Cuối những
năm 90 khi có dịp trở về quê nội để xây dựng lại Nhà Thờ Giáo Họ, tôi nhớ lời
cha tôi lúc sinh tiền, ông kể lại những kỷ niệm thuở thanh niên, tham gia hội
Nam Thanh (Hội Thanh Niên Công Giáo) đi khai quật mộ các vị tử đạo quê nhà, ông
cho biết anh em đã bỏ cốt của các vị vào các quách có kèm theo tấm biển đồng
ghi tên tuổi và chôn tại Cung Thánh Nhà Thờ, tất cả 15 bộ quách, ông còn nói rõ
khi khai quật máu lẫn với đất còn đỏ tươi cũng được hốt bỏ vào quách. Quả thật
khi dùng cây để xâm tìm trước khi đào bới chúng tôi đã tìm được 15 bộ quách.
Dân làng tôi rất hãnh diện và tự hào vì trong làng có ba vị đã được
tuyên phong Hiển Thánh vào năm 1988, cả ba vị cùng là ruột thịt một nhà, một vị
là quan án về hưu, một vị là con quan án cũng là cai tổng và một vị là cháu là
cựu cai tổng, vì thế danh được xưng tụng là “Nhất Gia Tam Thánh”. Người xuất
thân từ làng tôi “đỗ đạt” nhiều, đạo cũng như đời, riêng trong Giáo Hội đóng
góp nhiều vị có chức sắc cao. Phòng khách của Nhà Xứ treo hình các Linh Mục xuất
thân từ làng phủ kín hai vòng trên đỉnh tường.
Mẹ tôi khi
còn sống hay kể về hai vị chịu chết vì Đạo trong dòng tộc nhà ngoại, bà kể bằng
một bài vè nhiều lần đến nỗi các cháu có đứa thuộc nhiều câu trong bài vè chuyện
ấy. Cả nội và ngoại tôi đều thuộc về địa giới tỉnh Nam Định cũ, nơi có một viên
quan Tổng Đốc hung bạo khét tiếng trong việc truy bắt đạo với biệt danh “Con
Hùm Xám Nam Định – Trịnh Quang Khanh”, lịch sử để lại rằng ông vướng vào một trọng
tội với triều đình, và để chuộc tội ông đã ra tay bắt bớ và nhiệt thành trong
việc triệt phá Đạo.
Tôi lớn
lên trong bầu khi tự hào về dòng tộc, làng mạc, trong những tiếng nhạc oai hùng
khi tuyên dương các vị Tử Đạo, những buổi rước xách linh đình cờ trống, và những
vị quan viên áo thụng khăn đống đỏ xanh, những bộ kiệu sơn son thiếp vàng, và bầu
khí hân hoan ca hát.
Biến cố
1975 ập đến, cùng với những điều phải suy nghĩ để đổi thay, hình ảnh của các vị
Tử Đạo cũng theo ngọn gió đó thay đổi trong tôi, rồi năm 1988 đến, khi tin tức
về vụ án Tuyên Thánh ở Rôma nổ ra, với hoàn cảnh truyền thông hết sức hạn chế,
thế áp đảo của những buổi học tập tổ chức khắp nơi sâu rộng đến mọi tầng lớp
dân chúng, tờ báo độc quyền nhập nhằng Giáo Hội và Nhà Nước bởi danh xưng Công
Giáo và Dân Tộc ra sức chống phá cuộc Tuyên Thánh, sức mạnh dường như tăng lên
gấp bội khi có những bài báo được chấp bút bởi các vị có tăm tiếng và chức vị
cao trong Hội Thánh.
Trong nội bộ Nhà Dòng, chúng tôi có nhiều dịp
nghe cha già Chân Tín và các vị người lớn chia sẻ quan điểm và lên tiếng bảo vệ
việc tuyên thánh của Rôma. Vị giáo sư uyên bác Nguyễn Ngọc Lan với những lý luận
hùng hồn, cầm nhịp cho những suy nghĩ của chúng tôi về vụ án. Những câu chuyện
đậm chất anh hùng của giáo sư Ngọc Lan như tiếp sức cho sự kiên trì của chúng
tôi, một trong những câu chuyện về ông được kể lại là ông đã bứt phanh ngực áo
trước mấy ông ở Sở CA thành phố với lời tuyên bố dõng dạc: “47 ký này, các ông
cứ bắn đi!” khi ông tranh cãi về vụ án
tuyên thánh. Lại thêm những câu vè ông mỉa mai đầy đắng cay: “Ông Từ ông tử ông
tư, ông chê tử đạo ông từ đạo ai… ?”
Thú thật
đã có nhiều lúc chúng tôi có ý buồn các vị như cha già Chân Tín hay thầy Nguyễn
Ngọc Lan, bởi khi đó CA đã nói với chúng tôi rằng: "Vì ông Lan và ông Tín
nên DCCT sẽ không bao giờ được cho chịu chức Linh Mục”, một lối quy chụp độc
tài và kết luận sai lệch, một người làm mà bắt cả dòng họ chịu, cũng như ngày
nay một số anh em tôi bị dao động khi nghe tuyên truyền rằng: “Do một số anh em
lên tiếng về Công Lý nên các anh sẽ bị khó khăn trong việc mục vụ”. Lối lập luận
đe dọa và khủng bố này đã ảnh hưởng không ít trên những sinh hoạt của chúng
tôi. Cái lối thù vặt, gian dối và hèn trong cách ứng xử gây nhiều tác động tiêu
cực. Nhưng ngày ấy, hành động hy sinh không sợ hãi trước quyền lực thế gian của
các vị đã xốc lại tinh thần cho chúng tôi đi tới.
Qua biến cố 1988 của Hội Thánh tôi bắt đầu cảm nghiệm dần câu Thánh Vịnh
“Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống” (TV 126), cảm nghiệm mới lột bỏ những cảm xúc
cũ từ thuở thiếu thời. Tôi nhận ra ngày ấy chuyện Tử Đạo vô cùng khó khăn và
cay đắng, không đơn giản và vinh quang như ngày nay chúng ta đang khoác lên các
ngài. Các vị đã chấp nhận nỗi cô đơn, sự hất hủi, thậm chí cả những lời nguyền
rủa của người thân, của bà con trong làng mạc. Có lẽ roi đòn, tù tội, đói khát,
… không dằn vặt bằng những lời cay đắng,
sự xa lánh, và những lời phỉ báng, nguyền rủa chua cay từ chính những người
thân, chỉ vì chọn lựa sống vì Đạo, chết vì Đạo, mà gây ra bao nhiêu khổ đau cho
gia đình, làng mạc, họ hàng thân thích bị liên lụy.
Ngày nay kịch
bản cũng được áp dụng như vậy, áp lực từ gia đình, những người liên quan và cả
từ những người thiện chí muốn tìm sự an toàn, ngọn roi đe dọa sẽ quất thẳng vào
mặt những người muốn sống công chính, cái quất từ những người thân đầy đớn đau.
Ngày ấy đi gieo đầy nước mắt, chẳng có lễ đài
nào, chẳng có một pho tượng nào, chẳng có một bài hát nào oai hùng, và cũng chẳng
có một cuộc rước xách nào dành cho người gieo giống!
Thiết
nghĩ, kỷ niệm 30 năm tuyên phong Hiển Thánh là thời điểm chúng ta nhìn ra sự thật
của những chuyển động hôm nay, đừng chỉ chú mục vào lễ hội hoành tráng, hãy suy
nghĩ và làm một điều gì đó góp phần vào công cuộc gieo giống Chúa vừa sai đi
hôm đại lễ Phục Sinh.
Lm. VĨNH SANG, DCCT, 26.5.2018