Chương I
Tin, động tác phát tự con tim:
điều này thật ra có nghĩa gì?
(bài 5)
Phần I
(tiếp
theo)
Điều gì xảy đến với động-tác “tin” như thế?
(xem M.M.
Labourdette, o.p., La vie théologale
selon saint Thomas: l’affection dans la foi. Revue Thomiste 1960,
tr. 364-380)
Cụm
từ “tin” theo ngôn ngữ “nói” ở tiếng Anh, lại chuyên chở một ý-tưởng khá kém cỏi
về sự chắc chắn/chắc nịch của tư tưởng. Chẳng hạn như câu ta nói “Tôi không tin là có người đang đi tới...”,
hoặc: “tôi tin là sẽ có chuyện xảy ra,
cũng chóng thôi”. Nói thế, tức bảo rằng: Tôi không mấy chắc về chuyện ấy. Bởi,
nếu biết chắc, hẳn tôi cũng không dùng động từ “tin” như thế. Ở đây, ngôn ngữ “nói” bên tiếng Anh thường hay dùng
chữ “tin” khi người nói có lập trường
riêng-tư nhưng không nắm rõ chuyện đó là chuyện gì. Dùng như thế, là để tìm
cách nhớ lại chuyện gì đó lâu nay vẫn nằm sâu lắng trong ký ức rất xa vời, mà
thôi. Giống như thể, bảo rằng: “Tôi tin
là nó tựa hồ như thế, nhưng cũng không chắc cho lắm!” Thông thường, mọi người
hay dùng từ-vựng giống thế, mỗi khi có trực giác về chuyện gì đó mà không nắm
rõ căn bản hoặc lý lẽ khiến họ có trực giác; cũng tương tự như câu cửa miệng mà
nhiều người vẫn thường nói: “Tôi tin là
như thế, nhưng có điều là...”, v.v.. Tuy
nhiên, về thần-học, ý-nghĩa của từ-vựng “tin”, mạnh hơn thế rất nhiều.
“Từ-vựng Do thái thì
khác hẳn, chẳng bao giờ văn chương Do-thái lại mang tính tâm-lý nền-tảng, mà
đơn giản chỉ diễn nghĩa về thể chất và đôi khi cũng có chút sinh-học, thế thôi.
Chẳng hạn như, cụm từ chỉ về “niềm tin”, người Do thái dùng cụm từ “Aman” có nghĩa: “cái đó thật vững vàng chắc chắn.” Cũng thế, tiếng “Amen” nơi Đạo mình, cũng từ đó mà ra, vẫn
chuyên chở một ý-nghĩa, rất tượng tự.
Trong khi đó, tiếng
Hy-Lạp lại dùng từ “Pistis” để chỉ về
niềm tin.
Còn bên tiếng
La-tinh, cụm từ “fides” lại có nghĩa:
tin tưởng, hoặc điều gì đó đáng tin cậy, hoặc sự trung thực, tín-nhiệm, hoặc:
tương-quan giữa những người dấn bước đến hôn-nhân (như: hôn-phu, hôn-thê chẳng hạn)
Tin, là thái-độ đối với
những gì chắc chắn, ổn cố. Ta có thể lập bảng
chi tiết ghi các động-thái tiêu-biểu mình vẫn có đối với những gì là vững chãi,
chắc nịch. Trí-tuệ của ta được lập ra rất đúng qui-cách, do đối-tượng của nó
góp phần vào; hoặc do những gì được trí-tuệ nắm vững mọi hiểu biết. Trí-tuệ trọn-hảo
xảy đến khi chính đối-tượng của nó, tự thân, cũng đủ khiến ta nắm vững những gì
thuộc về nó. Và, chỉ cần căn-cứ vào bằng-chứng nó đưa ra, cũng khiến ta có được
điều gì đó chắc như “đinh đóng cột”. Một ví dụ cụ thể hầu làm sáng-tỏ chuyện
này, là như thể: ta nắm bắt nguyên tắc ban đầu, như: nguyên tắc về mâu thuẫn, về
nguyên nhân gây ra sự kiện/hiện tượng này khác; hoặc, về lý lịch của ai đó, về
câu nói ta thường nghe như: “hữu-thể
không là vô-thể”; “đã có quả, phải có
nhân”, vv. Giống như khi đề cập đến trí-tuệ trọn-hảo/trọn-lành, bao giờ ta
cũng nắm bắt thực-tại của nó một cách chắc chắn nên mới phán-đoán sự việc thật
rõ ràng, tức: có sự chuẩn-thuận từ tâm-trí lẫn thần khí. Tuy nhiên, động-tác trọn-hảo
của trí-tuệ lại mang tính tương-đối, hãn-hữu. Giả như, có thứ gì đó tuyệt đối
rõ ràng, thì ta đâu cần tin vào những điều như thế. Và thật ra, ta cũng không
còn tin vào chuyện ấy nữa, vì ai cũng biết đó là trí-tuệ, chứ chẳng sai.
Thông
thường thì, chứng-cứ ta có về việc gì, không buộc nó dính cứng vào với trí-tuệ
của ta. Bởi, trong tình-huống đặc biệt nào khác, ta nhận ra là mình không còn
thiếu gì về lý lẽ để có thể tư-duy cách này hay cách khác, và chừng như có người
lại sẽ bảo: ta vẫn còn ngờ vực đôi điều, hoặc điều gì tựa như thế. Giả như, ta
lại có chiều-hướng nghiêng về phiá nào đó để tư-duy, thì đôi khi những gì gây sức
ép bắt ta làm thế, lại không mạnh đủ để, cuối cùng ra, ta tuyên-bố chính vì
mình không nghi-ngờ điều gì nên mới tin như thế. (Ở đây, tôi xin mở dấu ngoặc để
nói thêm, rằng: khi sử dụng cụm từ “nghi-ngờ”, tôi không có ý ám chỉ giá-trị đạo-đức,
chút nào hết. Bởi, đạo đức không là chuyện đáng để ta “nghi-ngờ” và “huyền-hoặc”).
Và, giả như chứng-cứ ta có được lại mạnh hơn, tuy không là chứng-cứ cuối cùng,
thì hẳn ta cũng sẽ nhận ra rằng mình có thể cũng có sai lầm, dù vẫn bảo mình có
lập trường kiên định về những chuyện đại loại như thế.
Hiện,
ta đang kiến tạo một loạt những thứ/những sự việc đưa dẫn ta đi dần vào với động-thái
“tin” lâu nay mình từng có. Hơn nữa,
cả đến những người vốn dĩ từng làm chứng cho sự việc nào đó là có thật, họ vẫn
đem đến cho ta chứng-cứ về sự việc này/nọ, để còn tin. Và, việc gì cũng thế, tự
nó không mang tính tuyệt-đối, bao giờ hết. Sở dĩ ta xem sự việc nào đó là hữu
lý và xác-thực, là bởi người chứng đem nó đến với ta ngõ hầu xác-nhận rằng việc
ấy/sự nọ ta cứ thế mà tin vì nó đáng tin cậy. Và, do bởi ta tin vào người làm
chứng, hoặc ít ra là qua ý-chí, ta đặt hết tin tưởng vào người chứng, và “tin”
vào những gì người chứng ấy nói ra, thôi.
Ở
đây, ta chợt thấy tính cách nghịch-lý/nghịch-thường xảy ra từ hồi đến giờ. Bởi ở
đời, chẳng có gì là chắc chắn/xác định về bất cứ bằng-chứng nào cũng thế, sở dĩ
ta gắn chặt vào sự thật đặt ra, đơn giản chỉ vì ta vẫn thấy như thế, và vẫn muốn
sự việc xảy ra phải như thế. Điều này, còn mạnh hơn cả quan-điểm/lập-trường
riêng của mình nữa. Tuy nhiên, thật ít khi thấy có người chứng nào, dù “tin” một
cách chắc nịch mà lại có thể ngờ vực điều gì được nữa. Thế nên, niềm tin và lập
trường tư riêng của mỗi người, luôn sánh đôi song hành trong nhiều trường hợp.
Khách quan mà nói, đó là những động-thái đặc trưng/đặc thù thường đi chung với
nhau, cùng một cách.
Ở
đây, còn một số sắc thái cũng dễ nhận ra, đó là sự việc đơn giản ai cũng có thể
đặt trọn sự tin-tưởng vào người chứng xứng đáng. Và khi đó, thái-độ dễ thực hiện
nhất, vẫn chính là động-thái kính-cẩn, tự hạ và thân thiện. Thật ra, ta vẫn muốn
rằng: tất cả những gì người chứng nói cho ta biết, đều phải có thật, thì người ấy
mới tin và nói như thế. Từ đó, mới có người luôn sẵn sàng chiều theo tâm-lý thường
tình nghĩa là luôn tin vào chuyện buồn đau, âu sầu mất mát, hoặc đổ nát. Nhiều
người Công giáo của ta cũng thường hay có thái-độ tương-tự như thế; bởi thế
nên, họ luôn tin vào lời giáo huấn do Hội thánh mình vẫn dạy, chỉ vì họ cứ là
hãi sợ sẽ rơi vào chốn hoả ngục đầy lửa bỏng hoặc vào chốn luyện hình/luyện tội.
Hoặc, gia dĩ vẫn khát khao được lên thiên đàng thẳng một mạch. Đôi khi, họ cũng
chẳng thấy có nhu cầu nghiên cứu thêm hoặc thắc mắc điều gì vì vốn dĩ họ đã
“yêu Chúa” và tin Hội thánh như người chứng từng tuyên bố những chuyện rất như
thế. Tất cả mọi khác biệt, đổi thay xem ra chỉ là tai nạn xảy đến với điểm cốt
thiết của niềm tin, thôi. Đích thị điểm chính yếu của niềm tin, là có sự can
thiệp đầy định-hướng của ý-chí và cảm xúc, nhất định là như thế.
Theo
luật-định, ta có nên và có được phép làm thế không?
Thật
ra, cũng có một số qui định rất chắc nịch của trí-tuệ trong các trường hợp đại
loại như thế. Và, cũng có một số qui-định do cảm xúc của ta tạo ra. Bê trễ với
qui định của trí tuệ, là biến những chuyện không mấy tin được thành sự việc rất
cả tin. Không có gì thường xuyên hơn. Bê trễ không theo kịp đòi hỏi của cảm-xúc,
là giới hạn của cuộc sống có trí-tuệ biến thành khuôn khổ hạn chế, tức: đối tượng
rất mạnh của chứng-cứ mang tính khả-thi rất cao. Nhiều phần chắc, hoặc gần như
lúc nào cũng chắc chắn, là ta chỉ có thể sống với niềm tin như thế. Nhưng, phần
đông ta lại không đích-thực sống cuộc sống của mình như thế. Ta sinh hoạt cũng
tương đối có quân-bình giữa tâm-thức và ý-chí. Chủ thuyết “duy-lý-trí khá cường
điệu” vẫn có thể tách-ly ta ra khỏi phần lớn sự-sống đích-thực và ra khỏi động-tác
“tin” xuất tự con tim. Bao giờ con người cũng tin vào thứ gì đó yếu đuối, kém cỏi,
hầu như bất toàn tự bẩm sinh. Ta không tài nào có được tính khoa-học để đưa vào
đó tính cách xác-đáng, thực-thụ ngoại trừ những gì xuất hiện với ta đều có thật,
cả vào trường-hợp ta thực-hiện công cuộc nghiên cứu thật tốt đẹp, nên mới thấy
nó hiện rõ ra là: không phải thế. Xem thế thì, ta có thể chắc chắn là có được
niềm tin đích-thực và có thật hoặc vào thứ gì đó, cuối cùng, lại không đúng thật.
Tất cả những điều như thế, khiến ta nói được rằng: bằng vào quan điểm/lập trường
đạo đức, ta cần có lý do chính đáng ngõ hầu, trước khi dấn bước đặt mình vào
quyết tâm “tin” là mình có lý do để có thể cho phép ý-chí đưa ra quyết tâm nào
đó ngõ hầu còn tin.
Tin, là động tác của
trí tuệ rất thông minh, nhưng nếu chỉ dựa vào trí-tuệ đó thôi, cũng không đủ, và cảm-xúc vẫn cần ý-chí can thiệp vào
trong đó. Từ đó, ta luôn thấy nơi động-tác “tin” một biện-chứng-pháp giữa cảm-xúc
và trí-tuệ. Và, cũng từ đây, thấy xuất hiện những là: tình thương yêu, nỗi niềm
khát vọng, sự hãi sợ, niềm hy vọng và tình bầu bạn, vv..
Các
lý lẽ khiến ta tin, là lý lẽ nào?
Lý
lẽ, có nhiều thứ có liên quan đến việc ta “tin” vào một khẳng định nào đó. Lý lẽ,
đảm bảo tính hợp pháp của hành động, gắn liền với những gì khiến ta chấp nhận
tin. Có một số sự việc làm ta tin, xem ra cũng rất lạ và mâu thuẫn nhau. Sự việc
ấy, ta không nắm vững rành rành, dĩ nhiên là thế, nhưng chúng vẫn xuất hiện như
thể nằm trong một loạt các sự việc khiến ta coi như đáng cho ta tin. Từ đó, ta
mới có ưu thế. Và ưu thế này, sẽ “đến với” và “đến từ” ý-chí, tức đến với ý-chí
từ người khác; và, từ ý-chí ấy, đến với trí-tuệ của ta. Ta muốn tin rằng những
gì mình thấy là khả dĩ tin được. Người khác, có lẽ lại sẽ để nó trôi qua đi như
một khả năng có thể tin được, nhưng vì ta muốn tin vào điều đó như thể là nó hiện
hữu thật sự.
Xem
như thế, thì ý-chí này có đáng tin cậy hay không?
Phải
chăng nó cùng một hàng với mục-tiêu đích-thực của cuộc sống con người? Và đặc
biệt, là nó có cùng một hàng với mục-tiêu đích-thực của trí-tuệ không?
Trả
lời cho các vấn nạn này, có thể nói: trong trí-tuệ, vẫn có tình thương căn bản
của sự thật; và, vẫn có nhiều động-lực hỗ trợ cho xác-tín này. Ý-chí không can
thiệp vào như một uy-lực mù loà, mà nó lại đầm mình trong ánh sáng của lý lẽ
ngõ hầu giúp ta tin. Và từ đó, ý-chí tự nó đơn-độc tự phát-triển, do ý-nghĩa của
đối-tượng được đề-xuất, âu cũng là chuyện tự nhiên thôi. Với lại, ý-chí đi vào
hiểu-biết rất khả-thi về sau, mà ta thường gọi là làm theo bản năng, tức: thứ
hiểu biết rất sâu sắc về cảm-xúc. Hiểu biết có được là do bởi và do cùng tính
cách tự nhiên sánh với những gì được ta tin tưởng.
Trong
mọi tin tưởng, luôn có thứ gì đó còn mạnh hơn cả lý-lẽ khách-quan ngõ hầu giúp
ta tin tưởng. Ưu thế này, biến đổi cả bề mặt của đối tượng ta muốn tin vào. Ta
tiến gần đến đối tượng mà chúng ta muốn tin; tiến gần đến nó, vì ta đã chuẩn bị
cho hiện-tượng ấy, và có lẽ do người chứng nào đó đem đến với đối tượng đó, đem
đến theo cung cách hồn nhiên, thoải mái. Ta còn có cảm giác thấy rằng niềm tin ấy,
sẽ đóng ụp vào như một thứ tiết trời của đạo đức trong cuộc sống của ta. Niềm
tin, đem đến cho lương tâm ta một vài cảnh báo. Cảnh báo rằng, nó là sự việc tư
riêng để rồi dẫn tới kết cuộc rất hữu lý của trí-tuệ; và điều này gọi là “tiến
trình khách quan”.
Về điểm này, ta thấy
được sự khác biệt giữa sự việc đang tin và các độc-tác giống như thế. Tin tưởng và hiểu biết
cách chắc chắn cùng một sự thật, hoàn toàn không ăn khớp nhau. Cả hai sự việc đều
đưa ra những điều chắc nịch, nhưng cái chắc nịch của mỗi bên vẫn tạo cung cách
khác nhau: như có động lực núp ẩn, ở đằng sau. “Hiểu và biết rõ” dẫn đến khát vọng
biết nhiều hơn và ngày càng nhiều hơn nữa, ngõ hầu ta có thể nghiên cứu và tiếp
tục điều nghiên tất cả mọi sự hầu vui hưởng sự sáng tỏ về việc ấy. Niềm tin hoặc
động thái đang tin-tưởng vào sự việc gì đó, một mặt vẫn mang tính xác định
riêng của nó, khiến ta sống thực sự việc nào đó ít mang đến niềm tự hào mãn
nguyện để rồi sẽ tiếp tục công cuộc nghiên cứu những gì mình đang còn “tin’.
Và, cứ thế, ta lại sẽ khao khát được biết nhiều hơn nữa những gì mình đang tin
tưởng. Mọi kẻ tin tưởng đều muốn nắm chắc điều mình tin và làm nó lướt vượt địa
hạt tin-tưởng để có thể ở bên trên mọi hiểu biết. “Đồng thuận trong tin tưởng”
không có nghĩa đem sinh hoạt thần-tính vào với hiện thực, trong thực tại cuộc đời
được. Niềm tin vẫn hiện hữu để thực thi sự thật không ngưng nghỉ, bởi nó không
tìm ra nơi nghỉ ngơi, nên cứ thế tự vấn chính mình về những gì mình tin có đúng
sự thật không. Đây là nền tảng của định nghĩa sự việc mình tin tưởng theo cung
cách cổ điển mà tiếng La-tinh gọi là “cum
assensu cogitare” (tức: tư-duy có đồng thuận...)
Niềm tin và quan điểm/lập
trường từ
đó cần cái nhìn thật cẩn trọng. Ta có thể phân tách cách biệt được chúng, nhưng
thường thì chúng vẫn đi đôi với nhau. Ngôn ngữ hôm nay dùng cái này cài đặt vào
cái khác. Có tác giả lại vẫn nói về “lập trường tôn giáo” cũng như “niềm tin
chính trị” mang theo trong mình một động lực tự giúp mình hiện hữu, khiến cho
nó trông như có khả năng đúng với sự thật. Từ đó, họ mới có lý do chính đáng để
có được lập trường lạ lùng ấy. Đổi lại, điều đó cũng có thể sai. Và, khả năng
sai sót ở đây sẽ không bị đào thải ra bên ngoài. Với niềm tin, lại có “thứ gì
đó” được khẳng định là chuyện rất hiện-thực, bởi lẽ người chứng của sự việc có
thực ấy đã đặt hết tin tưởng vào những gì mà họ coi là đúng với sự thực. Kết quả
là, ít ra là trong các trường hợp hãn-hữu, niềm tin và quan điểm/lập trường,
khó mà tách khỏi nhau. Người tin tưởng, đôi lúc cũng do dự không dám đặt mình ở
vào vị thế dính liền với sự thật được mình tin. Và, niềm tin có thể cũng sẽ hiện
hữu trong khuôn-cách có chọn lựa. Phần đông chúng ta lại thích có quan điểm/lập
trường riêng tư, bởi nó thích-hợp với chiều-hướng cảm xúc mình đang có, chứ
không phải do các lý lẽ khách quan, mà ra. Với một số người, thì quan điểm/lập
trường đã trở thành “niềm tin” mà không cần nhận thức rõ là nó có đổi thay
này/khác.
Nơi
niềm tin, ý-chí có thể sẽ ngăn chặn và chỉnh sửa trí-tuệ đưa về phía lựa chọn để
thay thế. Tính chắc nịch của niềm tin nằm ngoài địa hạt đóng trụ của kiến thức,
và nằm trong địa hạt của cảm-xúc, cũng dễ thôi.
----------------------------------
(còn tiếp)
Lm Kevin O’Shea CSsR
Mai
Tá lược dịch