Sunday, 21 February 2021

Suy niệm Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Chay Năm B

 

 


 

“Mơ khách đường xa, khách đường xa,”

“Áo em trắng quá, nhìn không ra...”

                                          (dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

 

Mc 9: 2-10

Khách đường xa, ra đi hôm ấy, có là khách lữ hành bàng quan vẫn cứ nhìn mà không thấy? Có thấy chăng Thầy Chí Ái đang hiển thị cùng ngôn sứ Êlya và Môsê chốn xa vắng, ở trình thuật?

Trình thuật, thánh Máccô, nay ghi về tình tự Chúa tỏ hiện ở chốn vắng xa, người không thấy. Thấy sao được, việc hiển thị thần thánh Chúa giãi bày tâm tư Ngài bước vào chốn cao siêu tỏ hiện, ở núi thánh. Nơi đó, có Chúa biến hình tỏ hiện cùng các Thánh. Nơi đó, còn có tiếng sấm từ trời cao gửi đến với dân con một thông điệp nghe rất rõ, chứng tỏ Ngài là Con Một của Chúa Cha.  

Hiển thị, không còn như hang đá lạnh buồn ngày Chúa Giáng hạ. Nhưng, là Phục Sinh quang vinh và ngày Ngài thẳng tiến về trời, thật hoành tráng. Quang vinh và hoành tráng, là chứng tích biểu tỏ sứ điệp vượt quá chuyện hằng ngày mà dân con đà chứng kiến, nhưng không hiểu. Sứ điệp hiển thị, vượt tầm hiểu biết của dân con mọi thời, tựa như Môsê từng thay đổi diện mạo khi diện kiến Giavê Thiên Chúa. Diện mạo Chúa hiển thị trên núi sáng rực như mặt trời. Áo Ngài rạng ngời tợ nắng thuỷ tinh, trinh khiết.

Tin Mừng nay cho thấy: đồ đệ Chúa tỏ ra kinh khiếp đến độ chẳng biết ứng xử ra sao cho thích hợp. Là thánh nhân, nhưng các ngài lại bắt đầu nói năng vụng về, đòi dựng ba lều lớn để Đấng Thánh Hiền trú ngụ nơi đó nhiều ngày. Chắc chắn một điều, là: đề nghị của đồ đệ hôm ấy là chuyện thường tình xảy đến mỗi khi con người mất quân bình cảnh giác, giống hệt người phàm ở ngoài đời.     

Cảm nghiệm về hiển thị, là chuyện xảy đến với dân gian mọi ngày ở đời thường, nhiều dẫn chứng. Từ những ấu bướm biến thành bướm sâu sầu buồn đời ngắn ngủi, cho đến cảnh người người ngạc nhiên hơn khi việc biến đổi/hiển thị xảy đến khi con trẻ được hạ sinh biến hình thành người mới, lúc chào đời. 

Về biến đổi/hiển thị, thánh Augustin cho rằng đó là nhiệm tích lớn lao hơn cả sự sống lại. Bởi, khi vào với thế giới qua tư cách của người mới trẻ trung vẫn cao cả hơn là về với sự sống, sau khi chết. Mỗi ngày và mọi ngày, người người vẫn trực diện nhiều biến đổi/hiển thị ngay trong đời. Hiển thị trong ta, là biến đổi sự sống rất tư riêng của chính mình. Là, dấu ấn rất giản đơn nhưng sâu đậm. Ngay bản vị con người cũng biến đổi/hiển thị hằng ngày về thân xác. Biến và đổi, vẫn là hình ảnh thay đổi về bản vị, thôi.

Rất nhiều lần, Đức Giêsu cũng có thời khắc yêu thương/nhận thức rất mực. Đó là thời khắc lúc Ngài tăng trưởng nơi bản thể rất người mà Ngài mặc lấy. Một trong những thời khắc dễ nhận thấy nơi Ngài là đặc ân/đặc quyền mà đồ đệ vui hưởng, tức sự hiện diện của Ngài ở vào thời khắc có một không hai ấy. Hiện diện, để nhận ra cuộc biến hình/đổi dạng ít khi thấy.  

Biến đổi/hiển thị dễ nhận thấy nhất là thời khắc Chúa thả bộ để đi vào với con đường thường tình mà loài người ít nghiệm sinh. Thả bộ chầm chậm là tư thế Chúa học hỏi nơi con người về một sự thể qua thử thách, sai sót xảy đến mỗi ngày. Hầu như mỗi ngày Ngài đều nhận ra điều mới mẻ của cuộc sống. Mới mẻ, nơi bản vị của Ngài. Mới mẻ, về người đời và đời người mà Ngài chấp nhận đưa vào với thiên tính. Đức Giêsu là con người thật có đủ mọi tình cảm bẩy thứ, rất bén nhạy.

Là Đức Chúa biến đổi thành người thường rất hiển thị, Ngài có được những thời khắc rất tinh tế về cả thương yêu, lo lắng, hãi sợ cũng như an vui, kinh ngạc, thích thú đến kích ngất. Mỗi lần tình tự của Người Con Chúa xuất hiện, Chúa đều thấy sự đổi đời ở bên trong. Mỗi ngày, Ngài đều khởi đầu một đổi mới/biến hình để trở thành bản vị biểu hiện cả nhân cách lẫn thiên tính, hợp ý Cha.

Thật ra, Đức Giêsu không là thần sứ linh thiêng gồm thiên binh/âm tướng chốn thiên đường. Mà, Ngài sống như một tiên tri cao cả thời Cựu Ước vẫn thể hiện nơi mình Ngài trong nhận thức đích thực về sự sống. Nhận thức ấy, Chính Chúa Cha đã tặng ban cho riêng Ngài. Nhưng, Ngài lại không giống như ngôn sứ/tiên tri có bản vị tựa như thế. Nơi Ngài, là sự thanh sạch ở nội tâm, chẳng mang nơi tâm địa cái gọi là “hội chứng xấu”. Ngài thích nghi trọn vẹn với thực tại loài người. Thực tại ấy, nằm gọn nơi niềm vui của bản vị “người”.

Ở đồng hoang chóp núi hôm ấy, Ngài biết rằng: Ngài hoàn toàn được Cha chấp nhận và trọn vẹn yêu thương như “người” thật cũng rất “người”. Với Chúa Cha, Ngài không là kẻ lạ đến từ hành tinh khác. Và Cha cũng chẳng tỏ ra xa lạ, đối với Ngài. Nói nôm na, thì bảo: đối với Cha, Ngài không là “bạn lâu lắm mới gặp”. Và, Chúa Cha cũng chẳng là “bạn lâu năm xa cách” nay trở lại với Ngài.

Quan hệ giữa Ngài với Cha và giữa Cha với Ngài, không là tương quan khi còn/lúc mất, khi trầm/lúc bổng. Nhưng là sự thật thể hiện nơi nhận thức giữa Ngài và Cha. Đức Giêsu nhận rõ Cha và muốn trở nên như Chúa. Chúa biết rõ Đức Giêsu và muốn trở nên như Ngài. Đây, đích thực là đổi thay/biến hình đang diễn tiến. Và, là diễn tiến hai chiều, rất thuận tiện. Bởi, Đức Giêsu đang mang trong mình đầy Thiên tính như Chúa và Chúa đang trở thành người thực như Đức Giêsu. Gọi đó là biến hình/hiển thị, hoặc nhập thể làm người, đều rất đúng. Điều rất đúng, nay biểu hiện/hiển thị nơi tiếng phát tự đám mây cho đồ đệ nghe thấy, vào buổi ấy:

 

“Ngài là Con Chí Ái Ta, các ngươi hãy nghe lời Ngài.” (Mc 9: 9)

 

Ngay khi ấy, đồ đệ Thày chưa nắm bắt được ý nghĩa của câu nói. Nhưng cuối cùng, sau một thời gian dài theo chân Ngài, đồ đệ Chúa mới nhớ lại và nhận ra được điều ấy có nghĩa gì. Và một lần nữa, Đức Giêsu lại đã nhắc nhở dân con đồ đệ đừng loan truyền thông tin hoặc bàn luận gì về việc ấy cho đến ngày Ngài Phục Sinh, quang vinh. Và cuối cùng, các thánh cũng nhận ra được điều ấy.

Nhận ra điều ấy, cũng phải mất nhiều ngày dài trong Chay tịnh. Có khi còn lâu hơn. Kịp đến khi các ngài tin vào Lời Đức Giêsu và Lời của Cha, các thánh mới cảm nhận được kinh nghiệm quý báu này. Kinh nghiệm, là cảm được một nghiệm sinh quý giá mà chính Đức Giêsu và Cha Ngài đã chấp nhận và yêu thương các thánh cách trọn vẹn. Yêu thương và tận hưởng tư thế đồng hành với các ngài. Khi ấy, các thánh mới hiểu ra và yêu thương Đức Giêsu và Chúa của Ngài theo cách khác nhau, rất riêng biệt. Và các ngài cũng nhận ra được cuộc sống của các ngài sở dĩ đạt kết quả tức là đã biến hình/đổi dạng, rất hiển thị.

Và cuối cùng, các thánh cũng nhận ra rằng các ngài có thể làm như thế cho nhau, và cho mọi người. Mỗi khi các ngài hoàn toàn chấp nhận lẫn nhau, và/hoặc yêu thương bất cứ ai trong cộng đoàn Nước Trời của mình, thì động lực xúc tác lại sẽ bắt đầu hệt như thế. Chính đó là lúc, mối quan hệ giữa các ngài và mọi người cũng biến hình/đổi dạng, giống như Chúa. Và như thế, các ngài đã trở nên người anh, người chị có biến đổi, thành người mới.

Xem thế thì, Chúa nhật Biến Hình hôm nay chỉ là biểu hiện bất chợt thấy trước về Phục sinh quang vinh. Một thứ thư giãn buông lỏng sợ rằng Mùa Chay trở nên quá nặng nề với nhiều người. Đó là sứ điệp. Và, cũng là sứ vụ. Sứ điệp rằng, vì Đức Giêsu, nên dân con mọi người đều phải đổi thay. Sứ vụ là: nếu ta tin tưởng vào Đức Giêsu, ta là người có thể biến hình/đổi dạng thành người khác. Chỉ cần thật tình chấp nhận. Thật sự yêu thương. Và, quyết chí vui hưởng sự hiện diện của nhau, cách thực tình.

Vậy thì, mùa Chay này cũng nên tự hỏi lòng mình xem mình sẽ làm gì cho người khác. Có nên làm cho người khác biến hình/đổi dạng thành người mới không? Và, cũng nên tạo sự đổi mới cho chính mình, như một hiển thị, rất công minh, định hình, trong sáng.

Trong cảm nhận sự cần thiết biến hình/đổi dạng chính mình, cũng nên về với lời thơ mà ngâm lên:       

 

“Mơ khách đường xa, khách đường xa,

Áo em trắng quá nhìn không ra...

Ở đây sương khói mờ            nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

(Hàn Mặc Tử - Đây Thôn Vỹ Dạ)

 

            Áo em nay biến hình/đổi dạng thành mầu trắng đến độ anh nhìn không ra. Bởi, có nhìn vào cuộc đời mà đôi ta sống ở cõi trời đầy sương khói đến độ “mờ nhân ảnh” này, chỉ “tình ai có đậm đà”, mới là người tình nay biến đổi. Có biến và có đổi, suốt hành trình cuộc đời, mới là người thật được Chúa đồng hành, đỡ nâng, chấp nhận. Chấp nhận trong yêu thương, rất giùm giúp.   

 

Lm Kevin O’Shea DCCT biên soạn

Mai Tá lược dịch

 

Monday, 15 February 2021

Suy niệm Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay Năm B 21/02/2021

 

     Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người.
     Sau khi ông Gioan bị nộp, Đức Giêsu đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói: "Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng."
(Mc 1: 12-15)

“Anh trốn sao đêm, lẩn mặt trời,”

“Ghê từng ý gió, sợ hoa rơi.”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

 

Có thể rằng, với anh, là nhà thơ hay nghệ sĩ, thì như thế. Còn sự thực, với Chúa, là Đấng vẫn lẳng lặng vào chốn hoang vu/xa vắng mãi để giáp mặt ác thần/sự dữ, chịu thử thách. Thử thách hoặc khuyến dụ, là tình huống ghi lại ở trình thuật, rõ nhất hôm nay.

Trình thuật, nay thánh sử Máccô chỉ viết có đôi hàng về thử thách thức với khuyến dụ khiến Ngài ở lặng những 40 ngày/đêm. 40 đây, là con số biểu tượng chỉ thời gian cũng rất dài. Dài ngày. Dài tháng. Như cuộc sống của Chúa, vẫn thấy có khuyến dụ kéo dài ngày cho đến lúc Ngài giáp mặt sự thật trên đồi Can-va-riô. Thử thách cùng khuyến dụ, đã đưa Chúa đi vào chốn choá ngợp ở đời thường để rồi dẫn dụ Ngài gia nhập chính Mình Ngài vào ngợp choáng ấy.

Quả là thế! Chúa choáng ngợp với khuyến dụ trở thành Đấng Mêsia, mà mọi người trông đợi. Choáng đến ngợp, khi Ngài buộc phải đặt mình trước cảnh tình quyết đối đầu, hầu có quyết định cho đúng. Choáng và ngợp, trước quyết định hành động sao cho hợp ý Chúa Cha. Choáng rồi ngợp, trước chọn lựa những 3 cách thế để thể hiện vai trò được Cha giao phó. Cách đầu, là quyết tham gia vào chốn quyền bính ngõ hầu có thể kình chống người La Mã, cũng khá khó. Cách thứ hai, là hoà nhập với người đương thời, để rồi sẽ thống trị mọi người ở chốn dân gian, trần thế.       

Chọn cách này, Ngài sẽ có thể giải quyết chuyện đói nghèo do vua quan/lãnh chúa người La Mã từng tạo ra. Thử thách và khuyến dụ như thế, là lòng ham muốn tự giải quyết hết mọi việc ở thế giới, nhất thứ là chuyện kinh-bang-tế-thế, hầu tạo nên cuộc sống rất tốt lành cho mọi người.

Và thử thách cùng khuyến dụ cuối, vẫn cứ như thánh hội, là: nhắm mắt làm ngơ chẳng cần biết sự thể ở đời sẽ ra sao. Ra sao thì ra, vẫn cứ lặng thinh đi vào chốn linh thiêng thần thánh những là ê a kinh kệ để rồi sẽ lại giao hết cho Cha nhờ giải quyết. Đó là 3 thử và thách rất khuyến dụ thấy rõ ở trình thuật được thánh Mátthêu ghi chép.

Thử và thách cùng khuyến dụ dễ thấy nhất là những thử và thách cùng dụ dỗ về quyền bính. Là, cung cách mà người La Mã khi xưa sử dụng để hòng thống trị kẻ dưới trướng. Người La Mã xưa, vẫn muốn tạo khó dễ để bổ lên đầu kẻ dưới trướng. Bổ như thế, sẽ khiến họ lại trông mong có được đấng cứu tinh nào đó khả dĩ đem họ ra khỏi mọi thứ bất ưng, vẫn kéo dài. Có lẽ, giới thống trị La Mã khi ấy đã bất lực trong sử dụng quyền thế cách sai sót, để rồi người người ở dưới vẫn phải ngóng trông đấng bậc nào khác đầy uy lực đến thay thế.

Với thử thách cùng khuyến dụ này, Giêsu Đức Chúa không những chỉ trích cung cách mà vua quan cùng lãnh chúa người La Mã sử dụng quyền bính tối cao để cai trị; Ngài cũng còn đả phá cả quyền uy/thế lực là những thứ mà Ngài chẳng bao giờ muốn tạo lấy cho Ngài. Chúa chọn cuộc sống thấp hèn không mang nặng quyền uy vật chất để Ngài có thể hoà mình với người thấp bé, chẳng khi nào có được quyền uy thế lực cũng rất mực, chốn trần gian.

Thử thách/khuyến dụ thứ hai tỏ cho Chúa, là lòng ham muốn giải quyết tệ trạng đói nghèo của thế gian. Rõ ràng vào thời Chúa sống, trạng huống này từng xảy đến. Hầu như 95% người dân Galilê vẫn sống dưới mức độ những khó cùng nghèo. Tức: họ không đủ cơm ăn áo mặc hằng ngày mà còn thiếu cả đức tính tự tin vào bản lãnh cũng như tư cách của chính họ. Thêm vào đó, là: tình trạng đau yếu, chết yểu vẫn cứ diễn ra khó lòng mà giải quyết.

Những khó khăn này, đều do vua quan lãnh chúa trần gian như Hêrôđê tạo nên bằng vào chương trình xây dựng các đền đài bề thế, khiến dân con ở dưới đã nghèo lại còn gặp nhiều uẩn khúc. Nhằm thực hiện những mưu đồ như thế, vua quan ở đời lại đã phải bổ thêm thuế má đánh trên đầu dân con thiên hạ. Thử và thách cũng như khuyến dụ đây, là tìm cho ra đấng bậc vị vọng nào khả dĩ có thể dấy lên một cuộc cách mạng để chống nạn nhũng lạm quyền thế, cùng uy tín. Chính đó là lý do để người người trông chờ Đấng Thiên Sai mau đến mà cứu vớt họ.

Thử và thách thức cuối, là: gạt sang một bên những chuyện thực tế ở đời để rồi chỉ nghĩ chuyện siêu thăng phụng thờ và tế tự. Rồi tự nghĩ: bằng vào quyền sinh sát mình tự phát, sẽ có thể buộc Chúa phải dính dự vào với suy nghĩ cùng quyết định của riêng mình hầu giải quyết cho dân con của Ngài. Thử thách và khuyến dụ ở đây, hôm nay, còn là sử dụng chốn kinh kệ/phụng thờ mà cầu Chúa ra tay giải quyết hết mọi khó khăn đang diễn ra. Người Do thái thời trước, từng sống với những thử và thách giống như thế.

Thử và thách, là khuyến dụ mình chỉ sống đời thiêng liêng/linh đạo, hơn sống cho ý định của Chúa Cha. Đức Giêsu đã nhận ra chính những thử thách và khuyến dụ như thế, là chúa tể để có thể dám tự mình gạt qua một bên ý định rất thực của Chúa. Thế nên, Ngài mới không chọn đường lối kinh kệ/sùng Đạo như đám Pharisêu từng thêm vào luật tế tự. Trái lại, Ngài đích thực tuân theo ý định của Cha, chứ không phải ý tư riêng của Ngài.

Hội thánh hôm nay cũng đang sống cùng một cảnh tình rất tương tợ. Cảnh tình, có thử và có thách thức cùng những khuyến dụ, hệt như thế. Cảnh tình, là cảnh của đấng bậc chỉ biết sống ở trên cao, những muốn người của Giáo hội phải biết ganh đua với thế trần. Ganh và đua, hầu đoạt lại quyền uy thế lực từng để mất trong chính trường, ngoài xã hội, là nơi chốn mang nhiều ảnh hưởng lên dân chúng. Thông thường thì, người người thấy Hội thánh cứ ganh đua với cơ quan từ thiện ở nhiều nơi. Vẫn muốn người đời nể trọng mình vì mình cũng từng ban phát ân huệ, tài chánh và bổng lộc cho nhiều người.

Thường thấy hơn, rõ ràng hôm nay người người đều thấy thánh hội mình chỉ lo chuyện linh thiêng chốn tháp ngà nhiều mây tầng vần vũ. Lo rồi, còn bắt Chúa đồng thuận mà tuân theo qui định do thánh hội mình đề ra. Hội thánh hôm nay cũng gặp cùng một thử thách cũng như khuyến dụ bằng nhiều cách, giống hệt như Đức Giêsu vào thời trước. Tức, cũng nghĩ rằng Chúa Thánh Thần uỷ thác cho mình làm mọi chuyện theo ý của nhóm hội phe đảng cầm quyền, chứ không là ý định của Cha. Bởi, ý của Cha luôn là ý kiến và quyết định mời thánh hội theo đường khổ ải, trầm lắng chứ không sống đời ồn ào, những là phô trương lực lượng. 

Chúng ta cũng thế. Ngày nay, ta vẫn muốn trở thành dân con đặc biệt được Chúa tuyển chọn. Tức: những người có khả năng chỉnh sửa mọi thứ, cả những thứ mình không có thẩm quyền cùng chức năng,  trọng trách. Nói tóm lại, những nghĩ mình có khả năng giải quyết hết mọi chuyện trong huyện/ngoài đời dù nhiều lúc không được Cha uỷ thác. Dù, nhiều khi chính mình cũng không rành rẽ, bằng người đời.

Nhiều lúc, Hội thánh những muốn lôi kéo Chúa vào với lập trường rất riêng tư của một nhóm người chưa thành thánh, vẫn muốn dân con Đạo mình luôn ở bên trên. Trên mọi cơ chế, hoặc tôn giáo khác. Trên mọi sự. Hơn mọi người. Chính vì lý do này, mà một số người trong Đạo ngoài làng, nay bớt tin vào thánh hội của Chúa, dù vẫn tin vào tình thương của Ngài đối với mọi Đạo. Mọi người.

Nhiều lúc, Hội thánh cũng đối xử với con dân trong Đạo như khách lạ người dưng, cùng lắm chỉ như kẻ đứng ngoài dự khán, không hơn không kém. Thế nên, mới bỏ giờ ra mà thêm thắt cho diện mạo Đạo mình thêm phần hấp dẫn. Chính vì thế, nên người người mới không thấy được ý nghĩa của cuộc sống đích thực, trong Đạo. Không còn mong đợi Hội thánh giúp mình sống xứng hợp với Lời của Chúa. Lời, làm sống dậy như Chúa từng khuyên dạy.

Nhiều vị trong thánh hội của ta, vẫn sống cuộc đời phụng tự, cũng rất thật. Nhưng, quá đặt nặng hình thức rất lễ nghi, chỉ muốn điệu võ dương oai, nên đôi lúc hiểu sai ý nghĩa niềm tin rất thực. Nói tóm lại, dân con Hội thánh nay có lúc đặt quá nặng phần hình thức với diễn trình, cốt để khuyến dụ nhiều người vào Đạo, và theo Đạo. Phải chăng, đó cũng là thử và thách rất khuyến dụ, thời hôm nay.

Nếu quả có thế, cũng nên nguyện cầu cho thánh hội mình có lại cơ hội lướt thắng chính mình, mà hồi hướng trở về với con đường chính mạch do Đức Giêsu vạch ra. Hội thánh nói ở đây vẫn là mỗi người và mọi người trong thánh hội Công giáo rất La Mã, chứ không chỉ là cơ chế mạnh mẽ, rất Vaticăng.

Trong cảm nhận như thế, cũng nên để ra đôi phút mà ngâm lại lời thơ vừa trích dẫn ở trên, rằng:

 

                        “Anh trốn sao đêm, lẩn mặt trời,

                        Ghê từng ý gió,  sợ hoa rơi.

Chao ôi! Mỗi cánh sương run rẩy.

                        Nghe cũng vang âm giọng nói Người.”

                        (Đinh Hùng – Trái Tim Hồng Ngọc)

 

Trái tim có hồng và có ngọc, nay cũng nghe vang giọng nói của Người. Giọng Người khuyên nhủ hãy sống đời thực thụ có niềm tin rất thánh và cũng rất người, ở nơi đây. Chốn này. Khó lòng mà lẩn trốn.

            

Lm Kevin O’Shea DCCT biên soạn

Mai Tá lược dịch

 

Sunday, 7 February 2021

Chuyện phiếm đạo đời đọc trong những ngày có đại dịch Covid 19 06/8/20

 

“Đêm Chớm Ngày Tàn”

“Đêm chớm ngày tàn, theo tiếng xe về, lăn về viễn phố
 “Em hỡi sương rơi, ngoài song đêm hạ, ôi buồn phố xá
  “Hoang liêu về chết tha ma, tiếng chân gõ guốc xa xa
     “Người xa vắng người, người xa vắng người...
             
(Thơ: Cung Trầm Tưởng - Nhạc: Phạm Duy)

 

 

Ôi thôi! là “Nỗi buồn phố xá hoang liêu về chết trong ta” và trong nơi người, cả một đời!

Ối chà, là “tiếng gõ guốc xa ca, người xa vắng người!” Những xa và vắng nhiều thế hệ trong đó có cả tôi và nhiều người. Cũng dễ hiểu.

 

Hôm nay đây, người người vẫn cứ xa và vắng nhau vì mãi sống kiểu “bên ni bên nớ”, lại cảm nhận chuyện “sương rơi ngoài song đêm hạ” hoặc “hoang liêu về chết trong ta”, cả hồn mình lẫn hồn người, trong đời.

 

Hôm nay đây, dịch Côrôna vi-rút cũng đã, đang và sẽ còn giết ta và nhiều người không chỉ mỗi thân xác yếu mềm thôi, mà cả tấm lòng nhân hậu vốn là sở trường của tôi, của bạn của nhiều người trong thánh Hội của Chúa.

 

Chẳng thế mà, tác giả nọ còn gióng lên lời tra hỏi nghe qua đã thấy sợ, vì nó cứ luẩn quẩn trong đầu người đọc, mãi không thôi. Lẩn cẩn chỉ một câu hỏi giản đơn như bậc thày ở xứ người từng viết lên cuốn sách có đầu đề là “Did Jesus exist” (Phải chăng “Đức Giêsu từng hiện hữu?”) Nghe hỏi, người viết thấy như có lời ca mà nghệ sĩ cứ hát mãi, những lời rằng:     

 

“Em có nghe rồn rã bước ai vất vả bóng ai chập chờn?
Hồn ai cô đơn tìm về ấm cúng
Em có nghe bi ai tình ai ấp úng
Thương ai lạc loài, ăn mày xán lạn ngày mai
Đêm ni ai say đất lở, em ơi có nghe rạn vỡ
Vạn mảnh ly tan theo chuỗi cười.
Bên tê thành phố tráng lệ
Giai nhân nằm khoe lõa thể
Bên ni phố vắng ôi lòng ngoại ô.

Em có nghe hồ như bước ai gõ nhịp bước ai giang hồ?
Hẹn ai bên ni dài in ngõ cũ
Em có nghe bên ni lạnh như bên nớ?
Phút giây chia lìa, trong lòng vẫn phải đèo mong
Hai tâm linh giam kín lại
Bấm đốt ngón tay chờ đợi
Chờ ngày con thơ, thơ cũng ra đời
Em ơi ngoài kia liếp ngỏ
Sương rơi ngoài song khép hở
Bên trong kín gió ấm ơi là tình.”

(Thơ: Cung Trầm Tưởng- Nhạc: Phạm Duy – bđd)

 

À thì ra, đây là lời ngỏ cứ lan man, tản mạn trong đầu người đọc hoặc người viết, chí ít là khi tác giả lại cứ thanh minh rằng:

 

“Thực tế mà nói, Đức Giêsu không hề trở-thành nhân-vật lịch sử của thế kỷ 21 chuyên nói thứ ngôn ngữ của người Mỹ, Anh, Đức hoặc bất cứ nước nào khác. Ngài không nhất thiết phải là người Do-thái sống tại Palestine ở thế kỷ đầu đời. Ngài không giống chúng ta, thế nên nếu ta biến Ngài trở nên giống hình ảnh của ta tức là ta đã biến Đức Giêsu hiển hiện trong lịch sử nhân loại thành nhân vật do chính ta tạo ra cho mình vì mục đích nào đó của mình, thôi.

 

Đức Giêsu không nhận ra được con người của Ngài trong các bài giảng của ta hôm nay. Ngài chẳng biết gì về thế giới ta sống. Ngài không theo tư-bản chủ nghĩa, cũng chẳng hề tìm hiểu thứ doanh-thương do ta làm chủ. Ngài không bao giờ hỗ-trợ chủ trương làm giàu hoặc tạo mẫu chính đáng trong cuộc sống của bất cứ ai. Ngài không tin vào hệ-thống giáo-dục tổng-thể, cũng chẳng bao giờ Ngài lắng nghe hoặc để tâm đến cái gọi là nền dân-chủ nào đó của con người . Ngài chẳng bao giờ bận tâm đến chuyện đi nhà thờ nhà thánh ngày Chủ nhật. Ngài chẳng biết gì về hệ-thống an-sinh xã-hội, về tem phiếu, trợ cấp và/hoặc chủ-trương làm giàu cho nước Mỹ, hoặc về con số những người thất nghiệp cùng chính-sách di dân nhập cảnh. Ngài chẳng có bất cứ quan-điểm nào về việc cải-tổ thuế-má, chăm sóc y-tế/sức khỏe của dân thường ở huyện (ngoại trừ sự việc Ngài từng chữa bệnh cho người phong cùi, ghe lở) hoặc chính sách an-sinh xã-hội ở đâu hết.

 

Lâu nay, ta cứ ra điều hiểu rằng Ngài tỏ bày quan-điểm tư riêng về các vấn-đề luân-lý, xã hội từng làm cho con người đâm hư đốn, như chuyện: phá thai, hoặc quyền chọn lựa cách sinh sản khác biệt, hôn-nhân đồng tính hoặc hỗ trợ an-tử, mang bom đi đánh xứ người, vv…

 

Thế giới của Ngài đâu có là thế-gian trong đó chúng ta sinh sống. Điều Ngài bận tâm cũng chẳng bao giờ là điều mà mọi người từng để ý. Và trớ trêu thay, điều Ngài tin tưởng cũng chẳng là niềm tin tưởng của ta bao giờ hết…” (X. Bart D. Ehrman, Did Jesus exist, sđd tr. 334-335)                         

 

Cuối cùng thì, tác giả nói ở trên lại đã tạm thời đúc kết lập trường của ông, mà bảo rằng:

 

“Đức Giêsu là Đấng Siêu Phàm, vẹn toàn. Ngài tin có ác thần sự dữ và các thần ô uế đang sinh-hoạt trong thế giới hiện giờ. Ngài biết rất ít và có khi Ngài cũng chẳng hề biết tí gì về công việc mà Đế quốc La Mã từng làm. Nhưng, những gì Ngài am-tường và coi đó là sự dữ, như những gì do quyền-lực của ác-thần gây ra, trừ phi đó là thứ thần-quyền thời vị lai do Thiên Chúa đốc thúc ngang qua Đấng Thiên Sai do Ngài phái đến lại cũng không là niềm tin tưởng của ta. Ngài chẳng bao giờ đề xướng các quan-điểm chính-trị của ta bao giờ hết, dù ta có mở ra một tầm nhìn nào đó, khá hấp-dẫn…” (X. cùng một tác giả tr. 335-336)

 

Từ các nhận-định nêu trên, tưởng cũng nên đi vào thực tế cuộc đời người mà sống thật, hệt như Đức Kitô cùng các thánh đã và đang sống, cho đến nay. Sống thật và sống thực tế, như truyện kể được trích dẫn ở bên dưới, vẫn cứ bảo: