Chương 4
Ly dị:
không phải lúc nào cũng là chuyện sai quấy (tiếp theo)
(Bài 10)
Về
hôn-nhân, ngày nay sẽ không có ai hiểu đó là tương-quan quyền-lực giữa hai nhân-vật
không cân bằng. Càng ngày, ta càng thấy đây là thứ quan-hệ dục-tình giữa hai con
người muốn tạo sự sống mới, với nhau. Và, cả hai người đều muốn sẻ san niềm vui
xác thịt hoặc lao-động có phối-hợp, cốt ý tạo cuộc sống tốt đẹp về kinh-tế cho
gia đình, để rồi trở-thành cặp phối-ngẫu biết lên kế hoạch định-đoạt tháng ngày
chung sống, khi về già.
Quan-hệ
như thế, có thể cũng sẽ tạo xung-đột nghiêm-trọng, vì một bên không thể chấm-dứt
tranh-chấp bằng cách đơn-phương áp-đặt mọi chuyện lên phía bên kia. Với hôn-nhân,
lời thề hứa sống trung-thành và chăm-lo cuộc sống thoải-mái cho người phối-ngẫu
phía bên kia, sẽ buộc cả hai đi vào hiện-thực hoặc chẳng bắt buộc ai làm công
việc ấy.
Giả
như một bên đối-tác lại muốn có quan-hệ tình-dục ngoài hôn-nhân, thì cũng khó tránh
khỏi lời bàn ra tán vào của cộng-đồng và xã-hội, là những người vẫn mong cho hai
bên thể-hiện sinh-hoạt đồng dạng, theo cách hay nhất. Cứ nhìn cảnh-tượng nữ ‘thủ
trưởng’ nọ xách cặp-táp ‘rong ruổi đường trường’ lo doanh-thương là sự việc mà
ngày nay ai cũng thấy xảy ra ê hề tại phi-trường đây đó. Ngay đến quán trọ, là
nơi khi xưa nam-giới thích sắp đặt hẹn-hò tư riêng, thì nay phụ nữ lại coi đó
là chốn phục-vụ chuyên-nghiệp.
Mãnh-lực
kinh-tế của nữ-giới nay cứ thế dâng trào, nên hết kỹ-nghệ này rồi đến công-ty
khác vẫn tạo sản-phẩm và mẫu-mã quảng-cáo nào khả dĩ đáp-ứng năng-lực của nữ-giới
đã xuất đầu lộ diện ngày một nhiều. Các quyết-định quan-trọng về kinh-tế gia-đình,
dạo trước trực-thuộc lãnh-vực của nam-giới,
nay lại do cả hai bên tùy nghi định-đoạt.
Cả
đến thói quen tệ-hại như hút xách, nay cũng dành cho hai bên ra quyết định đồng
đều. Rốt cuộc, nay chẳng còn thấy đấng nam nhi khí-khái nào đó cứ rút vào
thư-viện hút điếu xì-gà đang hút dở rồi mới tính chuyện kinh-doanh, sau bữa ăn.
Cũng thế, ngày nay nữ-giới vẫn có quyền đặt chân đến quán-xá cà-phê định-vị tại
khu làm đẹp để thưởng thức món ‘cốc-tai’ và/hoặc hút thuốc ở quanh đó, theo ý muốn
mà không một ai lấy làm điều.
Lại
nữa, cơ-hội để người phối ngẫu phía bên này ly dị người bên kia, nay được cả hai
bên san sẻ đồng đều. Ở đây nữa, tôi không có ý đề-cao chuyện ly-dị, nhưng dù
sao ta cũng phải công-nhận rằng: những chuyện tương-tự phải để cho hai bên có
cơ-hội đồng đều mà quyết-định, hầu đi vào hiện-thực.
Khi
xưa, có thời thiên-hạ coi đặc-quyền ấy là ‘của trời cho’ tặng riêng đám đàn ông
thôi, nhưng nay thì việc này cũng thay đổi đến triệt-để. Nói cho cùng, thì điều
này có ý bảo rằng: xã-hội ta đã thành-công trong việc nhân đôi số người có thể
thoải mái thực-hiện việc ly-thân, ly-dị. Chính vì lý do đó, mà tỷ-số người ly-dị
còn gia tăng hơn nữa.
Tuy
nhiên, nhiều lý do khác nhau khiến việc gia tăng số người ly-dị cũng khá thường,
là: mối quan-ngại về tài-sản có chủ-nhân-ông là phái nam đứng sở-hữu, thì các kỳ
thị chống ly-dị nay suy giảm cũng rất
nhiều.
Vào
độ trước, khi ứng viên Adlai Stevenson,
Jr. đứng ra tranh cử tổng-thống Hoa Kỳ vào các năm 1952 và 1956, nhiều vấn
đề được đặt ra do sự kiện là: ông là người có lần từng ly dị. Cũng may, là ông
không tính chuyện tái giá, nên tránh được sự việc Giáo-hội thời đó phải có quyết
định, giả như các vị này lại vẫn tính chuyện lập gia đình thêm lần nữa.
Dù
sao thì đất nước này, hôm nay, vẫn không mấy chắc chắn về việc ta có nên cho
phép nam-nhân từng ly-dị vợ lại cứ ra tranh cử và bước vào Nhà Trắng nếu đắc cử.
May thay, hai mươi năm sau, mọi người lại đã đồng ý cho phép ông Gerald Ford được làm đám cưới với người
đàn bà đã từng ly-dị chồng cũ của bà một lần trước đó.
Thế
nên, sau nhiệm kỳ của ông Gerald Ford,
nước Mỹ đã hai lần bầu ứng-cử-viên tổng thống từng ly dị vợ và tái giá thêm lần
nữa là ông Ronald Reagan, vị tổng thống
nổi cộm và cũng khá ồn ào làm tổng thống nước Hoa Kỳ. Tình-trạng gia đình của
ông ta khi ấy, không còn bị cử-tri người Mỹ đặt thành vấn đề nữa. Bởi, ngay đến
Nữ Hoàng Anh lẫn Đức Giáo Hoàng thời ấy thảy đều đón tiếp ông cùng người vợ mới
cưới, theo nghi-thức long-trọng của hoàng gia. Đây, là điều mà ứng-viên Wallis Simpson cùng Vua Henry Đệ Bát khi xưa có muốn làm cũng không được.
Ngày
nay, những ai từng ly-dị vợ/chồng vẫn có thể lập gia đình thêm lần nữa và vẫn được
phép cử-hành hôn-lễ lần thứ hai theo nghi-thức phụng vụ Anh Giáo, Thệ Phản và cả
Công giáo, tức các đạo-giáo lâu rày chủ trương một vợ một chồng, mà thôi. Xem
thế thì, vị-thế công-khai của Giáo-hội Đạo Chúa, dù thay đổi, vẫn dị-ứng với vấn-đề
ly-dị và sự việc một trong hai người được phép tái giá như khi trước.
Thực-tế
cho thấy, việc thay-đổi ngôn-từ được thể-hiện một cách rất ư thận trọng, chẳng
hạn như từ-vựng “ly dị” trở-thành ‘bãi-bỏ’; và con người hôm nay hăng say hướng
về phía trước bằng vào tiến-trình cần-cù, đắt giá và chừng như bất cứ ai, nếu muốn,
đều có thể lập gia-đình thêm lần nữa. Và đặc biệt hơn cả, là: sự việc này, Giáo
hội ta vẫn sẵn-sàng ban phép lành cho cả hai họ, cũng dễ thôi.
Thêm
một điều nữa là: tìm hiểu lịch-sử về sự việc bảo rằng: sao Giáo-hội gồm toàn
nam-nhân lại có thể định-đoạt hết mọi chuyện cả đến sự việc ly-dị? Ly-dị, khi
xưa chỉ là thứ thất-bại, không đáng ta quan-tâm hoặc có khi lại thành tội, nay được
đưa vào luật-pháp chính-qui của Giáo-hội nữa.
Giáo
hội ta, khi ấy, thấy không cần đề ra tiêu-chuẩn để xem xét các án mạng, hoặc
các vụ đánh cướp ngân-hàng, hoặc hành-động mơn trớn trẻ nhỏ, đốt phá cửa nhà của
dân chúng, vv…. Chỉ mỗi người từng ly-dị rồi lại tái-giá, mới bị trừng-phạt bằng
vạ tuyệt thông, thế là xong. Ly-dị, lâu nay đe-dọa cấu-trúc sự sống và quyền-uy
của Giáo hội một cách nghiêm-trọng, lại còn gây ra biết bao là phiền-toái cho mọi
người.
Nay
thì, chẳng ai để mất nghị-lực mà dõi theo cơ-chế hoặc cá-nhân người nào để rồi buộc
mình phải đôi đầu với những vấn-đề vô bổ, chẳng kéo theo hệ-quả nào hết. Giáo hội
từng đối đầu với chuyện ly-thân/ly-dị cũng nhiêu-khê không ít, rồi lại ban hành
luật-lệ chống lại sự việc ấy, để rồi cuối cùng còn trừng-phạt những ai tham-gia
những chuyện tương-tự, kể cả đến chuyện trừ-khử vị nào dám vượt lằn ranh cấm kỵ
rồi tiến-hành hôn-nhân lần thứ hai. Nay thì, Giáo hội ở đây đó chỉ buộc người
ly-dị biết giữ mình cho tinh-khiết thôi.
Ngày
hôm nay, dù có mối đe dọa chống đối tư-thế của các tôn-giáo có tổ-chức qui củ, thì
sự việc ly-dị lại trở-thành không chỉ là việc liên-quan đến luật pháp mà thôi,
nhưng lại được coi như chuyện bình thường ở mọi huyện. Hôn-nhân, dễ bị tổn
thương hoặc vỡ đổ như thế, nay thật khó tán thành.
Tuy
nhiên, đó không là chuyện để ta phải lên án cho ra nhẽ. Ly-dị, nay cũng có
giá-trị tích-cực của nó khiến ta cần tách riêng thành chuyện biệt-lập và hỗ-trợ,
đồng thời coi đó là tiềm-năng mang tính hủy-hoại. Thành thử, ta cũng nên giảm
thiểu số lượng trường hợp xảy ra.
Theo
tôi thì, Giáo hội thời nay cũng nên xem xét hôn-nhân và ly-dị một cách nghiêm-túc.
Giáo hội cần nhận-thức và tuyên-bố một cách cởi mở rằng: ly-dị không phải là thứ
tội khó có thể tha thứ và không phải lúc nào nó cũng mang tính bi-thảm hết.
Thật
ra thì, trong nhiều trường-hợp, ly dị lại là và có thể là sự việc mang tính
tích-cực và tốt đẹp nữa. Bởi, sau khi làm hết mọi việc mình có thể làm được hầu
thực-hiện lời hứa hỗ-trợ hôn-nhân, Giáo hội cần ủng-hộ người ly-dị khi đôi bên các
vị ấy đi đến quyết định rõ ràng. Tư-thế thụ-động hoặc phản-bác việc ly-dị một cách
nhỏ nhen, chẳng những không giúp ích được gì, đồng thời cũng chẳng mang tính cảm-thương
chút nào hết.
Ngày
nay, món quà khả dĩ giúp cho hôn-nhân được thành sự là thái-độ ân-cần tương-trợ,
và là khả-năng thực-hiện việc hy-sinh tự nguyện cuộc thương thảo. Việc
thương-lượng đòi ta phải biết uyển-chuyển, coi đó như sự đồng đều về uy-lực tạo-dáng
hoặc hình thành quyết định chung cuộc.
Ly
dị, lại trở-thành thứ gì đó thay thế xung-đột mà ta khó giải quyết được. Và như
thế, nó được cả hai phía phối-ngẫu chọn theo cách cân bằng, đồng đều. Thêm nữa,
nó luôn mang tính trung-lập và không xứng-đáng để có được đáp trả tự-động bằng việc
lĩnh-nhận án phạt từ Giáo hội. Ly-dị, trở-thành một thứtổn-phí mà xã-hội phải
thanh-trả khi ta cần bận tâm giải-thoát phụ nữ.
Tôi
tin rằng, muốn đảo ngược chỉ số người ly-dị đang có chiều-hướng dâng cao, ta cần
bãi-bỏ áp-lực của sự cân bằng/đồng đều đang gia tăng giữa hai phái tính. Trả được
giá này cũng khá đắt. Có thể-hiện động-thái như thế, Giáo hội mới nhận ra được
sự kiện mà ta đề-cập ở đây. Có thể nói mà không bị cho là ngoa ngữ, thì hiện giờ
phân nửa số hôn-nhân thực-hiện ở giáo-phận tôi chăm sóc, là trường hợp các vị từng
ly-dị.
Nay,
là thời điểm để ta phát-biểu một cách tích-cực, rằng: người ly-dị không phải
lúc nào cũng là quỉ ma hết. Họ không là những người luôn vướng mắc vào vòng tội
lỗi bao giờ hết. Và không phải lúc nào ta cũng nên lên án họ hết. Đôi khi, ly-dị
lại là con đường dẫn đến cuộc sống mới đầy sung-mãn cho một hoặc cả hai phía từng
đính-kết với nhau một cách chính-thức.
Nữ-giới
đã khám phá ra rằng: họ không chỉ có mỗi tự-do hủy bỏ thứ hôn-nhân gây tai-hại cho
một số chuyện, nhưng không hủy-hoại cuộc sống của mình, thế nên cả hai phía, nam
cũng như nữ đều có thể chọn phương-cách không nhất-thiết phải lập gia-đình. Và sau
này cũng thế, nữ phụ nào muốn sinh con và dưỡng-dục chúng theo tư-cách người
cha hoặc mẹ đơn chiếc cũng đều được.
Hôn-nhân,
không là ơn gọi phổ-cập với mọi người. Nữ giới, nay khám phá ra rằng: khi hành
nghề, họ có thể phát-huy thứ cảm-xúc mà người đàn ông biết trước là nó sẽ ra như
thế. Về các bậc nữ-lưu có khả-năng sống tự-lập về kinh-tế, sẽ thấy là hôn-nhân gây
tổn-hại cho nghề-nghiệp của họ, lại qui trách-nhiệm về tài-chánh cho cả hai phía.
Thành
thử, giả như họ bị áp-lực từ một xã-hội chuyên o-ép bắt họ phải lập gia-đình, là
cốt ý để họ có thể kết bạn mà giao-dịch hoặc vì nhu cầu sinh lý mà thôi. Phải thế
không, thưa quí vị?
Cũng
hệt thế, chức-năng làm mẹ không còn là vấn-đề buộc phái nữ phải đạt cho bằng được
về sinh-lý học. Là phụ nữ, các chị có thể chọn không mang thai hoặc không nuôi
con dạy cháu, không như mục-đích ban đầu của hôn-nhân buộc các chị phải sống
như vậy. Thế nên, quan-niệm mới ở đây, đã lay-chuyển yếu-tố mà người xưa từng lập
ra cốt để củng cố thể-chế hôn-nhân nghiêng về phía nam-nhân, thôi.
Thêm
nữa, vấn đề hỏi rằng: ta có cần phải cưới hỏi nữa hay không? Câu hỏi này, lại
càng trở nên nhức nhối hơn với nam-nhân và nữ-phụ nào từng thấy chua xót/thất-bại
do hôn-nhân gãy đổ tạo nên. Những người như thế, càng nhận-thức rõ hơn nhiều người
khác về mức thương-tổn của việc tiến tới ly-dị. Do đó, những người này càng
không muốn trở-thành những kẻ dễ bị thương-tổn với nỗi khổ-đau tương-tự; thế nên,
không ai dại gì để mất nhu-cầu có tình bạn, sự thán phục và mối thương cảm, hết.
Giả
như phía nam-nhân hoặc nữ-phụ đã ly-dị, lại không có khả năng hoặc không muốn
có quyết-định thề nguyền chung sống với nhau, thì bản-chất của tương-quan giữa
hai người sẽ ra sao? Phải chăng hôn-nhân
chỉ là mối tương-quan trong đó việc thầm kín yêu thích dục-tình có thể được sẻ-san
vào bất cứ giai đoạn nào trong cuộc sống chứ?
Vấn
đề này sẽ được bàn kỹ lưỡng ở chương 13 sau này. Nay, thiết nghĩ nói thế cũng đủ
để bảo rằng: hôn-nhân không là kế hoạch sống trọn đời của nhiều người trưởng-thành
còn ‘ở vậy’, do một số lý do tốt đẹp cũng đã đủ. Yếu tố này, cần được khẳng-định
cho rõ hơn.
Những
người trưởng thành mà không lập gia-đình nói ở đây, đã và sẽ không bị ràng buộc
bởi những phán-xét đạo-đức của thời đã qua vốn đảm-bảo việc người phụ-nữ phải
tùy thuộc vào đàn ông/con trai. Những người như thế, không thích-hợp với khuôn-khổ
có qui-ước lại cũng chẳng muốn thử như thế.
Phần
đông những người trong số đó không là người hỗn-tạp. Bởi, hỗn-tạp là lối sống của
một số ít người mà thôi. Tương quan có trách-nhiệm là chuyện thường thấy hơn. Phải
chăng việc này coi như tốt đẹp được xã-hội và giáo hội chính-đáng quyết đeo đuổi
tiêu-chuẩn luân-lý chứ?
Việc
các vị ấy theo đuổi nghề-nghiệp riêng rẽ nhưng đòi hỏi có được cơ-hội đồng đều
lại sẽ tạo thêm căng-thẳng cho hôn-nhân. Khi căng thẳng này khiến cho hôn nhân
gãy đổ, thì ai là người bảo rằng: cặp phối-ngẫu nào đang tìm cách ly-dị là sai
trái và là hệ-thống hà-khăc của thời đã qua, coi đó là chuyện đúng đắn sao? Họ
phải giáp mặt với vấn-đề luân lý/đạo đức nào đây?
Với
nhóm người mà hôn-nhân là tài sản thì những người như thế có quyền áp-đặt
tiêu-chuẩn nhằm nâng cao đời sống của họ trên những người chọn con lộ nào khác
chứ? Có chăng chỉ một đường-lối sống duy-nhất thích-hợp với luân0lý? Điều gì
làm cho họ ra như thế? Do từ nơi đâu xuất-hiện ý-tưởng bảo rằng: sinh-hoạt dục-tình
bên trong hôn-nhân, luôn là điều lành thánh, đáng tuân theo?
Hôn-nhân
chẳng thể nào khiến sinh-hoạt dục-tình trở-thành lành-thánh, mà chính phẩm-chất
của tương-quan giữa hai người mới là thế. Phải chăng việc ăn nằm xác thịt ngoài
hôn-nhân luôn là hành-động tội lỗi? Điều gì xảy đến, khi ta áp-dụng chuẩn-mực của
Thánh-kinh để xét-đoán cây cối do từ hoa trái của nó?
Lấy
ví dụ để dễ thấy được tương-quan giữa hai người có quyết-tâm, nhưng họ lại không
thiết-lập hôn-nhân, đó là: tình-yêu, sự vui-thú và an-lành trong khi nỗi đắng
cay, nhọc nhằn và đớn đau của luân-lý/đạo đức theo truyền-thống được thích-ứng
đến độ tìm điều tốt lành để bảo-đảm bằng các cấm kỵ đặc-thù và các khẳng-định được
thực-thi bên trong một chuỗi các khẳng-định cùng cấm đoán xứng-hợp với các giá
trị ở thời hiện-đại được cả nam lẫn nữ tuân-thủ ư?
Bởi,
Giáo hội có ngôn-từ nào dành cho con số khá đông người trong xã-hội, ngoại trừ chỉ
duy-nhất có một từ vựng ‘lên án’ là không xứng-hợp, thôi. Bởi, Giáo hội nói
năng theo kiểu phán-xét rập theo luân-lý, lại không nhẹ-nhàng bảo rằng: động-lực
tích-cực và tốt đẹp tạo nhiên-liệu cho các thói-tục đang thay đổi, được nắm bắt
hoặc thông hiểu, tự nó mang tính vô-luân và chẳng đạo-lý gì hết. Bởi, Giáo hội không
nhận ra rằng: các quy-tắc luân-lý rập theo truyền-thống của mình phải ra khỏi nơi
đó, và nó vẫn thúc-ép diễn-giải hệ-thống nam-nhân đàn-áp nữ-giới một cách vô
trách-nhiệm.
Trong
phấn đấu cho phẩm-cách và ý-nghĩa đang thay đổi là nơi mà Giáo hội cần vào đó
mà ngụ-cư. Giáo-hội sẽ có tiếng nói đầy quyền-lực ở địa-hạt này; tuy nhiên, chỉ
khi nào mọi người nhận ra rằng thông-điệp ban đầu mà Giáo-hội bày-tỏ sẽ không
là lời kêu gọi nhàm chán/rốt ráo để mọi người quay về với kết-luận đạo-đức của
thời đã qua, mà chẳng lý gì đến những người lâu nay từng là và sẽ là nạn-nhân của
hệ-luận hệt như truyền-thống qui-định.
Riêng
tôi, tôi không muốn thừa-nhận yêu-sách cho rằng nền luân-lý lâu nay từng đóng
băng suốt vào thời nam-nhân khuynh-loát/khống-chế phụ nữ. Lại nữa, tôi cũng chẳng
tiếc nuối bảo rằng: việc cảm-thông/công-nhận thứ luân-lý đang chết dần chết mòn
ấy.
Đúng
ra, tôi dám tuyên-bố rằng: nền ‘luân-lý mới’ đang trồi-dậy sẽ trưng-diễn cho thấy
hoa quả của Thần Khí. Và thành-đạt ấy, được xây-dựng trên nền-tảng của việc nam
nữ phụ thuộc lẫn nhau. Nhân-danh những người được hưởng-lợi từ ý-thức đang trổi
bật, tôi hoan nghênh những tháng ngày mới đang xuất đầu lộ-diện và tin rằng:
Thiên Chúa Đấng tiếp tục kêu gọi mọi người hãy sống theo khả-năng mới để rồi hướng
ra ngoài mà thấy được rằng ‘tạo-dựng mới’ đã xuất-hiện để rồi công-nhận đó là
điều tốt đẹp.
Chú thích:
- Jean
M. Auel, The Clan of the Cave Bear (New York; Crown, 1980); The Valley of the Horses (New York:
Crown 1982); The Mammoth Hunters (New
York: Crown, 1985).