ở nhà. Anh không còn trẻ con mà đã lớn khôn, trưởng
thành và biết suy nghĩ về hoàn cảnh của cha. Từ đó anh thông cảm với cha trong
các nỗi đau khổ khi phải xa anh. Từ sự cảm thông này anh đã hòa nhập vào con
tim và lối suy nghĩ của cha.
Với những tâm tình này, anh con thứ
đã dọn cho mình một lối về. Vì thế, chúng ta ngạc nhiên khi nhìn thấy cảnh người
cha vội vã ra đón mừng anh, còn anh thì không! Anh không hề ngạc nhiên khi thấy cha vui mừng chạy ra đón mừng anh, vì đó
cũng là niềm vui của chính anh. Qua sự biến đổi này, Thánh Luca đã gọi anh là ‘người
con trưởng thành’, trong khi đó thì người con cả vẫn chỉ là ‘trẻ con’.
Tôi cảm phục lòng can đảm kiếm tìm một
lối sống của người con thứ. Anh đã thành thật và sống trọn vẹn với các suy tư của
anh. Và khi đã mất tất cả thì anh lại tìm thấy điều quí giá nhất, đó là mối
tương quan đích thật của tình cha con. Hành trình nào lại không có những va chạm,
đổ vỡ! Cuộc sống nào chẳng có thử thách! Con người nào lại chẳng có tội! ... Có
lẽ các điều đó không quan trọng. Điều thiết yếu là chúng ta có đủ can đảm và
dùng mọi cố gắng để tìm kiếm một lối thoát trong sự đổ vỡ đó hay không? Cứ can
đảm tìm kiếm và thực hiện các dự tính của mình. Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta
nhìn thấy ánh sáng của Ngài vẫn đang chiếu soi trên các buớc chân của chúng ta.
Còn người cha
thì sao?
Trong phần đầu
của dụ ngôn, hành động của người cha được trình bày dường như là quá thụ động
và dễ dãi. Thoáng nhìn, chúng ta có thể nghĩ rằng ông ta thuộc tuýp người cưng
chiều con cái. Nhưng cũng có thể là ông yêu thương và tôn trọng các con. Có
tình yêu nào mà không pha một chút mù quáng và điên dại; con tim của các kẻ
đang yêu thì vẫn thiếu bóng dáng của lý trí; nhưng nếu yêu mà để cho lý trí lấn
át thì tình yêu đó cũng khô cằn?
Có lẽ, chúng
ta vẫn không hiểu rõ ràng được hành động của ông trong phần đầu câu chuyện.
Nhưng theo tôi nghĩ thì ông thuộc loại người giầu tình cảm, luôn rung động trước
những nhu cầu của kẻ khác. Ông giáo dục con cái bằng cách chấp nhận các sáng kiến
của họ, và luôn chờ đợi và chấp nhận các sai lầm của chúng bằng tấm lòng nhân hậu
và khoan dung để qua đó có thể giúp cho con cái cảm nhận được tình thương của
ông và cũng là cơ hội giúp cho con cái được trưởng thành hơn qua các kinh nghiệm
đau thương mà chúng đã trải qua.
Với tâm tình ấy,
từ ngày con ông bỏ đi, ông hằng mong cậu trở về. Ông đau khổ đêm ngày mỗi khi
tưởng nhớ đến cậu. Chính vì thế, khi cậu còn ở đàng xa - hình dáng của cậu lúc
này có lẽ khác trước: gầy còm vì thiếu ăn, tiều tụy vì lo lắng; thế mà ông vẫn
nhận ra con của mình. Niềm đau buồn thương nhớ nay biến thành niềm hạnh phúc.
Điều này được diễn tả bằng các chi tiết vô cùng sống động mà ít người cha nào
có thể thực hiện được. Ông chạy ra, ôm chầm lấy con, hôn lấy hôn để. Thái độ của
ông được xem như là một ngoại lệ, không phù hợp với tập tục của người phương
Đông thời bấy giờ.
Tuy nhiên, qua
việc xử sự như thế, người cha đã biểu lộ một cách mãnh liệt tình thương mà ông
hằng ôm ấp đối với con ông. Qua ánh mắt, cả hai đều cảm nhận được những đau khổ
chồng chất, và những thay đổi trong cuộc sống từ ngày hai cha con họ xa nhau.
Hơn nữa, thái độ của ông - chạy, ôm cổ, hôn lấy hôn để - còn diễn tả tâm tình của
một người mẹ.
Tình thương và
sự vui mừng đã đạt đến cao điểm khi ông cắt đứt dự định thú tội của người con
thứ khi cậu muốn được đối xử như người tôi tớ trong nhà mà thôi. Ông không cho
cậu có cơ hội nói lên điều đó. Bởi vì, dù quá khứ của cậu có xấu xa đến đâu
chăng nữa, nhưng bây giờ, trong giây phút này, trước mặt ông, trong lòng ông cậu
vẫn là con trong nhà; mà đã làm con thì không bao giờ được coi như kẻ làm công,
ông không cho phép cậu tự hạ mình xuống hàng tôi đòi, vì như thế tức là xúc phạm
đến tình cha con. Con muôn đời vẫn là con yêu quí của cha.
Hãy quên đi quá khứ của mình mà mặc
lấy con người mới. Quyền thừa kế và vinh dự cũng được trao lại cho con. Con đừng
để các mặc cảm tội lỗi dầy vò cuộc sống mà hãy vui với niềm vui của cha. Hai
cha con đã thông chia cùng một tâm tình khi họ xa nhau, tình trạng này được gọi
là ‘tâm linh tương thông’. Đã như vậy, thì giờ đây cha con chúng mình hãy bước
vào để dự tiệc vui, tiệc đoàn tụ nói lên sự hiệp nhất và yêu thương của gia
đình mình. Bởi vì, theo cha, từ ngày con rời nhà ra đi thì trong gia đình của chúng
mình có một khoảng trống mà không ai có thể bù đắp được, ngoại trừ con. Giờ
đây, con đã tìm về sự sống với gia đình. Vậy chúng ta phải hân hoan và ăn mừng
chứ.
Tiệc vui đã được dọn sẵn.
Đến phiên ông con cả?
Người con cả lúc này đang ở ngoài đồng,
lo việc cho Cha. Khi về gần đến nhà, anh chẳng thèm bước vào để hỏi cha xem
chuyện gì đã xẩy ra mà nhà này lại vui như thế. Anh còn thua cả người giúp việc
nữa, bởi vì tuy là kẻ tôi đòi, nhưng họ cũng nhận được niềm vui của ông chủ khi
nghe ông báo rằng: “Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì được lại
cậu ấy mạnh khỏe.” Điều này, có nghĩa là phần chúng tôi đây, cho dù phận làm
tôi, nhưng cũng được thông phần vào sự vui mừng với ông chủ qua việc chuẩn bị
tiệc vui này cho thật chu đáo.
Mọi người đều vui. Người con cả đã
được báo tin vui. Nhưng phản ứng của anh thì khác. Anh nổi giận, không tiếp nhận
tin vui; trái lại còn biểu lộ sự bất mãn bằng cách tiếp tục đứng lỳ bên ngoài.
Người cha bước ra năn nỉ mà người
anh cả vẫn không nhận ra được nỗi lòng của cha. Trái lại, còn kể lể công lao,
phân bì, ghen tương, lên án và đặt điều nói xấu cậu em qua lời hờn dỗi sau đây:
Cha coi, con hầu hạ cha suốt cuộc đời, chưa bao giờ có ý định hay phản kháng lại
ý cha, thế mà đã bao giơ cha cho con đuợc tổ chức tiệc mừng với bạn bè chưa. Rõ
khổ, người cha bị anh loại bỏ trắng trợn; vị trí của mấy ông bạn còn trọng hơn
cha. Rồi anh tiếp tục: còn thằng con của cha; nghĩa là cha vẫn nhận nó làm con
và hình như nó không còn là em con nữa; vì kể từ ngày nó rời bỏ căn nhà này ra
đi thì con không màng đến việc nó sống hay chết nữa.
Đến nay, sau khi đã nuốt hết của cải
của cha với bọn điếm; nay trở về thì cha lại giết bê béo ăn mừng. Không biết
ông anh cả lấy chi tiết này ở đâu mà dám tăng thêm tội cho em mình là phung phí
tài sản với các cô gái như thế hay là cậu cả nhà mình lại gán cho cậu em điều
mà cậu cả hằng mơ uớc!
Cậu cả muốn nghĩ sao cũng được, vấn
đề ở đây là việc ông cha mời cậu cả cùng chung chia niềm vui gia đình với ông;
vì dù thế nào cậu vẫn là một thành viên trong gia đình này.
Công việc hầu hạ và không dám trái lịnh
cha của người con cả là một điều tốt. Nhưng các việc anh làm lại không đem lại
ích lợi gì cho anh vì anh làm trong tư thế của kẻ làm công. Anh làm để mong được
thưởng và chia sẻ phần thưởng đó với bạn bè, chứ không phải với cha anh. Anh
tuy sống trong nhà, nhưng thật ra con tim và lối sống của anh đã không thuộc về
gia đình nữa, anh đã thoát ly và đi xa hơn người em. Anh đã đánh mất tình cha
con, và tình anh em cũng không còn.
Vì thế, khi nghe người cha nhắc đến
cậu con thứ, anh liền lên tiếng xác nhận ngay ‘đó là thằng con của cha, có
nghĩa là nó là con cha mà không phải là em con.’ Tuy ở chung một nhà, thế mà có
bao giờ anh đã nhận ra sự đau khổ của cha khi mất cậu em. Riêng cậu cả thì kể từ
ngày em cậu ra đi thì cậu cả đã coi như em mình đã chết.
Người con cả trong trình thuật là thế
đó. Dường như dòng máu của người anh cả vẫn còn luân chuyển trong dòng máu của
chúng ta, nên lối hành sử của chúng ta vẫn là như thế!
Tóm lại, cao điểm và trọng tâm của dụ
ngôn vẫn là thái độ sống và lối xử sự của người cha. Ông là hình ảnh tuyệt diệu
của lòng nhân ái, tình yêu thương của Thiên Chúa. Ông yêu thương và tôn trọng
các con theo cá tính khác biệt của mỗi người con. Ông hiểu và thông cảm các
tính tốt cũng như tật xấu của mỗi người con. Chúng được ông yêu thương bằng
nhau. Đối với ông, cuộc sống của họ thật đáng quí trọng.
Vì thế, một lần nữa, ông bước ra để
xác nhận với người con cả, mang quyền thừa tự rằng “Con à, lúc nào con cũng ở với
cha, tất cả những gì của cha (tiền tài, vinh dự, niềm vui, nỗi buồn... cuộc sống
của cha) đều là của con.”
Cuối cùng, tình yêu và lòng thương
xót của Thiên Chúa vẫn là điều tuyệt hảo nhất mà chúng ta cần dựa vào. Tình yêu
này chúng ta đã không xin mà có, vì thế hãy hân hoan đón nhận và san sẻ cho nhau
nhưng đừng đòi đáp trả nhé.
Lm Giuse Mai
Văn Thịnh, DCCT
No comments:
Post a Comment