Wednesday 26 April 2017

Lm Edward Schillebeeckx: Thần-học-gia toại-nguyện, người đó chính là tôi (Bài 1) Dẫn Nhập






Sống Lương-thiện với Thế-giới: Thần-học tiên-phong
theo Edward Schillebecckx



ROSINO GIBELLINI

Theo triết-gia Martin Heidegger, thì: mỗi học-giả vĩ-đại luôn mang trong người một nguồn tư-tưởng nào đó khả dĩ giúp mình bày-tỏ đặc-trưng đa dạng, của mọi việc. Giả như điều này đúng, hẳn ta cũng có thể bảo: nguồn tư-tưởng giúp ta nghiên-cứu các suy-tư thần-học của tác-giả Edward Schillebeeckx là nền thần-học tiên-phong, tức: mối tương-quan giữa kinh-nghiệm của tín-hữu Đạo Chúa với kinh-nghiệm chung của con người.

Là thần-học-gia người Bỉ nói tiếng Flamand, lúc đầu Schillebeeckx dạy thần-học tại Đại-học Louvain, nước Bỉ. Sau đó, từ năm 1958 trở về sau, ông tiếp-tục hướng-dẫn môn học này tại Đại-học Công-giáo Nijmegen, Hoà Lan. Schillebeeckx bắt đầu trở-thành nhà tư-tưởng trổi-bật trong toàn giáo-hội và là thần-học-gia chuyên-môn vào nửa đầu thập-niên 1960s, đúng vào lúc Công Đồng Vatican 2 vừa khởi-phát. Ông mang tư-cách của một thành-viên năng-động chuyên cố-vấn cho Giám-mục-đoàn Hoà-Lan, vào dạo đó.

Ở Công Đồng Vatican 2 dạo ấy có cao-trào mang tên rất nổi là: “Giáo-hội và Thế-giới” được diễn-bày tại một số buổi họp của Công đồng. Và, các bài viết của nhà thần-học người miền Bắc nói ở đây, rất đúng-thực như từ một nhà chú-giải và diễn-dịch quốc-tế. Tập tài-liệu này, nằm trong bộ sách ở Hoà-Lan có đầu-đề là “Các ấn-tượng thần-học” gồm 5 bộ, được viết từ năm 1964 đến 1972 như Thư-tịch ở cuối sách, có ghi rõ.

Bộ sách này, gồm các bài luận-văn trong đó tác-giả Schillebeeckx bàn về các cuộc tranh-luận ở Công-đồng cũng như các đề-tài tranh-cãi quốc-tế về thần-học nữa.

Ta có thể tách-bạch công-trình của Edward Schillebeeckx (1914-2009) ra làm hai thời-kỳ rõ rệt. Thời-kỳ thứ nhất, gồm giai-đoạn khởi-đầu có các sinh-hoạt khoa-bảng khởi từ sau Thế Chiến Thứ Hai, tức năm 1946. Và thời-gian trải dài sau Công Đông Vatican 2, từ các năm 1966-1967, gồm các giai-đoạn suy-tư mở rộng học thuyết Tôma cộng với các bài nghiên-cứu/học-hỏi vào thời này có công-trình do ông thực-hiện về Thần-học Bí-tích, trình-bày theo kiểu tái cấu-trúc nền thần-học nói chung như cuốn The Sacramental Economy of Salvation (tức: Tương-tác Bí tích Cứu-độ). Sách này, ông viết vào năm 1952, nhưng cho đến nay vẫn chưa có ai dịch ra tiếng Anh hết.

Thời gian về sau, ông lại viết theo hệ-thống như ta thấy rõ ở cuốn “Christ the Sacrament” (1958). Vào thời này, các bài viết của ông đều mang tính sử-học, cốt tái-tạo lịch-sử học-thuyết trước khi khai triển thành hệ-thống. Đây là phương-pháp mà Edward Schillebeeckx có được từ trường/lớp ở Le SaulchoirSorbonne –tại đó vị Cựu Giám đốc trường Saulchoir là linh mục Marie-Dominique Chenu, Op cũng có những buổi dạy đặc-biệt như ông.

Phương-án mà tác-giả Schillebeeckx đưa ra, có đặc-trưng tương-tự một chủ-thuyết ngộ-đạo, dẻo-dai, bền-bỉ mà ông học được từ Louvain theo trường-phái De Pette, là bậc thày trình-giảng chủ-thuyết Tôma kết-hợp với hiện-tượng-luận.

Thời kỳ thứ hai, kể từ những tháng ngày sau Công Đồng Vatican 2, ông diễn-đạt các ý-nghĩa vốn có từ trước trong các bài dạy ở Mỹ vào năm 1967 có đề-tài như: “God, The Future of Man (tạm dịch là: Thiên-Chúa, Tương-Lai của Con Người), qua đó ta nhận được sự ‘thay đổi thấy rõ’, gọi theo ngôn-từ của thần-học-gia miền Bắc Mỹ là Robert Schreiter, một học-trò của Schillebeeckx trước đây tại trường Nijmegen, cũng là chuyên-gia theo trường-phái Schillebeeckx.

Từ đó, đã có bước nhảy vọt khiến thần-học-gia dòng Đaminh này từ bỏ học-thuyết Tôma kinh-điển, dù các bậc thày khác ở Louvain vẫn còn diễn-giải hệt như ông. Tại đây, ông trình-bày khuôn-khổ một ý-niệm về công-trình do ông thực-hiện vào các năm trước, cốt đề-cập đến môn chú-giải mới có khunh-hướng đi vào đối-thoại trực-tiếp với nhân-sĩ nam/nữ thời cận-đại và thế-giới hiện-thời nhiều kinh-nghiệm hơn.

Thời-kỳ thứ hai, là giai-đoạn độc-đáo rất sáng-tạo, thần-học-gia trường-phái Nijmegen đã nắm chắc là công việc chú-giải này rất cần-thiết, nên đã đưa vào hệ-thống thần-học Công-giáo, cho thêm phần đa dạng. Ông lại cũng áp-dụng nền thần-học này một cách triệt-để, tức: đặt trọng-tâm vào các buổi hội-thảo thần-học, như môn Kitô-học chẳng hạn.

Thuyết chú-giải thần-học nói chung, đã dấy lên một vấn-đề diễn-giải theo cách dễ hiểu hơn gồm các văn-bản mặc-khải như thông-điệp hiện có hoặc thể-thức niềm tin có liên-quan đến các kinh-nghiệm của con người. Vấn-đề này, mở đường đưa ta đi vào với thần-học Thệ-phản gồm phần diễn-nghĩa của Schleiermacher và ngành chú-giải hiện-sinh của thế-kỷ trong đó tác-giả Fuchs cũng như Ebeling đã xuất-hiện vào thập-niên 1940s và 1950s.

Mục-đích, được tác-giả Schillebeeckx nhắm đến là cho các luận-văn chú-giải của ông, vốn thu-thập từ tập thứ 5 của cuốn “Theological Soundings” (tức Ấn-tượng Thần-học) có tiêu-đề như: “Hiểu rõ Niềm tin” xuất-bản vào năm 1972. Mục-tiêu công-tác ông thực-hiện gồm cả phần dẫn-nhập góp phần làm cho khoa chú-giải thần-học Công-giáo ngày càng sức-tích hơn.

Thần-học Công-giáo sau Công đồng Vatican 2, khởi từ sự chạm mặt nền văn-hoá ngoại-vi, đã bắt đầu chú ý đến sự thể bảo rằng: có hai loại suy-tư thần-học: một, là mặc-khải và truyền-thống trong Đạo. Còn phần kia, gồm kinh-nghiệm của con người. Công-trình chú-giải ở đây, cốt hoàn-thành tương-quan kiên-định giữa hai nguồn-mạch, tức: hai phần chính của niềm tin Đạo Chúa cộng với kinh-nghiệm của con người. Thế nhưng, niềm tin tự bản-chất vốn đã gắn liền vào mặc-khải, là nguồn-mạch đầu của thần-học, lại có cấu-trúc xuất tự các nghiệm-sinh của con người.

Nói khác đi, niềm tin là kinh-nghiệm, tức sinh-hoạt về các trải-nghiệm hoặc các kinh-nghiệm từng trải ở Đạo Chúa cộng với kinh-nghiệm của con người, nơi đời thường. Nói cách khác, tức bảo rằng: kinh-nghiệm từng-trải về chính con người và về thế-giới mà người Đạo Chúa có được qua tư-cách con người, là như thế. Ở thời đầu, không có đạo-lý. Thay vào đó, ta có thể nói: “Tôi khởi đầu sống cuộc đời con người qua kinh-nghiệm lịch-sử vốn di-chuyển ngang qua kinh-nghiệm sống của tôi”.

Thật ra, ngay giai-đoạn đầu sách Tân-Ước, ta thấy có sự giáp mặt giữa Đức Giêsu và đồ đệ Ngài, là người trong cuộc từng đụng chạm một cách bất-an và trổi-bật, vẫn mang trong người kinh-nghiệm từng trải về ơn cứu-rỗi mà lâu nay ta ghi-nhận và diễn-giải, để rồi đặt bút viết lên sử/sách. Chú-giải đây, gồm các yếu-tố mang tính giải-thích và diễn-nghĩa, tức: bao gồm những cảm-nhận hàm-ngụ công-tác dẫn-giải và chú-thích, cũng rất nhiều.

Cuối cùng thì, Tân-Ước là văn bản trải-nghiệm việc ghi-chú công cuộc cứu-rỗi, tức: các kinh-nghiệm ta từng có làm thành thông-điệp; và thông-điệp này, được truyền-tải đến mọi người nhờ việc tạo nên các kinh-nghiệm sống coi như nguồn-cội của nó và từ đó kích-hoạt các trải-nghiệm như kết-quả của sự việc mình từng trải có thông-điệp chủ-động.

Ngay từ đầu, mặc-khải thiêng-liêng/thần-thánh không là đạo-lý; mà chỉ là sáng-kiến có tự-do của Thiên-Chúa, Đấng kết-hiệp chính mình Ngài vào sự việc Ngài tự bộc lộ chính Ngài bằng việc định-hình công-cuộc cứu-rỗi có giải-thích và ấn-định. Tuy nhiên, đạo-lý đây không là yếu-tố nguyên-thuỷ, mà là kinh-nghiệm sống của nhiều người. Đạo-lý, như công cuộc tái định-vị lãnh-vực suy-tư, cốt đào sâu nội-dung trải-nghiệm có từ đầu rồi chuyển-dịch và kích-hoạt. Kinh-nghiệm cứu rỗi diễn-tiến như thế.

Thành thử, kinh-nghiệm đây có chỗ đứng trong truyền-thống sống-động bằng việc tạo thành trải-nghiệm vào phút cuối. Xem như thế, ta có câu truyện về người nhà Đạo vẫn cứ tiếp-tục có kinh-nghiệm sống-động, rất từng trải.

Nay, do bởi đây là câu truyện được liên-tục kể về kinh-nghiệm của người đi Đạo, tức thông-điệp lâu nay được chuyển-tải để người thời nay hiểu được. Nói cách khác, việc này không chỉ khiến ta buộc phải chấp-nhận nó trên căn-bản cơ-chế quyền-bính vốn dĩ trung-gian để chuyển-tải.

Ở đời thường, kinh-nghiệm đạo-lý không là kinh-nghiệm cao cả hoặc trải-nghiệm chung chung/phổ cập, nhưng nó mang hình-thái “kinh-nghiệm về các trải-nghiệm”. Thành thử, nó buộc phải có chỗ đứng trong bối-cảnh trải-nghiệm của con người ở đời thường, nên nó bị buộc phải thuyết phục các trải-nghiệm tư riêng của mỗi người và mọi người.

Thông-điệp truyền-thống phải được trình-bày theo “giáo-lý nghiệm-sinh”, như một diễn-dịch khả-thi về các trải-nghiệm của con người, như “dự-án nghiên-cứu” vốn  điều-nghiên ý-nghĩa của bản-thể “người”. Nó buộc con người phải có khả-năng trải-nghiệm như một “đáp trả giải-thoát” cho vấn-đề sống còn nào đó đặt ra cho con người, nói chung.

Thần-học được kêu mời mở rộng cửa để ta hiệp-thông trao đổi về nội-dung truyền-thống của niềm tin với kinh-nghiệm của con người, trong tư-thế tương-quan liên-kết giữa hai nguồn-mạch: một, là truyền-thống Kinh Sách (nguồn mạch tiên-khởi) và thế-giới đương-đại của ta vốn có kinh-nghiệm và niềm tin (tức nguồn-mạch thứ hai).

Schillebeeckx đã nắm bắt công-trình này trong một dự án rộng lớn gọi là “Christological Project” (tức: “Dự-án Kitô-học) dầy ba tập: “Đức Giêsu” (1974), là tập sách phân-tách các kinh-nghiệm căn-bản ở cuốn Nhất Lãm ta đang sử-dụng; “Đức Kitô” (1977), chuyên phân-tách kinh-nghiệm căn-bản của Kitô-hữu ở các sách Tân-Ước khác ta nghiên-cứu, đặc biệt là các bài viết của ông Phaolô và ông Gioan và phần tổng-hợp cuối cùng gồm nhiều đề-án định-vị nhiều yếu-tố có cấu-trúc hẳn-hòive62 truyền-thống Giáo-hội khi bàn về Kitô-học và kinh-nghiệm của con người ở đời người; và cuốn “Church” (1089) vốn chứng-tỏ làm sao mà trọng-tâm thông-điệp của Đức Kitô, ơn cứu-rỗi nơi Đức Giêsu đến từ Thiên-Chúa, lại có thể được trải-nghiệm một cách mới mẻ trong lịch-sử loài người.

Cả ba tập sách do thần-học-gia xuất tự Ninjmegen lại có thể trình-bày công-tác sáng-tạo ngành Kitô-học theo cách rộng-rãi nhất và nhiều sang-kiến nhất của thế-kỷ được. Phương-pháp-học thấy ở đây thật sự mới mẻ: Schillebeeckx lại không theo sự hướng-dẫn của giòng chảy đầy truyền-thống của Giáo-hội giống như ở các luận-thuyết Kitô-học thông-thường, nhưng chấp-nhận mọi thách-thức tiêu-cực rất nền-tảng, vốn sử-dụng phương-pháp phê-bình lịch-sử theo cung-cách triệt-để.

Tác-giả đây, nhằm thích-nghi phương-án đầy sử-tính không nhân-nhượng, nhưng đằng sau nghiên-cứu mang tính-cách sử-học của ông là nhằm mục-đích tái-tạo thời khởi-nguyên của những xưng-thú về Kitô-học của Giáo-hội và từ đó cho thấy là điều ấy cũng xứng-hợp với những người đồng thời của ta ở chốn thị-thành ngoài đời. Phương-pháp này hàm ngụ tinh hợp-pháp và không dẫn đưa đến sự việc triệt-để-hoá bản-chất của môn Kitô-học. Cuộc bàn-thảo tiếp theo sau  -cũng trên lãnh-vực công-khai—lại chỉ liên-quan đến một vài đặc-trưng của phương-pháp này trong đó ông thực-thi những gì được gọi là “trải-nghiệm thực-thụ ở môn Kitô-học”.                    

Schillebeeckx không chấp-nhận là việc thế-tục-hoá lại có thể làm mất đi hiệu-lực của các thảo-luận về thần-học, trong đó việc tự hiểu rằng nam-nhân lẫn nữ-giới vẫn mở rộng với bí-nhiệm, như ta có thể chứng-thực từ sự tin-tưởng có nền-tảng, từ quyết tâm liên-hệ với người khác và từ nỗi lo-ngại phải làm điều tốt lành và chiến-đấu chống ác-thần/sự dữ.

Đúng ra, việc thế-tục-hoá tái định-vị các suy-luận về thần-học và công-tác chú-giải là cốt để giúp định-hình tình-huống khả dĩ cho phép dân thường ở đời hiểu rõ chính việc siêu-thăng và tự mở ra về bí-nhiệm của cuộc sống và thực-tại vốn dĩ được mặc-khải một cách dứt-khoát, rất rạch ròi về ảnh-hình của Đức Kitô.

Các khẵng-định niềm tin và nhận-định thần-học không thể được suy-diễn từ kinh-nghiệm nhưng phải trợ-lực cho kinh-nghiệm hoặc phải ở trong vị-thế nào đó khả dĩ làm sáng-tỏ kinh-nghiệm, giúp cho kinh-nghiệm của các nam-nhân cũng như nữ-giới ở ngoài đời. Nếu, không, chúng sẽ không được bảo-vệ và việc chuyển-tải sẽ bị tha-hoá đến gãy đổ.
Muốn làm được việc này, thần-học phải liên-tục tương-quan với niềm tin vốn đáp-ứng được các vấn-đề của con người. 

  

No comments: