Thursday, 28 February 2013

Lm Vĩnh Sang DCCT: Người đi một nửa hồn tôi



“NGƯỜI ĐI, MỘT NỬA HỒN TÔI…”

Thật bất ngờ…
Ngày mồng Hai Tết, ngay khi kết thúc cuộc rước và hành hương kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp đầu năm Âm lịch, tôi ngồi ở nhà cơm Tu Viện uống nước với một số anh em, một người anh em đi vội vào nhà cơm trên tay cầm tờ giấy, anh ấy nói “Đức Giáo Hoàng từ chức rồi”, giơ cao tờ giấy “đây là bản tin con vừa đọc được và in ra”, mọi người đổ xô đến đọc, đó là sự thật gây bàng hoàng đầu năm, bất ngờ đến không tưởng tượng được.
Gần như chưa có tiền lệ…
Tôi lẩm bẩm: “Không tin được, chưa bao giờ có sự kiện này”, quay trở lại phòng tôi vào một số trang mạng Công Giáo, tin Đức Thánh cha từ nhiệm là một tin thật, không còn nghi ngờ gì nữa; từ đó cho đến các ngày sau, hàng loạt các bài nhận định, phê bình, dự đoán chung quanh cuộc từ nhiệm này. Chúng tôi thường xuyên phải trả lời các câu hỏi từ nhiều người, thuộc nhiều thành phần, nói chung mọi người băn khoăn và thắc mắc về biến cố từ gần 600 năm nay mới xảy ra trong Giáo Hội Công Giáo Roma.
Hôm qua gặp một người quen, tôi hỏi thăm về cha xứ của anh như chúng tôi vẫn thường hỏi thăm nhau, ngài hỏi thăm về tôi và tôi cũng hay hỏi thăm về ngài; anh bạn cho biết: “Cha xứ con buồn lắm, ngài như mất tinh thần về vụ Đức Thánh Cha từ nhiệm, ngài nói với con sao lại xảy ra như vậy ?”
Tôi có một bà chị con ông bác, hai chị em tôi thân nhau khi còn bé, chị đi lấy chồng rất sớm ngay sau khi đậu tú tài hai ( tốt nghiệp trung học ), hiện định cư ở nước ngoài, bây giờ hai chị em đã “tóc bạc như nhau”, mấy hôm nay chị gởi E-mail cho tôi nhiều bài viết về biến cố này, chị không viết gì trong E-mail ngoài những lời thăm hỏi dặn dò quen thuộc, như: “Cậu cẩn thận và giữ gìn sức khỏe”, nhưng đọc nội dung các bài đính kèm thì nhận ra chị hoang mang lắm.
Không đột ngột…
Xem lại video vị Giáo Hoàng đọc lời từ nhiệm, gương mặt của các Hồng Y và các viên chức bên cạnh ngài rất bình thản, nghiêm trang và không hề có dấu hiệu nào ngạc nhiên như là một biến cố đột ngột không hề được báo trước. hình như chỉ có một vị Hồng Y người da đen nhúc nhích một chút. Hồng Y niên trưởng đọc bài phát biểu ngay sau bài từ nhiệm của Đức Giáo Hoàng cho thấy bài phát biểu đã được soạn trước.
Những chi tiết đó cho thấy Đức Giáo Hoàng đã không suy nghĩ một mình, đã không cầu nguyện một mình và đã không quyết định một mình, chắc chắn đó là một quyết định đã được chia sẻ, bàn hỏi, cầu nguyện và chuẩn bị từ trước với nhiều người có trách nhiệm.
Một bài học khiêm tốn thánh thiện…
Đối với tôi, cái bóng của Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II quá lớn nên thật sự Đức Benedicto 16 không có chỗ đứng số một trong tâm hồn tôi, nhưng quyết định từ nhiệm của ngài làm hình ảnh một ông cụ ( theo cảm nhận của tôi ) khô cứng, không gần gũi với quần chúng, quá lý trí, đã vụt sáng, trở thành một bài học sống động, hùng hồn, cụ thể và mạnh mẽ về sự khiêm tốn thánh thiện. Giữa lúc sự rời khỏi các vị trí lãnh đạo quyền cao chức trọng khó khăn biết chừng nào, nhất là trong xã hội Việt Nam, một xã hôi ganh đua nhau quyền chức, hại lẫn nhau để tranh dành, bám quyền bám ghế… thì biến cố con người số môt trong thế giới tinh thần quyết định rời chức để lui vào cầu nguyện là một quyết định quá khiêm tốn và gương mẫu. Cái tuyệt vời của ngài là hình ảnh mà vị giảng Tĩnh Tâm cho Giáo Triều Mùa Chay năm nay đã ví von: “Môsê lên núi cầu nguyện”, thật thú vị và hấp dẫn cho đời sống tu đức.
Không ai không thể có người thay thế…
Tháng tư năm 1975, khi chiếm cao nguyên Lâm Đồng, Việt Cộng đã bắn chết cha Giuse Nguyễn Thế Thuấn, DCCT, tại Di Linh, một chuyên gia Kinh Thánh. Khi ấy bản dịch toàn bộ Kinh Thánh của ngài chưa hoàn tất. Rất nhiều người thương tiếc ngài và tự đặt câu hỏi: “Một người cần thiết như vậy tại sao Chúa lại cất đi ?”
Khi tôi còn học giáo sư Nguyễn Ngọc Lan, ông chia sẻ với sinh viên về một sai lầm “chết người” của ông, khi Đức Pio 12 qua đời, Giáo Hội chọn Đức Gioan 23, ông đã coi thường vị Tân Giáo Hoàng này và đã có những bài viết chỉ trích phê bình coi thường ngài, nhưng rồi nhiệm kỳ ngắn ngủi của ngài đã khơi lên một “Lễ Hiện Xuống mới – Công Đồng Vatican 2”, hơn nữa vị Giáo Hoàng này khi qua đời đã làm một “phép lạ” cho chính cuộc đời của ông khi ông cầu khấn với ngài.
Đức Gioan-Phaolô 2 là một vị Giáo Hoàng xuất hiện không ai có thể dự báo trước, vai trò của ngài đã tỏ rõ khi cục diện thế giới đổi thay, những hoạt động và tâm hồn đạo đức thánh thiện của ngài đã cho thấy dụng cụ mà Chúa sử dụng rất kiến hiệu. Chúa biết phải chọn ai và sử dụng ai.
Tôi đã sống qua nhiều đời Giáo Hoàng, nhiều thăng trầm lịch sử, tôi nghiệm một điều, ở bất cứ giai đoạn nào của thế giới, của Giáo Hội, Chúa luôn quan phòng để có một vị Cha chung thích hợp dẫn dắt con thuyền Hội Thánh. Chúa đã hứa bảo vệ và xây dựng Hội Thánh, Chúa đã hứa không quyền lực nào có thể phá hoại được Hội Thánh ( Mt 16, 18 ), tại sao chúng ta không tin vào lời hứa của Đấng Trung Tín ( 2Tm 2, 13 ), tại sao chúng ta không tin vào sự quan phòng đầy thương yêu của Chúa ?
Hãy phó thác và tin vào sự quan phòng của Chúa…
Người đi một nửa hồn tôi… vững
Một nửa hồn kia Chúa quan phòng.
( xin lỗi đã sửa thơ của thi sĩ Hàn Mặc Tử )
Lm. VĨNH SANG, DCCT, 22.2.2013

Lm Richard Leonard sj: Cây vả và chuyện sám hối




Trình thuật ”cây vả” hôm nay, hiển nhiên không nói gì về hạnh phúc ở nhân gian trần thế. Trình thuật cũng không bàn nhiều về những trừng phạt Đức Chúa gửi đến với cây trái còi đẹt, chốn thế trần. Nhưng, Tin Mừng đặc biệt hàm ẩn một hạnh phúc. Thứ hạnh phúc đong đầy những quà tặng cứu độ, của Đức Chúa. Và Tin Mừng hạnh phúc hôm nay, sẽ không trọn vẹn nếu không có sự hoà đồng hợp tác của những người con yêu dấu, nơi gian trần. Nơi, có những hạnh phúc nhỏ nhoi cần nâng niu như trái chín đầu mùa. Trái chín đã kết tụ, vào mùa tới. Mùa của sám hối. Mùa xót thương thân phận còi đẹt, rất bất hạnh. 
                 Về những còi đẹt/bất hạnh chốn nhân trần, dân thường ở huyện lại cho rằng: chính đó, là hình phạt Cha gửi đến. Một loại hình trừng phạt: nhẹ, thì như cây vả không đâm hoa kết trái. Nặng, thì như Tsunami cơn sóng rất thần, xứ Inđô. Nối tiếp các bất hạnh/còi đẹt, là những ngờ vực. Ngờ vực ở Thiên đình lẫn “chốn nhân gian”, chưa dám chắc nơi đâu là hạnh phúc nhỏ, ta có được. Và, người đời vẫn cứ nghi ngờ. Nghi và ngờ, rằng: Thiên Chúa quản cai vũ trụ như người điều khiển con rối, rất tơi bời.
Trình thuật “cây vả” hôm nay còn cảnh tỉnh, rằng: nếu các ngươi không sám hối tất cả sẽ nên còi đẹt/bất hạnh, tựa cây khô. Tuy nhiên, cây khô bất hạnh không giảm bớt đi tình thương yêu cứu độ, Chúa ban phát. Và, Tin Mừng cũng không đề cập gì đến duyên do của bất hạnh/còi đẹt. Bởi, bất hạnh nơi con người và còi đẹt ở cỏ cây, đều là những cảm nghiệm, tự hỏi rằng: phải chăng Chúa đã bớt yêu tôi? hoặc: tôi có xứng đáng với tình yêu thương của Đức Chúa, nữa không?
Trình thuật “cây vả” vẫn xác minh một điều, rằng: tình huống “nhân gian” nơi ta sống, các kinh nghiệm ta trải qua, đều là những “dấu chỉ” về tình Chúa thương ta. Dù ở Thiên đình hay chốn nhân gian người phàm, loài người và cỏ cây vẫn tràn đầy ơn mưa móc, những ân huệ. Ân huệ Ngài tặng, luôn nhắc ta một bổn phận: phải biết sẻ san đùm bọc với hết mọi người, chứ không chỉ cho riêng mình. Đùm bọc, để muôn người như một trở nên “trái chín đầu mùa”, có Chúa “nâng niu chăm sóc”. Và từ đó, trở thành quỹ đạo tình thương chuyển tải ân huệ Ngài ban, cho mọi người.
Dù là quà tặng, nhưng “dấu chỉ” của ân huệ không trở thành định chế; mà, là dịp tốt để ta cảnh tỉnh. Cảnh giác về những nghịch lý/nghịch thường, đang có trong đời. Và, tỉnh thức, để gặp Đấng cứu độ luôn tặng ta nhiều ân huệ. Ở “nhân gian” cỏ cây - đời người, vẫn có lúc ta tưởng chừng như đã ngã gục, đắm chìm trong khổ đau. Đau, vì tật bệnh. Khổ, vì tai ương, nghèo khó. Có lúc, ta đau đớn sầu khổ vì những thất bại, nơi trường đời. Đau đấy, nhưng vẫn không nên chủ bại. Khổ đấy, nhưng chớ có tuyệt vọng. Bởi thất bại, thật ra, vẫn là mẹ thành công, mà ta không thấy đó thôi.     
Nói chung, còi đẹt/bất hạnh không là hình phạt, đến từ Chúa. Thất bại, cũng là điều tốt. Vì, có thất bại mới khiến bạn bè/người thân rời bỏ tháp ngà hạnh phúc của riêng mình, để vực dậy những người đã ngã gục và đưa họ về với vòng tay ôm, chăm sóc. Ngược lại, cuộc sống ấm no, dư đầy vật chất, vẫn chưa hẳn là “hạnh phúc nhỏ nhoi cần nâng niu”. Bởi, niềm vui sướng giả tạo, cấp thời chỉ đưa con người về với ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa. Chẳng quan tâm đoái hoài gì đến tha nhân. Đồng loại.
Thành thử, lâu nay đã trở thành nguyên tắc cho thực tại cuộc sống: ở đâu có đoái hoài đùm bọc người khác, những người đau khổ đói nghèo, ở đó Đức Chúa sẽ lân la, đến gần. Ở đâu vật chất dư dật thừa mứa, nhưng thiếu quan tâm đùm bọc những người lâu rày không có, chắc chắn nơi đó Chúa không hiện diện. Và, hạnh phúc có từ vật chất dư dật mà thiếu sẻ san, chỉ là hạnh phúc tạm bợ vị kỷ. Tuyệt nhiên, đó không là hạnh phúc, đích thật.
Hạnh phúc đích thật, chính là sự đùm bọc, sẻ san với người đồng cảnh, mà thánh Phaolô đề cập trong bài đọc 2, hôm nay. Thánh nhân quả quyết: không phải vì bản thân ngài cũng kinh qua các giai đọan bất hạnh/còi đẹt, nên chắc chắn có được đảm bảo, là: người khác sẽ yêu thương đùm bọc ngài. Ngược lại, những ai kinh qua bất hạnh – khổ đau, vẫn được bảo đảm, là: Chúa sẽ dành cho họ một cơ hội khác nữa để trỗi dậy, nhờ có sự cầu bàu của người anh/người chị, cùng cảnh ngộ. Cũng tương tự như cây vả còi đẹt nói ở Tin Mừng. Nói khác đi, đấy là tình huống “mặn này cho bõ nhạt ngày xưa”. Thứ mặn mà/tình nồng của những sẻ san đùm bọc từ người anh/người chị đồng cảnh ngộ.
                Với hiểu biết tương tự, chẳng phải vì mình từng đi lễ. Vẫn xưng tội đều đặn; hoặc đã rửa tội theo nghi thức Công Giáo, mà nghiễm nhiên mình được bảo đảm chiếc vé “lên Thiên đình”, nơi có những hạnh phúc đáng nâng niu. Hoặc, nắm chắc được rằng Đức Chúa yêu thương tặng ban, ơn cứu độ. Cho mình. Bởi nếu thế, chiếc máy vi âm, cái loa phóng thanh hoặc cột đèn đường, chúng đã có bảo đảm được “nâng niu như trái chín đầu mùa”, trước chúng ta.
Cuối cùng, vấn đề là: nếu sau những tháng ngày tham dự thánh lễ, hãm mình phạt xác, mà không sám hối. Đổi mới. Thì, cũng chẳng có gì đảm bảo, là: ta tăng trưởng trong tình yêu thương đùm bọc của Chúa. Quả vậy, qua trình thuật “cây vả” hôm nay, Chúa đã hai lần nhắc nhở: “nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ như vậy”. Sẽ như vậy, tức là sẽ cùng chung số phận còi đẹt/bất hạnh, như cây vả. Không khác gì “mấy người Ga-li-lê kia thôi”. Xem như thế, trình thuật “cây vả” đã hơn một lần cảnh tỉnh con dân nhà Đạo: hãy biết sám hối và đổi mới.
Sám hối - đổi mới, có quyết tâm sẻ san tình thương yêu cứu độ, Chúa tặng ban. Sám hối - đổi mới, để người người, dù chưa nghe biết Tin Vui An Bình, cũng được sẻ san đùm bọc, với thương yêu. Sám hối - đổi mới, là trở về nguồn, theo chân Thầy rao truyền tình thương yêu cứu độ, cho mọi người. Rao truyền cho bạn bè - người thân, lẫn người xa lạ, chưa từng biết. Cả người trong Đạo, lẫn người ở ngoài. Cả trong gia đình, trường ốc lẫn công sở, phố chợ. Tất cả, đều là cánh đồng lúa chính cần được rao truyền. Cần, thợ gặt.
                Sám hối - đổi mới nhân Mùa Chay, là tạo dịp thuận cho chính mình, để vun xới cây vả còi đẹt/bất hạnh cho tươi tốt. Cho đâm hoa kết trái. Sám hối - đổi mới, để nhớ rằng: chính ta đã được gọi mời không chỉ làm người tín hữu ngoan hiền/giữ luật Đạo, thôi. Nhưng còn biết, đem thông điệp Mùa Chay đến với thế giới nhân trần. Thông điệp giản đơn, là: hãy biết “nâng niu hạnh phúc nhỏ ta vẫn có”. Chuyển tải thông điệp “Sám hối”, để rồi toàn bộ thế giới sẽ đổi mới. Sẽ nên trong sáng. Tươi vui. Vui, với mọi người. Yêu, mọi người. Giúp hết mọi loài. Sinh vật. Động vật.

Monday, 25 February 2013

Lm Nguyễn Thế Thuấn CSsR: Sách Thánh và Mặc Khải Cứu Rỗi: Điều Răn thứ 6





Mt 5: 27-30: Phản đề II: Điều răn thứ 6

Ngoại tình không cứ là dâm dật thật sự, nhưng chính là nơi lòng dục của người ta. Nếu đã biết rằng việc ngoại tình là điều Thiên Chúa cấm, thì lý đương nhiên phải nói rằng: Thiên Chúa cấm cả cái nguyên nhân gây ra ngoại tình: tức là lòng chấp chứa dục vọng. Đây cũng như trên, sự dư dật của công chính mới là phải đặt thái độ bên trong trước những thực hiện bên ngoài, khi phải tìm kiếm ý định của Thiên Chúa.

5: 19-30: Những nố cực đoan về thái độ của một người nhất quyết giữ mình cho khỏi sa ngã. Các lời này còn lặp lại trong Mt 18: 8t/Mc 9:43-48. Ở đây các lời này nhắm đến tính cách tuyệt đối bắt buộc khử trừ dục vọng.

5: 31-32. Thêm một lời của Chúa về ly dị. Lời này phát xuất trong hoàn cảnh nói trong Mt 19: 1-9/Mc 10:1-2.

Vấn đề ly dị phải hiểu theo hoàn cảnh lịch sử thời Chúa Yêsu:
-Người ta coi ly dị như một đặc ân của Israel. Còn ly thư (tờ cho phép ly dị, hay chứng nhận đã ly dị) có mục đích bảo vệ quyền lợi người vợ, cho họ có một bảo đảm pháp luật được phép lấy chồng để được che chở.

-Vấn đề tranh luận là khi nào được phép ly dị. Lý do nào cho người chồng quyền đó. Các môn phái, thông luật đều dựa trên Tl 24: 1 (khi người chồng thấy nơi vợ có một điều gì đáng xấu hổ: tranh luận điều đó là gì: ngoại tình (môn phái Shammai) hay bất cứ điều gì người chồng cho là đáng xấu hổ (môn phái Hillel).

Mt 19: 1-9/Mc 10: 2tt: Chúa Yêsu tuyên bố ly dị không phải là đặc ân, mà là một điều bất đắc dĩ vì sự lì lợm, cứng cỏi của người ta. Sau đó Ngài nhắc đến ý của Thiên Chúa khi tạo thành, và tuyên bố hôn nhân không thể hủy bỏ được.

Vậy lập trường của Chúa Yêsu: lấy lại chính ý định của Thiên Chúa đã ghi trong việc tạo thành. Ngài không cư xử như người cải cách hay ban luật rạch ròi hơn. Ngài làm sứ vụ tiên tri, tuyên bố ra ý định tiên khởi của Thiên Chúa: con người phải được thẩm định cách trang nhiêm kính cẩn, chứ không được hạ giá xuống tư cách một đối vật cho dục vọng. Và điều đó, Chúa Yêsu bày tỏ ra trong nố người nữ ngoại tình (Yn 8: 1-11)

Đang sau lập trường của lời tuyên bố, có giả thiết này: thời Lề luật đã đến lúc cáo chung, thời cứu rỗi đã xuất hiện, thời mà ý định tinh tuyền của Thiên Chúa trong trạng thái địa đàng được vãn hồi trong Nước Thiên Chúa.  
                                                                                                                                                              (còn tiếp)

Lm Nguyễn Thế Thuấn CSsR
(trích tài liệu giảng huấn phổ biến nội bộ)


Saturday, 23 February 2013

Lm Kevin O'Shea CSsR: Phaolô, Vị thánh của mọi thời Chương 8 phần 1



PHAOLÔ và sự nghiệp cầm bút
viết cho người thị thành
ở La Mã

Phần 1

Thư Rôma

“Thư Rôma là thư đặc trưng/đặc thù do thánh Phaolô viết. Là, thứ thư tín dũng mãnh, cuốn hút như bão táp, sóng dồn, hò reo mạnh bạo và hét rất to vì vui sướng cũng rất nhiều.” (Jacob Taubes)

Tóm lược

Có thể nói, thánh Phaolô hầu như đã bỏ rất nhiều tháng ngày quần quật lao động chống “La Mã”. Ông chống, không chỉ mỗi tinh thần đế quốc, mà thôi; nhưng, ông còn chống cả hệ thống cha/cố, khống chế hết mọi người. Tuy là thế, nhưng: vào những tháng ngày cuối đời mình, thánh-nhân những muốn về với Rôma cho hả lòng hả dạ, và ông được tiếp đón theo cung-cách dành cho người bị “quản thúc tại gia” khá hiền-từ, hầu đợi trông “những gì phải đến sẽ đến,” cũng bình thường. Tuy là thế, nhưng vụ xử án mà ông trông đợi rất nhiều ngày vẫn không xảy đến, nên vẫn chờ. Nhiều lúc, ông thấy mình như chết lặng trong đợi chờ, ở nơi đó. Đợi và chờ, cho đến ngày cận kề cõi chết cũng không thấy đến, nên nóng lòng, ông lại ghi thư gửi cộng đoàn nơi ông từng giao du mật thiết, rất lâu ngày. Thư ông viết, đích thực là một tuyên ngôn thần thánh rất chín mùi, cốt để dung hoà những chuyện ông từng đề cập một cách sôi nổi với mọi người, để rồi người đời sau sẽ coi đó như một luận-cứ chính thức của thần-học Hội thánh thời tiên khởi, từng làm nên tên tuổi của ông vào mọi lúc. 

Thánh Phaolô từng có ý định đi Tây-Ban-Nha một chuyến, lại những muốn được hậu thuẫn –cả về tài chánh cũng như mọi chuyện- bởi cộng đoàn nơi đây vốn tạo dịp để ông hoàn thành ước vọng nhỏ của mình trong vui mừng. Thư Rôma, là thư đặc biệt qua đó ông đề cập cũng khá nhiều về Đức Chúa. Về, những điều mà nhiều người thường vẫn hỏi: sao Chúa lại cứ hướng về Thiên-Chúa-là-Cha để rồi Ngài lại phải lo hành xử sao cho có lợi với thế giới nhân trần. Thánh Phaolô cũng viết về thế giới ngập tràn năng lượng của Chúa. Và ông bảo: tất cả những thứ ấy đều là quà tặng thuần khiết. Nên, ta hãy vui mừng mà đón nhận và ứng đáp bằng cung cách cởi mở cách trọn vẹn, thông thoáng. Để được thế, thánh-nhân nói: ta cần một thứ “cắt bì nội tâm”, tức: gỡ bỏ đi, những gì là rào cản gây ngăn trở cho việc nhận đón Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành, rất vẹn toàn. Thánh Phaolô gọi đó là tình thân thương “agapè”, tức lòng mến bao la theo cung cách rất khác hẳn. Thánh-nhân từng nói: tất cả chúng ta được gộp chung vào cùng ơn cứu rỗi nhờ lòng thương mến vô vàn của Chúa. 

Thiên Chúa là Đấng duy nhất sống theo phong cách trọn vẹn, toàn hảo. Ngài đến với ta như Đấng đã sử dụng ảnh hưởng của vũ trụ đầy những điều tốt đẹp gửi thẳng đến ta. Nay, Ngài sống trong ta và với ta. Đây không là chuyện viển vông, mơ hồ, mà là thực tại rất xác định. Chính vì thế, ta thực sự có khả năng sống với Ngài và trong Ngài như người phục sinh trỗi dậy, rất thích thú. Kết quả là, ta có quan hệ mật thiết với người chung quanh và chẳng cần gì lợi ích tư riêng/vị kỷ để có được động thái sẻ san với mọi người bằng vào những gì được Chúa san sẻ cho ta, và với ta. 

Đây không nhất khiết chỉ nói về mặt tư tưởng hoặc lý thuyết suông, thôi. Nhưng, vẫn là thực tại rất thật, và rất rõ. Đó, là chứng cứ cụ thể về việc “Thần Khí Chúa” tác động lên ta và mọi người, để mọi người và mọi sự lại sẽ nên đồng hình/đồng dạng với ta.
----------------------
“Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khó, đói rách, hiểm nghèo, bắt bớ hoặc gươm giáo? Như có lời chép: Chính vì Ngài, mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh… Nhưng trong thử thách ấy, ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến ta.

Đúng là thế. Tôi tin chắc: cho dù sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hoặc bất cứ loài thọ tạo nào, không có gì tách ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa vẫn thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.”
(Rm 8: 35-39)

Rôma

 
Thật sai lầm, nếu có người lại cứ tưởng rằng La Mã thời ấy –bây giờ gọi là Rôma- vẫn tràn ngập toàn người Ý. Thật ra thì, người Ý khi ấy, chỉ đếm được không đầy 10% hoặc 12% dân số ở đây thôi. Người xưa có nói: “Đám Orontes bao giờ cũng dồn về đồng bằng sông Tiber” hết. Đó là điều cũng dễ hiểu. Bởi, điều này có nghĩa: lúc ấy, đã có đợt di dân tràn đồng từ miền Đông kéo về tận xứ miền gọi là La Mã. Cũng có thể, một số người da mầu/đen đuốc đã từng về nơi đó để sinh sống. Nhưng, Rôma ngày ấy không đông lắm. Điều này, ai cũng thấy xảy đến rất thường tình từ thế hệ này qua thế hệ khác, như cung cách sống động của những người nhất quyết quay về đây mà sống cho tiện, thế thôi.

Thật ra, chúng ta cũng không biết gì nhiều về giòng đời lịch sử vào lúc ban đầu. Ở thời điểm, mà hầu hết dân con Đạo Chúa sống ở Rôma, lại cứ hỏi: ai là người dám tra tay dựng xây một thành đô hồ đồ đến là thế? Thành đô này được xây dựng từ hồi nào mà sao chẳng có chứng cứ lịch sử rõ rệt khả dĩ cho thấy thánh Phêrô là đấng sáng lập ra chốn miền thần thánh linh thiêng ấy. Cũng chẳng ai lại cứ tin rằng có thánh tông đồ nào đó từng dấn thân theo Chúa lại đã tác tạo nên chốn phồn hoa đô hội tựa hồ là thế. Ngay đến thánh Phaolô ngài cũng đâu buộc phải đích thân đến những nơi hoặc những vùng do mình thành lập để kinh lý hay kinh lược đến chộn rộn. Tuy vậy, ông vẫn đến. Dù, có đến cũng chỉ để “thăm dân cho biết sự tình” một đôi ngày rồi thôi. Thời thánh Phaolô, cộng đồng dân Chúa gồm cả người Do thái lẫn người ngoài Đạo, nhưng hầu hết những người như họ đều thấy là các vị nào từng hồi hướng trở về với Đạo Chúa lại không chỉ xuất xứ từ gốc nguồn Do-thái-giáo, thôi.

Ở đây, ta cũng hiều: số tín hữu có nguồn gốc Do-thái-giáo sống ở Rôma quả là khá đông. Tác giả Josephus ước định khá rộng lượng là: giả như ta tính việc ấy bắt đầu từ năm thứ tư trước Công nguyên, thì số người sống ở đây đếm được khoảng chừng trên dưới 8 ngàn người. Trong khi đó, tác giả Philô lại cho rằng: những người sống ở nơi này từng sinh hoạt bên sông Tiber mà người thời đó gọi là “Trastevere”; tức: một nơi có đến 13 hội đường thường có những sinh hoạt đình đám, không hề thiếu. Nhưng, khởi từ năm 41 sau Công nguyên, Hoàng Đế Claudius lại đã ra chiếu chỉ cấm mọi người không được la cà/bén mảng hoặc tụ tập gặp gỡ ở chốn công đường, hoặc cả nơi chính lộ cũng đều thế. Kịp đến năm 49, ông nhất định đòi tống xuất những người này ra khỏi Rôma, vì họ có ý đồ làm loạn ngay ở thành đô mà người Ý khi trước gọi là “vụ rối ở miền đồi Crestô.” Kịp đến năm 54, khi hoàng đế Claudius băng hà, mọi người mới quay về chốn “đường xưa lối cũ” để tái lập một số sinh hoạt cộng đồng, như thừa-tác-viên Priscilla và Aquila vẫn từng làm.

Lại thêm một sai lầm nữa, nếu ta cứ nói đến “cộng đoàn dân Chúa” ở Rôma theo cung cách khách quan, lịch sử mà không có chứng-cứ. Bởi, đoàn/nhóm Kitô-hữu ở đây, là một hoà trộn gồm những vị trước kia từng theo Do-thái-giáo và cả những người kính sợ Chúa –tức dân con ngoài Đạo- đều do thánh Phaolô gom nhặt từ các hội đường ở đây đó, rất quanh quất. Và, thánh-nhân lại đã qui tụ các vị này cốt để thiết lập thành nhóm/hội cộng đoàn con dân biệt lập. Thánh-nhân không gọi nhóm/hội của các vị này là hội thánh, ở số ít, gồm các thừa-tác-viên nữ như Priscilla, Aquila tức các nữ-lưu vị-vọng chuyên qui tụ và gom gộp bạn đạo từng sống ở đâu đó, rồi thu về một mối. Vị nào hồi hướng trở về Đạo Chúa từ Do-thái-giáo cùng các vị có gốc đạo Do-thái sống ở đó, cũng di dời khỏi Rôma từ năm 54, sau cái chết của hoàng đế Claudius. Dân ngoài Đạo, vốn hồi hướng trở về Đạo lại muốn các vị này nên sống bên ngoài để không dính dự gì với nhóm ở trong. Các vị, thậm chí còn muốn tống xuất cả những người ấy ra khỏi cộng đồng dân Chúa cho đỡ “rách việc”. Thế nên, chẳng ai có ý định lên đường rao giảng cho người Do thái giống như thế. Đồng thời, các vị lại muốn nêu lý lịch của tín hữu thuộc Đạo Chúa vốn cứ dùng ngôn ngữ không phải là tiếng Do thái. Thánh Phaolô không đồng ý chuyện này. Thế nên, người đọc thư Rôma sẽ thấy là tác giả thư này không đả động gì đến những chuyện đại loại như thế.

Trong số các vị chuyên đặt vấn đề, lại thấy đưa ra một vài thắc mắc tràn lan nơi cộng đoàn, để các ngài lại sẽ hỏi: sao Chúa chỉ chọn mỗi đất nước và con người Israel là dân tộc có giòng lịch sử hào hùng vào buổi đầu như thế? Sao dân con nhà Đạo từng thiết lập giao ước với Chúa lại vẫn chỉ là dân Israel hoặc Hội thánh, mà không mang tinh thần đạo của cả một tổng thể rất gói gọn, để rồi tất cả sẽ biến hình đổi dạng ra như thế? Thắc mắc này, được coi như hậu thuẫn chống đỡ cho thư Rôma do thánh Phaolô viết rồi gửi cho các vị lâu nay sống ở đây.
Thánh Phaolô viết thư, là viết cho cư-dân thị-thành ở nơi này bằng tiếng Hy Lạp, tức: thứ ngôn ngữ thực dụng vào thời đó, khi thánh-nhân đặt chân lên đây lần thứ ba, ở vùng này, vào thời gian khoảng từ năm 54 đến 58, tức 5 năm đầu triều đại Nêrô. Thánh-nhân viết, là viết từ A-kai-ya, nơi có thủ-phủ nổi tiếng rất bê bết, là Côrinthô. Bạn đạo nơi đây, như Gai-ô và Ê-ras-tô cũng đính kèm lời chào thăm hỏi ở thư này. Thêm vào đó, còn có bạn đạo từng dấn thân ra đi làm công tác mục vụ cùng với thánh Phaolô,là: Timôthê, Lucius, Jason, Sôsiphatê…và các vị sinh hoạt chung, tại Côrinthô nữa. Ter-siô là người ghi chép những gì thánh Phaolô đọc cho ông ghi. Chị Phêbê, người sống ở thủ phủ mang tên Kench-krê gần Côrinthô, là người đem thư này đến người nhận.

Ở đây, tôi có nhận xét tương tự đề nghị của một số vị lâu nay thường hay cho rằng: vào năm 64, có vụ cháy lớn ở Rôma từng đốt sạch phân nửa thành đô nổi cộm, vì lúc đó bạo chúa Nêrô lên cơn làm chuyện tày trời, rồi đổ lỗi cho người Đạo Chúa ra tay phóng hoả đến như thế. Theo tôi, thì: sau khi đổ diệt cho người Đạo Chúa đốt trụi tài sản của chúng dân rồi, quan quân ở đó lại đã ra tay trả đũa cách tàn bạo. Theo chỗ tôi hiểu, thì: việc này càng làm cho tình thế căng thẳng đến cực độ, khiến quan quyền ở đó trở thành đám hỗn quân hỗn quan không thể dừng tay được nữa. Và, bạo chúa Nêrô lại vẫn tiếp tục bách hại thường dân vô tội khiến cộng đoàn tín hữu ở đây đành chọn giải pháp chết vì Chúa, và cho Chúa. Tôi cũng nghĩ: thay vì đem chôn hoặc bảo trì thánh tích của một Phaolô quyết sống chết vì Đạo ở nguyện đường hoặc mộ phần nào tương tự, thì họ lại quẫn bách/hãm hại ông tựa hồ như người vô danh tiểu tốt được quan viên vứt xác xuống huyệt mộ ở đâu đó chốn thành đô, xô bồ, loạn náo. Kết quả là: thánh Phaolô đã thực sự trở nên hư vô/trống rỗng đến tuyệt hảo. Riêng tôi không có bằng chứng cụ thể hoặc tài liệu nào khả dĩ xác minh được những chuyện như thế; nhưng, cũng chửa biết chừng: mai kia mốt nọ lại sẽ có người làm được chuyện đó! Và, tôi cũng không có tư cách để khẳng định rằng: thánh-nhân đã qua đời tại “Tre Fontane”; rồi sau đó, bị bọn “đầu trộm đuôi cướp” kia chặt đầu dùng đó làm thứ bóng đá mà tung/ném đến “3” lần. Câu chuyện như thế chỉ là giả tưởng, tuyệt nhiên không mang tính khách quan lịch sử, chút nào hết.

Thánh Phaolô viết lên chỉ một phần của thư Rôma này thôi. Bởi, ông muốn hỗ trợ cho Rôma để còn đi Tây Ban Nha cho “thoả chí tang bồng”. Và, ông lấy làm thích thú khi có cơ hội giao dịch với cộng đồng ở nơi này. Và, đây là bức thư duy nhất được ghi chép trước khi ông có dịp trở lại với cộng đoàn nơi đó.

Thư ông viết cho cộng đoàn ở đây cũng từ tốn, khiêm nhu, có cân nhắc cẩn thận như một tuyên ngôn đã chín mùi, nhẹ nhàng về những chuyện mang tính cảm xúc mà có lần ông từng bộc lộ vào thời trước. Bộc lộ, đường lối Chúa hoạch định một thế giới mang tính tích cực hơn. Bộc lộ, cả thắc mắc: sao Chúa lại mỗi hướng về với Cha bằng cả sự công chính để duy trì kế hoạch Ngài ban một cách tốt đẹp, tuyệt diệu; hoặc: sao công cuộc sáng tạo lại mang ý nghĩa của việc bộc lộ kế hoạch, vẫn tràn đầy việc Chúa biến hình/đổi dạng ra như thế.

Để sự việc như thế có thể xảy ra, cũng cần đến thứ “cắt bì nội tâm” ngõ hầu dân con mọi người mới nhận được những thứ như quà tặng đơn thuần. Theo cung cách lịch sử, nhiều sự việc đã đi vào đường lối giống như thế. Tất cả, đều như vậy. Thành thử, Thiên Chúa chỉ chọn mỗi dân tộc đặc trưng là Israel qua đó mọi sự có thể xảy đến cách tích cực và như thế mới chứng tỏ cho mọi dân nước thấy được đâu là vấn đề. Và, kế hoạch này không đạt theo nghĩa thông thường của ngôn từ. Vì thế nên, có một người Do thái là Đức Giêsu Kitô đã đến từ Thiên Chúa để thực hiện ơn gọi của Israel. Từ ngày Ngài phục sinh/trỗi dậy, tất cả chúng ta mới có khả năng được sống tích cực như thế, và sống tự do trọn vẹn. Và có thế, ta mới yêu Chúa, thương Đức Kitô, Israel, thương mến mọi dân nước và mến thương mọi người. Và, thánh Phaolô đặt tên cho tình yêu thương này là lòng mến thương agapè, tức cung cách yêu đương như Thiên Chúa đương yêu mọi người.

Thánh Phaolô hiểu rõ rằng thế giới quanh mình, đặc biệt tại La Mã, còn tăm tối, đầy bạo lực. Thánh-nhân lại cũng biết rằng nơi đây cần được cảnh cáo về tình trạng hiện thời. Ông không đưa ra thuyết lý nào đẹp như bánh vẽ. Ông cảnh báo sự việc xảy đến sẽ ở giữa hai tầm nhìn về thế giới không thể ăn khớp với nhau. Nhưng cuối cùng, qua thư Rôma, thánh-nhân nhấn mạnh rằng: tất cả phải tỏ ra tích cực. Tất cả phải yêu thương nhau, và một ngày nào đó tình trạng tăm tối và bạo lực sẽ không không thể thắng thế.

Thánh Phaolô không thiết lập nền thần học tu đức nào dành cho dân thánh trong hệ thống của người đi Đạo. Thánh nhân nói đến hệ thống La Mã và ông cũng cho họ biết về sự thể đã diễn ra rằng: hai hệ thống này không thể hoà hợp, ăn khớp nhau được. Quan hệ giữa hai hệ thống ấy, không thể nào có được sự hài hoà, chung sống. Và, ngôn từ về sự bất hoà này rồi cũng sẽ đến, rất sớm thôi. Ông từng nói: “Hỡi La Mã! Ngươi không thể nào chiến thắng được ai hết!” Quả thực, thì: đỉnh cao của những gì được thánh Phaolô diễn tả nơi văn bản này vẫn là thành phần của niềm xác tín mang tính chính trị. Đó không là những gì được thêm vào cho đủ nghĩa.

Sự chết, Phục sinh, Đóng đinh vào thập giá, Trỗi dậy, Lời Nguyền/Chúc dữ, Tự do, Đau khổ, Yếu kém, Hành xử cách sầu não, Tính khí dễ chịu và Tình yêu vào cuối đời… đều là ngôn từ có đổi thay, nhưng ý nghĩa không thay đổi. Và, muốn lập thành danh bạ theo thứ tự nào đó cũng cần có hành trình dài đằng đẵng. Theo tôi thấy, thư Rôma chừng như bắt đầu vào lúc thư Galát đã được tác giả viết cùng lúc với phần cuối thư Côrinthô nữa. Tất cả là tình thương, nhưng tình thương phải nói ra ngoài càng nhiều càng tốt. Và, thư Rôma đã làm được việc này.

Thời gian thánh Phaolô lưu lại ở Êphêsô là lúc ông viết lên bức thư Philípphê chính tại đây. Và, ông cũng viết thư gửi cho dân thành Côrinthô cũng từ Êphêsô và một vài nơi khác chính vào lúc thư Galát được hình thành. Ông đặt ý tưởng chính về tình thân thương agapè, và nay –từ Côrinthô/Kench-krê ông lại viết về những tư tưởng rất chín mùi chung quanh đề tài ấy.

Cùng một lúc, lại có một thứ âm thanh kiểu “đứt khúc” trong thư ông viết cho dân thành Rôma. Ông sử dụng ngôn từ Hy Lạp được gọi là me genoito (tức: phụ thêm vào) đến 10 lần. Ông còn lập đi lập lại các đoạn thư trong đó không mang nhiều ý nghĩa và cũng không hoàn toàn mang tính gỡ múi thắt cho nó. Ông sử dụng từ dikaiosune tou theou (tức: sự công minh chính trực của Thiên Chúa) đến 60 lần. Ông cũng qui chiếu cơn giận dữ của Thiên Chúa mang ý nghĩa: Thiên Chúa có thể xử phạt, nhưng Ngài lại không vô-hiệu-hoá một tuyệt đối nào hết. Mãi về sau, ta có thể sử dụng nền thần học này để phân biệt ý nghĩa đúng đắn của sự công chính/lòng Chúa xót thương từ ý nghĩa biểu trưng của sự nổi giận rồi gán hết cho Chúa.
-------------------                                                                                                                                         (còn tiếp)
____________________
Lm Kevin O’Shea, CSsR
Mai Tá lược dịch

Wednesday, 20 February 2013

Lm Nguyễn Thể Hiện CSsR: Đức Giêsu chịu cám dỗ trong hoang địa



ĐỨC GIÊSU CHỊU CÁM DỖ TRONG HOANG ĐỊA

Mở đầu Mùa Chay Thánh, Giáo Hội mời gọi chúng ta suy niệm về biến cố Đức Giêsu trải qua những cơn thử thách trong 40 ngày tại hoang địa ( Lc 4, 1 13 ).
Khi ấy, Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về. Suốt bốn mươi ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Người không ăn gì cả” ( cc. 1 2a ).
Trong biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa, Thánh Thần đã được ban xuống tràn đầy trên Người. Dưới tác động của chính Thánh Thần đó, Người di chuyển trong hoang địa suốt 40 ngày, như dân Israel xưa đã lang thang trong hoang địa 40 năm. Chú ý: tác giả Luca viết “trong hoang địa” ( giới từ en + danh từ ở tặng cách ), khác với các tác giả Mátthêu và Máccô ( viết là “vào hoang địa”: giới từ eis + danh từ ở đối cách ).
Có hai yếu tố quan trọng trong trải nghiệm của Đức Giêsu suốt 40 ngày nơi hoang địa. Yếu tố thứ nhất: “Người tràn đầy Thánh Thần và được Thánh Thần dẫn đi”. Yếu tố thứ hai: “Người chịu ma quỷ cám dỗ”. Có lẽ vì muốn nhấn mạnh khía cạnh “tràn đầy Thánh Thần” mà tác giả Luca đã không kể rằng Đức Giêsu ăn chay trong hoang địa ( như trong Mt 4, 2 ), mà chỉ nói rằng “Người không ăn gì cả”: trong Thánh Thần, Con Thiên Chúa sống một cách viên mãn bởi vì chính Thánh Thần là sức sống của Người. Tuy nhiên yếu tố thứ hai ( Đức Giêsu chịu cám dỗ ) cũng được tác giả nhấn mạnh cách đặc biệt. Phần lớn trình thuật được dùng để triển khai yếu tố thứ hai này.
Như thế, cũng giống như đối với dân Israel xưa, hoang địa trong bài Tin Mừng hôm nay vừa là nơi chốn của những kinh nghiệm sâu xa về sự hiện diện hữu hiệu và đích thực của chính Thiên Chúa, vừa là nơi chốn xảy ra những cơn cám dỗ và thử thách mang tính quyết định sống còn. Đó có lẽ cũng chính là đặc tính của 40 ngày Mùa Chay này của chúng ta. Đây vừa là thời gian của cám dỗ và thử thách, nhưng cũng vừa là, và chính yếu là, thời gian của ân sủng, của cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, của sự tràn đầy Thánh Thần.
“Khi hết thời gian đó, thì Người thấy đói. Bấy giờ, quỷ nói với Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh đi !" Nhưng Đức Giêsu đáp lại: "Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” ( cc. 2b 4 ).
Cơn đói của thân xác sau 40 ngày không ăn đã là cơ hội để xảy đến cuộc cám dỗ đầu tiên. Và mối liên hệ với cuộc thần hiện được khắc hoạ rõ nét qua lời của ma quỷ nói với Đức Giêsu: “Nếu ông là Con Thiên Chúa”. Thực ra, trong Tin Mừng theo Thánh Luca, không bao giờ có người nào gọi Đức Giêsu với tước hiệu Con Thiên Chúa, mà chỉ những hữu thể thuộc thế giới siêu nhiên mới sử dụng tước hiệu đó cho Đức Giêsu: Chúa Cha ( Lc 3, 22; 9, 35 ), thiên thần ( Lc 1, 32.35 ), ma quỷ ( Lc 4, 3.9.41; 8, 28 ). Tước hiệu “Con Thiên Chúa” được dùng ở đây còn nhằm cho thấy rằng Đức Giêsu bị cám dỗ trước hết là về những thực tại liên quan đến tư cách của Người là Con thảo của Thiên Chúa.
Cơn cám dỗ đầu tiên: biến một hòn đá thành bánh để thoả mãn cơn đói. Trong Tin Mừng theo Thánh Luca, hạn từ “hòn đá” được dùng ở số ít, khác với trong Mátthêu ( dùng ở số nhiều ). Vậy khác với trong Mátthêu, cám dỗ này trong Luca sẽ chỉ là cám dỗ thực hiện phép lạ để thoả mãn nhu cầu của một người, chứ không phải của nhiều người. Có vẻ trong Luca, cơn cám dỗ đầu tiên này không mang ý nghĩa Mêsia.
Câu trả lời của Đức Giêsu cho cám dỗ này thật ngắn gọn: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”.
Trước hết, Đức Giêsu từ chối thực hiện phép lạ làm hòn đá biến thành bánh để thoát khỏi cơn đói đang hành hạ Người. Đức Giêsu muốn sống tư cách là Con như một con người đón nhận sự hiện hữu của mình từ Thiên Chúa chứ không tự tại nơi mình. Người có đủ quyền năng để tự mình làm ra bánh từ đá, tức là Người có thể tự duy trì Sự Sống của mình nhờ những thứ vốn không thể đem lại sự sống.
Nói cách khác, Người hoàn toàn có đủ quyền năng để tự tại nơi mình, điều mà xưa kia Ađam đã khao khát và đã kỳ vọng sẽ có được bằng việc ăn trái của cây biết lành biết dữ. Nhưng Người đã không biến đá thành bánh, vì Người muốn đón nhận Sự Sống từ Chúa Cha như một ơn huệ hoàn toàn nhưng không. Thiên Chúa đã gặp được nơi Đức Giêsu sự tuân phục hoàn hảo mà Ngài đã không thể gặp được nơi Ađam.
Thứ đến, trong câu trả lời của mình, Đức Giêsu không hề phủ nhận quyền năng Người có nơi mình, cũng không hề phủ nhận khả năng Người sẽ sử dụng quyền năng ấy. Nhưng, như thực tế cho thấy, Người sẽ không sử dụng quyền năng mà Người có trong tư cách là Con Thiên Chúa để thoả mãn những nhu cầu của chính bản thân Người, nhưng sẽ chỉ dùng quyền năng ấy để phục vụ người nghèo, còn chính Người sẽ chịu mọi thiếu thốn trên con đường thi hành sứ vụ cứu thế của mình.
“Sau đó, quỷ đem Đức Giêsu lên cao, và trong giây lát, chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ. Rồi nó nói với Người: "Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông” ( cc. 5 7 ).
Ma quỷ dùng chính lời Đức Chúa ngỏ với vị quân vương Mêsia trong Tv 2, 8: “Con cứ xin, rồi Cha ban tặng muôn dân nước làm sản nghiệp riêng, toàn cõi đất làm phần lãnh địa.” Tác giả Luca không muốn dừng lại ở quyền sở hữu đất đai muôn dân nước mà thôi, nhưng điểm nhấn chính yếu của ông ở đây là trên cám dỗ quyền lực chính trị. Ma quỷ nhắm vào cơn khát quyền lực vốn nằm sẵn trong tâm can mỗi con người.
“Tất cả các nước thiên hạ” được nói đến ở đây trước hết có lẽ chính là đế quốc Rôma đương thời, với tất cả vẻ huy hoàng và tham vọng điên cuồng của nó. Ma quỷ hứa hẹn “toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc”, vì nó biết rằng ở phía sau mỗi thứ quyền bính thế gian đều là tham vọng cai trị kẻ khác và tham vọng biến mình thành một thứ ngẫu tượng đáng được tôn thờ.
Ma quỷ muốn Đức Giêsu bái lạy nó, tức là muốn Người thực hiện một hành vi thờ phượng. Hành vi đó sẽ đối nghịch triệt để với tư cách là Con Thiên Chúa của Đức Giêsu. Hành vi đó sẽ là sự phản bội tận căn, làm đảo ngược hoàn toàn mối tương quan con thảo của Đức Giêsu đối với Thiên Chúa.
Bên cạnh đó, ma quỷ hứa hẹn một Vương Quốc Mêsia được thiết lập tức khắc, không phải qua con đường thập giá, nhưng được sự ủng hộ của toàn thể thế gian, nhưng với một điều kiện: ma quỷ được con người nhận là dung mạo đích thực của Thiên Chúa.
Ngày nay, cám dỗ đó vẫn mang tính thời sự đặc biệt đối với Hội Thánh và từng người tin: nấp dưới những vẻ bề ngoài cao thượng mà thỏa hiệp với những thế lực của sự dữ để thoả mãn cơn khát quyền lực ích kỷ của mình.
Nhưng Đức Giêsu đáp lại: "Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” ( c. 8 ). Đức Giêsu trích nguyên văn một phần của Kinh Shema ( Đnl 6, 13 – bản LXX) , tức là lời cầu nguyện mà người Do Thái đọc ba lần mỗi ngày. Bằng cách đó, Người tỏ mình liên đới hoàn toàn với những con người luôn luôn ý thức một cách mạnh mẽ về sự tuỳ thuộc của mình vào một mình Thiên Chúa. Con Thiên Chúa sẽ sống sứ vụ thiên sai của mình trong tư cách một người tôi tớ hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa cho đến chết, và là cái chết thập giá. Người sẽ đi con đường đau khổ chứ không phản bội Cha. Người sẽ chỉ thờ phượng một mình Thiên Chúa mà thôi.
Quỷ lại đem Đức Giêsu đến Giêrusalem và đặt Người trên nóc Đền Thờ, rồi nói với Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi ! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn. Lại còn chép rằng: Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá." Bấy giờ Đức Giêsu đáp lại: "Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi" ( cc. 9 11 ).
Cơn cám dỗ cuối cùng liên quan đến Thành thánh Giêrusalem. Đền Thờ là Nhà của Cha. Đức Giêsu được đem lên nóc Đền Thờ, rất gần sự hiện diện của Cha. Cơn cám dỗ này, như thế, chú ý nhiều hơn đến chiều kích ‘tôn giáo’.
Ma quỷ dùng Tv 90, 11a.12b ( bản LXX ) để cám dỗ Đức Giêsu. Lời Thánh Vịnh đó tuyên xưng lòng tín thác của người công chính vào sự bảo vệ của chính Thiên Chúa. Đó là lời tuyên xưng lòng tin tưởng vào Đức Chúa YHWH ở mức độ cao nhất. Và chính Đức Giêsu, trong tư cách là Con Thiên Chúa, phải sống triệt để lòng tin tưởng này. Chính khi Người chứng tỏ lòng tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, Người sẽ chứng tỏ rõ ràng rằng Người chính là Con và là Đấng Mêsia.
Bấy giờ Đức Giêsu đáp lại: "Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi" ( c. 12 ). Đức Giêsu từ chối chứng tỏ tư cách là Con Thiên Chúa của Người bằng những cách thức hành động mang tính biểu diễn. Người từ chối việc đòi hỏi những sự can thiệp đặc biệt để chứng tỏ tư cách Mêsia của Người. Tư cách là Con Thiên Chúa được thể hiện rõ ràng ngay trong câu trả lời của Người: ‘Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi’.
Trái ngược với những người Israel xưa đã thử thách Đức Chúa tại Masa ( x. Xh 17, 1 – 7 ), Đức Giêsu muốn sống lòng tin tưởng thảo hiếu của Người vào Thiên Chúa trong sự tuân phục thường ngày, như một con người không hề chờ đợi những sự can thiệp ngoại thường và những ân điển đặc biệt, nhưng luôn kiên tâm đón nhận đến mức độ tận cùng thân phận của chính mình và chính trong sự kiên tâm đón nhận ấy mà nhận ra sự hiện diện thân cận của Thiên Chúa đối với mình.
Trong ngôn ngữ thường ngày, ‘cám dỗ’ là một hạn từ tiền giả định một sự liên quan đến một điều cấm đoán, và có nghĩa là một thúc đẩy người ta đi đến chỗ vi phạm điều cấm đó. Những suy niệm trên đây về ba cơn cám dỗ mà Đức Giêsu đã trải qua cho thấy rằng việc áp dụng hạn từ ‘cám dỗ’ vào Đức Giêsu trong trình thuật Lc 4, 1 – 13 có vẻ dị nghĩa. Phải hơn, như chúng ta đã thấy, Đức Giêsu đã trải qua những cuộc thử thách chứ không phải những cơn cám dỗ đúng nghĩa. Chính hạn từ peirasmos cũng có nghĩa là đặt vào trong một cuộc thử thách, là làm một cuộc kiểm tra để xác định lòng trung thành và giá trị của một người nào đó. Điều đó cũng đã xảy ra với cụ Abraham, với ông Gióp và với chính Israel ( trong cuộc lưu đày ).
 Đức Giêsu chịu cám dỗ không phải vì Người có thể vi phạm một điều cấm đoán nào đó, hoặc có thể thực hiện một sự dữ nào đó. Người chịu cám dỗ là để thể hiện thực tại sâu kín đang có nơi Người. Những cơn cám dỗ mà Đức Giêsu đã trải qua trong hoang địa là sự tiếp tục của cuộc thần hiện đã xảy đến trong biến cố Đức Giêsu cầu nguyện ngay sau khi Người chịu phép rửa. Vậy ngang qua những thử thách được kể trong bài Tin Mừng hôm nay ( mà ta quen gọi là cám dỗ ), chúng ta được mạc khải cho biết đối với Đức Giêsu đâu là ý nghĩa của sự hiện hữu trong tư cách là Con Thiên Chúa. Người không hề tìm tự tại nơi mình, không hề để cho những con khát quyền lực và những tham vọng ích kỷ chi phối mình, nhưng luôn luôn trung thành đặt mình dưới Thánh Ý của Thiên Chúa, hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ.
Những yếu tố ‘thử thách’, ‘hoang địa’, ‘40 ngày’ đề nghị cách hiểu những thử thách mà Đức Giêsu trải qua ở đây được đặt song song với những thử thách mà dân Israel đã trải qua trong cuộc Xuất Hành. Những trích dẫn Kinh Thánh của Đức Giêsu trong các câu trả lời của Người trong bài Tin Mừng hôm nay phản ánh ba biến cố điển hình của cuộc Xuất Hành. Như thế, Đức Giêsu sống lại nơi chính mình những thử thách của Israel trong hoang địa xưa. Nhưng ngược với dân Israel xưa, Đức Giêsu đã vượt thắng các cơn thử thách đó và chứng tỏ Người xứng đáng là thủ lãnh của Dân mới.
Chúng ta được mời gọi làm con cái Thiên Chúa và làm Dân Thiên Chúa. Những thử thách Đức Giêsu đã trải qua suốt 40 ngày trong hoang địa cũng chính là những thử thách mà hàng ngày chúng ta phải trải qua.
Lm. Gse NGUYỄN THỂ HIỆN, DCCT