NIỀM VUI VĨ ĐẠI - Kỳ 6
HỒI KÝ 50 NĂM LINH MỤC
14. NGÂN KHÁNH LINH MỤC
Ngày 8.9.1981, tôi mừng Ngân Khánh Linh Mục trong phòng giam Chí Hòa. Tôi cố gắng sống “một ngày như mọi ngày tù”, nhưng lòng trí hướng về Đấng tôi thờ và nỗ lực nhỏ bé để phục vụ. Ngày kỷ niệm này được sống trong lòng yêu mến, biết ơn và cầu nguyện. Tôi cầu để ở trong hoàn cảnh này, tôi vẫn làm chứng cho Tình Thương Cứu Độ. Thực tế thì tôi phải sống làm sao “cho ra Linh Mục”, để người ta vừa không chê cười được tôi, coi rẻ Hội Thánh và chẳng nhận được tín thư của đời tôi là tín thư của Đức Giê-su.
Tôi chia sẻ kỷ niệm với anh em Công Giáo khoảng mươi người trong phòng giam. Tôi mời mấy anh em, trong số có một cựu bộ trưởng, một nhà giáo, một Chủng Sinh... Ngồi quây quần với nhau quanh vài cái ly “nước lạnh”, mấy cái bánh và chúng tôi... dâng lễ “Tạ ơn” và “dùng tiệc liên hoan”. Ngày Ngân Khánh cũng thật tràn trề niềm vui và thật sự tôi không cảm thấy thiệt thòi gì vì “niềm vui vẫn trọn vẹn”.
Sau khi ra khỏi tù, nhiều anh em có tình thương đề nghị tôi mừng Ngân Khánh Linh Mục. Một lễ tạ ơn được tổ chức tại nhà, có sự tham dự của một số anh em trong Dòng. Nhân dịp này, tôi có viết mấy trang suy tư để kỷ niệm và khơi dậy những tâm tình trong lòng. Tôi xin chép lại những gì tôi đã viết cách đây 24 năm.
Viết trong dịp mừng lễ Ngân Khánh Linh Mục của tôi.
Trễ một năm 8.9.1956 – 1982. Nhớ ngày Hồng Ân !
Đã 26 năm, tôi là Linh Mục ! Thời gian thật dài, nhưng nhìn lại cũng rất là ngắn. Nhìn tới, tôi thấy như thời gian của tôi đã gần chấm dứt, ngày Chúa đến đã thật gần, ngày gặp mặt trong hân hoan nhưng cũng là ngày đáng kinh hãi: “Nếu Chúa xét tội, ai trần gian đứng vững”.
Nhưng qua mọi chặng đường, giữa những dao động, biến cố trần gian với tầm mức quan trọng cho vô số người thì cuộc đời tôi, cách riêng cuộc đời Linh Mục của tôi, Chúa đã vạch ra như giòng suối rẽ đá tìm đường nhất định phải về biển cả. Có những con suối rất ngắn vì đã vội vã biến mình trong dòng sông thác lũ; có những ngọn suối khi cạn trong mùa hè nắng ráo không tải ấm mát và sự sống mong chờ; có những con suối lúc chìm lúc nổi, khi rẽ đá, xoi đất, lúc vạch lá len lõi, khi chui sâu vào lòng đất để rồi lại xuất hiện như một mạch nước mới trong mát; con suối nọ biến vào bùn lầy, tan trong ao tù dơ bẩn... .
Đời tôi là một giòng suối mà đường đi hướng chảy đã được
Ngày 8.9.1956, sau 10 ngày cấm phòng, tôi ngơ ngác thấy rằng: Linh Mục, lý tưởng ước mong từ thuở nào, mới đây còn rất xa vời, nay đã là của tôi. Không có gì ngăn trở tôi làm Linh Mục. Không còn trở ngại nào nữa: Sự học, Bề Trên, Sức khoẻ, Giáo Dân, bạn hữu v.v... Tất cả đều đã thông qua rồi !
Trong giây phút này, chỉ còn có một mình tôi. Chỉ còn có một mình tôi có thể tự ý rút lui không tiến bước. Tôi có thể không tiến bước, Chúa vẫn để tôi tự do; vẫn tôn trọng sự tự do của tôi, và mặc dầu là
Đối với tôi, cũng như đối với tất cả mọi người khác, cũng như đối với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a,
Hôm nay đây, một lần nữa, một lần dứt khoát, lại bvị
Tôi đã mặc chiếc áo Dòng mới, đã đi đôi giày mới mà các Bề Trên thường ban cho anh em trong Dòng nhân dịp khấn, chịu chức... Tôi đã suy nghĩ rồi. Nhưng giờ này tôi vẫn thấy một sự xôn xao trong tâm hồn.
Tôi lại sống được ngày hôm nay sao ? Những bộ áo lễ đã được dọn ngay ngắn cho anh em chúng tôi. Đụng vào những bộ lễ phục đó, là dứt khoát cả một tâm trạng đã hun đúc từ bao năm mà tôi coi như là trong những năm hạnh phúc và vô tư nhất của cuộc đời tôi. Tôi đã nhiều lần trả lời với Chúa, và tôi vẫn phải trả lời hằng ngày với Ngài, nhưng câu trả lời hôm nay có một tính cách đặc biệt: “Từ nay, Thầy không còn gọi con là tôi tớ nữa. Con sẽ là bạn của Ta”.
“Ta sẽ cho con biết mọi việc Ta làm ! Ta sẽ san sẻ vui buồn với con. Ta sẽ chia sẻ với con những ưu tư của sứ mệnh cứu thế”. Vinh dự và gánh nặng ! Honor – Onus !
Cầm chiếc khăn vai, mặc chiếc áo trắng, tôi phải lấy nghị lực của mình, bởi cử chỉ như lúc ấy chính là một sự chấp nhận, một lời XIN VÂNG. FIAT ! Này con đây ! Tôi không thể lui được, vì hồng ân của Chúa đã thúc bách tôi, vì tình yêu của ngài đã đưa dẫn tôi, mặc dầu tôi vẫn thấy vô cùng sợ sệt.
Cuộc tiến bước của tôi lên Bàn Thánh Chúa thật là tuần tự, không cưỡng lại được tôi. Tôi có cảm tưởng như đời tôi không do tôi sắp đặt. Tôi phải đi, chấp nhận đi, không được do dự, không được ngại ngùng, không được âu lo cho ngày mai. Từ thuở nào rồi tôi đã chấp nhận lên đường với Ngài. Đã lên đường thì phải đi, phải tiến, và tôi cũng biết rằng: không phải ngày nào cũng ấm mát. Đường là có bụi bặm, đường là có nắng, có mưa, có bùn lầy, có đá sỏi gai góc... Lên đường, chúng ta còn có cặp mắt yêu thương hay ít ra thán phục, chứng kiến... nhưng qua khúc quanh đầu tiên, những cặp mắt kia đã khuất... và chỉ còn có một mình với đôi chân mỗi phút mỗi thêm mỏi mệt, với nhịp tim thêm mau, với bụng dạ cồn cào và với sự cô quạnh càng ngày càng thêm sâu đậm. Càng đi xa, càng vắng bóng những người quen thuộc, càng mất hẳn những cảnh thường gặp.
Lên đường với Chúa... Nhưng Ngài lại là một
Nỗi ngạc nhiên và cảm động của tôi là nhận ra vị Giám Mục sẽ đặt tay trên tôi và xức dầu cho tôi chính là vị Giám Mục của Địa Phận Thanh Hoá, đấng đã ban cho tôi phép Thêm Sức, đấng đã chúc lành cho tôi, khi tôi lên đường vào Đệ Tử Viện Huế. Năm 1939; tôi còn nhớ ngày 26 tháng 7. Hôm nay ngài đã già và hiện ở tại Tân Thanh, Bảo Lộc. Các vị Bề Trên đã nghĩ đến việc mời ngài, do ý định của
Trong khung cảnh kín đáo, ấm cúng của Nhà Nguyện Học Viện Dòng Chúa Cứu Thế, với những người tham dự thật ít, Thánh Lễ đã khởi sự. Sau lưng tôi là các cha các thầy – những giáo sư của tôi, các Bề Trên của tôi, những ân nhân, bạn hữu – và đối với riêng tôi, cuộc di cư 54 đã đưa đến cho tôi sự hiện diện của chị tôi, em tôi, anh Thư là một số người đồng hương cùng xứ Nhân Lộ.
Tôi đã nói đến anh Thư. Con người này cũng có mặt. Thật là một sự tế nhị khác của
Tôi đã viết, viết mà không suy tính gì. Và thơ trả lời đã đến, báo cho biết Nhà Dòng đã nhận tôi. Anh Thư đã về nghỉ hè và khi trở lại, tôi đã đi với anh... vào Dòng. Chỉ có thế ! Rồi sau đó, một hai năm gì đó, anh Thư, anh Phương đều rời Đệ Tử Viện, chỉ còn một mình tôi. Một mình tôi cho đến hôm ấy, 8.9.1956.
Tôi có quyền mà tin tưởng rằng.
“Từ muôn thuở Chúa đã yêu tôi, một tình yêu không bờ bến
Nay tôi biết lấy chi báo đền lòng từ ái Chúa vô biên...”
Và tôi đã tiến bước trong tin tưởng. Ngài đã kêu thì ngài sẽ giúp tôi trả lời, và tôi đã trả lời thì ngài sẽ giúp tôi trung tín. Vị Giám Mục đã đặt tay trên tôi, người đã xức dầu trên tôi và tôi là Linh Mục, từ hôm nay và cho đến muôn đời.
Ngày hôm ấy, tôi đã ghi lại nhật ký linh hồn. Trong thời gian ở tù, tôi đã có ý định và chờ ngày về để đọc lại những tâm tình vội ghi ngày hồng ân đó. Nhưng Chúa đã không muốn. Mọi sự – nhất là cuốn ký sự linh hồn của tôi từ khi còn bé cho đến một thời gian sau, đã biến mất trong cuộc “tảo thanh” của đủ mọi hạng người. Tôi không biết tôi đã ghi lại gì, chỉ chắc một điều là tôi đã tạ ơn ! Tôi biết nói gì khi không còn biết nghĩ gì trước trận lụt tình thương của Đức Chúa Trời. Tôi không đọc lại được những tâm tình mới mẻ ngày thụ phong. Tôi phải có những tâm tình, những xúc động của một ngày thụ phong mới, ngày thụ phong của 26 năm làm Linh Mục với những gì đã làm, những gì đã suy nghĩ, với cuộc sống đầy vui buồn, đầy đau khổ, đầy thử thách, lắm ngã sa và thất tín, nhưng với niềm vui đã chân thành với Chúa, với chính mình và đã không lùi bước trước bất cứ điều gì biết là tốt, có thể đóng góp vào chương trình cứu rỗi và loan báo tình thương của Đức Chúa Trời.
Hôm nay, tôi nhớ lại cái buổi sáng 8.9.1956 đó, và sống ngày 8.9.1982 hôm nay như một ngày thụ phong mới. Tôi thiết tha cầu xin Chúa Thánh Thần xuống tràn trí tôi, hồn tôi, xác tôi, đời tôi, việc lành và tội lỗi của tôi để đổi mới tất cả, thiêu đốt nhơ bẩn, đem ánh sáng vào nơi tối tăm, uốn nắn mọi sự trong tôi cho một cuộc lên đường mới.
Tôi khẩn khoản nài xin Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Mẹ Linh Mục hãy ở cùng tôi, như xưa Ngài đã ở giữa các Tông Đồ và để kéo Thánh Thần xuống trên các đấng, khai mạc một kỷ nguyên mới mà Thánh Linh
Ôi ánh sáng huyền dịu
Hãy soi mọi khúc khuỷu
Trong tâm hồn tín hữu
Hãy rửa mọi tì ố
Hãy tưới nơi đại hạn
Hãy chữa lành vết thương
Hãy uốn những cứng cỏi
Hãy thiêu đốt lạnh lùng
Và hãy sửa lại những lỗi lầm
Hãy mở đường vào cứu rỗi
Hãy ban bố niềm vui muôn đời
AMEN, ALLELUIA.
Tôi là Linh Mục – Viết để tạ ơn Chúa và Mẹ Maria vì 26 năm Linh Mục
“Tôi là Linh Mục”. Lời ấy văng vẳng bên tai tôi, không ngớt, kể từ ngày 8.9.1956, thay thế cho lời tự nhủ mà tôi thường nói với chính mình từ bé và trong suốt cả thời gian học hành để đạt đến lý tưởng: ”Tôi sẽ làm Linh Mục”.
“Tôi sẽ làm Linh Mục”. Lời ấy đã giúp đỡ tôi, khuyến khích tôi không ngừng trong những lúc gặp buồn phiền chán nản, khó khăn trong sự học hành và tiến bước. Lắm lúc “Tôi sẽ làm Linh Mục” đã biến thành “Tôi phải làm Linh Mục” với tất cả sức mạnh của quyết tâm và lời cầu tha thiết của tôi.
Thế rồi, thời gian trôi qua, nhẹ nhàng đến độ tôi coi như là chuyện dĩ nhiên rằng tôi sẽ làm Linh Mục. Tôi không biết tại sao, nhưng tôi có một xác tín như thế. Tôi không biết dựa vào đâu để tin tưởng rằng: ngày ấy sẽ đến cho tôi, ngày ấy PHẢI đến cho tôi: “Tôi phải làm Linh Mục”, mặc dầu tôi không có gì cả, tôi không là gì cả.
Tôi nhớ lại, thời còn ở Đệ tử, cứ mỗi lần có người “về”, tôi lại có một sự so sánh, và thấy mình phải là họ. Tôi có nhiều lý do hơn họ để phải xách gói ra về. Tôi yếu đuối về thể xác, tôi kém cỏi về học hành, tôi thích chơi hơn cầu nguyện. Tôi chẳng có phần nào bù lại được với các anh bạn khoẻ mạnh, học giỏi, sốt sắng đạo đức, cả ngày chỉ có biết lớp học và Nhà Nguyện. Thật, tôi thấy tôi chẳng được gì cả.
Thế rồi, lúc ở Học Viện, khi có anh em nào rẽ sang đường khác, tâm tình tôi lại không còn là: tại sao không phải là tôi ? Nhưng lại là một sự vững tâm khác hẳn với những sự bấp bênh mà tôi cảm thấy khi còn ở Đệ tử Viện. Tôi tự nhủ: ”Không đặt lại vấn đề nữa. ” và tôi bình an. Tôi không tin rằng: sự kiện Bề Trên bảo với tôi là tôi không có ơn kêu gọi sẽ không thể xảy ra, bởi tôi xác tín về một lời kêu gọi mà Chúa đã ban cho tôi. Tôi không nghi ngờ gì nữa. Tôi lại thêm vững tâm khi nhớ rằng: Chúa đã muốn mà, tôi không thể không làm Linh Mục được.
Tại sao tôi lại có thể có hai tâm tình khác biệt nhau như thế ? Tại sao tôi lại đinh ninh rằng tôi sẽ không bao giờ rẽ đường khác, tôi không thấy một lý tưởng nào khác ? ! Tại sao tôi lại có thể vững tâm như vậy ?
Chắc chắn không phải vì tôi thấy mình xứng đáng hay đã sẵn sàng. Kinh nghiệm đời sống của chính mình tôi đã cho tôi biết không phải như thế đâu và càng hiểu về tôi, tôi càng thấy tôi không có gì cả, tôi không đáng gì cả, tôi không là gì cả. Thế mà hôm này đây, 8.9.1956, Tôi là Linh Mục !
Lạy Chúa Ki-tô, con là Linh Mục.
Cùng với Ngài, con là Linh Mục
Như Ngài và nhờ Ngài, con là Linh Mục,
Cho vinh quang của Chúa, con là Linh Mục,
Từ hôm nay cho đến đời đời, con là Linh Mục.
Con thấy rõ, con là Linh Mục không phải vì con, nhưng vì tình yêu Chúa.
Con là Linh Mục không phải cho con, nhưng cho những ai Chúa thương. Con là Linh Mục đời đời cho vinh quang muôn đời của Chúa.
Đúng như thế, tôi đã thấy mình thành Linh Mục. Tôi không thể tưởng tượng được rằng thời gian ấy đã đến, đến như phải đến, đến như một định luật. Tâm tình trong tôi vừa êm ả dịu dàng, vừa là bối rối. Êm bởi thấy lý tưởng mong đợi đã đến với tôi. Bối rối như tưởng rằng có một sự lầm lẫn nào đó. Nghĩa là tôi tin chắc tôi sẽ là Linh Mục, nhưng sao lại dễ dàng và mau chóng như thế. Phút chốc, cả 16 năm học hành, tập tành, chờ mong, lo âu khắc khoải, vừa sợ vừa mong, vừa trông vừa tránh, vừa muốn vừa ngại, vừa tìm vừa trốn v.v... như phụt biến mất. Không biết Anh em khác thế nào, nhưng tôi thì có tâm tình như là Chúa lầm tôi.
Không, lạy Chúa, Chúa không lầm đâu, Chúa biết con từ trong dạ mẹ kia mà, Ngài đã yêu con từ đời đời kia mà... Hôm nay, với tất cả tình yêu dào dạt trong trái tim của Người, Chúa Ki-tô đã hiến thánh tôi và đã nói với tôi: “Con là Linh Mục đời đời của Cha. Tu ES SACERDOS IN AETERNUM”.
Tôi ngơ ngác như đứa bé trước trò chơi lạ. Không kịp chớp mắt, tôi chứng kiến hết cái lạ này đến cái đẹp khác. Khi Bề Trên của tôi giới thiệu chúng tôi với Đức Giám Mục và nghe Ngài hỏi lại: “Cha biết họ có xứng đáng không ?” Tôi nghĩ rằng lời đáp lại của cha Bề Trên không nói đến tôi mà chỉ có ý chỉ đến các bạn đồng lớp: “Theo nhận xét của con thì họ xứng đáng !”
Với giọng trầm trầm và đầy cảm động, vị Giám Mục luôn nói mấy chữ vừa đầy kinh hãi đối với tôi, vừa tràn niềm vui tin tưởng: DEO GRATIAS ! TẠ ƠN CHÚA ! Sợ hãi vì vị đại diện
Deo gratias ! Lời tạ ơn ấy, Tôi đã làm hằng ngày, kể từ khi tôi là Linh Mục và đối với tôi thì lời tạ ơn ấy còn có giá trị gấp bội. Quia fecit mihi magna qui potens est. Người đã đoán đến sự khiêm hạ, khốn nạn của tôi: Respexit humilitatem meam.
Từ ngày tôi là Linh Mục, và cách riêng sau những năm mang xác phàm cho một chức vụ khủng khiếp, tôi đã nghiệm lời suy niệm của Phao-lô trong thư gởi tín hữu Do Thái ( x. Dt 5, 1 ): “Vì mọi thượng tế lấy giữa loài người thì được đặt lo việc
“Lấy giữa loài Người !” Những tiếng ấy vô cùng quan trọng. Tất cả mọi Linh Mục, cách riêng tôi, tôi đã cảm thấy, nghiệm thấy một cách thực tế sự thật đó: Tôi được lấy giữa loài người. Và tôi đã biết thế nào là lấy giữa loài người. “Ngài có thể chạnh thương những kẻ u mê lầm lạc, vì chính ngài cũng lâm phải yếu đuối tư bề”. “Và vì yếu đuối, thì cũng như cho dân, Ngài phải dâng lễ đền tội cho mình” ( Dt 5, 2 – 3 )
26 năm Linh Mục của tôi đã qua rồi ! Chỉ một ngày làm Linh Mục cũng đã phải làm cho tôi biến dạng: “Alter Christus”. Chỉ một ngày mang nặng chức vụ đó cũng phải làm cho tôi không còn là xác thịt, không còn là tội lỗi, không còn là ích kỷ, là nóng giận, lười biếng, tham lam, bủn xỉn. Tôi đã là một Kytô khác rồi kia mà !
Không ! Không phải thế ! Mang tội cho đến giây trút hơi thở cuối cùng trên Thánh giá, Chúa Kytô đã phải đền cho đến chết, Người đã phải bị ruồng bỏ, và trở nên “vật đáng kinh tởm trước
Ngài đầy tội, Ngài là ”con chiên mang tất cả tội lỗi trần gian !” Tôi cũng đầy tội, tội của tôi trước hết ! Tôi cũng phải đền cho tội lỗi trần gian. Của lễ tôi dâng hằng ngày là lễ vật đền tội cho toàn thể loài người; cho toàn thể loài người !
“Lấy ra từ giữa loài người”, tôi còn nặng trên vai tội lỗi của chính mình. Thật là kinh khủng. “Và vì yếu đuối thì cũng như dân, Ngài phải dâng lễ đền tội cho mình”. Chúa Ki-tô đền tội cho đến giọt máu cuối cùng của con tim Ngài, để Chúa Cha, Cha Ngài tha thứ cho loài người mà Ngài đã hoà đồng khi mang xác phàm và thân phận làm người, mà Ngài đã nhận là “đồng số phận”; là “anh em”, là “chi thể”.
Ngài đã cho chúng ta biết được, hiểu được Tội là gì, khủng khiếp đến đâu ! Và chỉ khi Ngài đi đến cùng, làm theo ý Cha Ngài đến mức chót thì khi ấy Ngài mới được thương xót “Consummatum est”. Chết đi để được tha thứ trọn vẹn cho toàn thể nhân loại và có thể nói là cho chính mình Ngài vì đã đầy ô uế của nhân loại, vì đã chung kiếp điêu tàn của loài người. Tình thương Chúa Cha đã ào ạt trở lại làm vinh quang cho Ngài, đã kéo Ngài ra khỏi mồ mả để phục sinh Ngài trong vinh quang.
26 năm Linh Mục. Tôi hiểu rằng: tôi phải ở trên Thánh Giá cho đến giây phút chót của cuộc đời tôi. Cuộc chiến chống với kẻ thù tội lỗi tiếp diễn không ngừng cho đến hơi thở cuối cùng. Là Linh Mục, tôi phải đền tội cho đến hết đời, vì tội lỗi níu vào tôi, hành hạ tôi, tội như con đỉa đói. Tôi cảm thấy thấm thía cái gan lì, cái lì lợm của tội. Tôi đã kinh nghiệm nó trong cuộc sống Linh Mục của tôi khi thi hành nhiệm vụ cứu rỗi loài người với Chúa Ki-tô, và nhất là khi tôi trở về với chính tôi.
Tôi đã đa phen kêu van, nũng nịu và trách Chúa, nhưng Ngài vẫn từ ái bảo tôi: “Con được lấy ra từ giữa loài người và cho loài người. Ơn của Ta đủ cho con rồi”, tình thương của Ta sẽ làm cho con và qua con những điều bất ngờ. Con hãy đi và mang về hoa quả đầy ắp. Con hãy cứu độ với ơn cứu độ tràn trề của Ta, con hãy yêu với tình yêu của Ta. Con hãy đến với của lễ đền bù toàn vẹn của Ta. Con hãy mạnh với sức mạnh của Ta, và con hãy vào tình thương của Cha Ta và Cha của con với sự tinh anh trong sạch của ta. Bình an và niềm vui cho con, vì cánh tay Ta là sức mạnh, là thuẫn đỡ, là dịu dàng, là thần lực cho con. Hãy tiến lên với niềm vui tràn lòng, bởi niềm tin sắt đá, bởi lòng nhiệt thành, bởi thiện tâm, bởi chấp nhận con là thụ tạo mà tất cả những gì con có, tất cả những gì là con đều là do Ta mà ra, nhất là chức vụ Linh Mục của con, chức vụ mà Cha đã ấn định cho con từ khi chưa có trời đất, chức vụ mà con sẽ thi hành trong tín nhiệm phó thác ở tình yêu đời đời của Ta qua bản tính người của con với mọi hay dở, trong mọi hoàn cảnh, chính cả trong và nhờ sự yếu hèn của con.
Là Linh Mục, con hãy vui lên trong niềm vui hiến tế. Lạy Chúa Giê-su Linh Mục đời đời, để làm Linh Mục, Chúa đã làm người, Chúa đã mặc lấy xác thân con người, để trở nên người như mọi người. Xin Chúa hãy nhận lấy chức Linh Mục của con. Xin Chúa hãy nhận lấy mọi vui buồn khổ đau, mọi điều hay việc dở, mọi thành bại, mọi nỗ lực thiện tâm thiện chí của con, tất cả lễ vật con dâng cho Chúa, tất cả mọi buồn phiền con đã tạo cho Chúa cũng như mọi hồng ân cứu rỗi, ủi an, tha thứ, yêu thương, chúc lành mà Chúa đã nhờ con đến với anh em con... Lạy Chúa là Linh Mục, xin Chúa hãy nhận cả thân xác, linh hồn, ước muốn, tài năng, thời giờ, ân thánh... tất cả do Chúa ban cho con, để tất cả con phụng sự Chúa cho vinh quang Chúa Cha cho đến hơi thở cuối cùng đời con.
Là Linh Mục, con xin yêu mến lãnh nhận giờ chết của con như Chúa đã lãnh nhận nơi Tay Cha, để chính sự chết của con hợp với sự chết hồng phúc của Chúa trên Thánh giá, trở nên lễ vật Tình yêu phục tùng đem ơn tha thứ cho con, cho loài người và ban thêm ơn cứu độ cho tất cả những ai mà trong Tình thương quan phòng cứu rỗi, Chúa đã ấn định cho con phải đem ánh sáng, chân lý và hạnh phúc vĩnh cửu.
Lạy Chúa Giê-su Thượng Phẩm tinh tuyền, xin cho con là Linh Mục như lòng Chúa, cho vinh quang Đức Chúa Cha. Nhớ Mẹ Ma-ri-a ! AMEN, ALLELUIA.
Lm. NGUYỄN TỰ DO, DCCT ( Còn tiếp nhiều kỳ )
No comments:
Post a Comment