Chương 3
Đức Giêsu, Lòng Khoan-dung Nhân-hậu
và Chính trị
(bài 15)
Chú
thích:
1. Luca 6: 36. Tôi có viết
ba lời bàn ngăn ngắn chung quanh đoạn Tin Mừng này. Thứ nhất, theo truyền-thống
tiên-khởi, câu này song-hành với Tin Mừng Mátthêu đoạn 5 câu 48 cho thấy: đây
là một phần của văn bản Q. Thứ hai nữa, lời lẽ trong Tin Mừng Luca viết ở đây (tức
“nhân-hậu”) qui về câu của Mátthêu là
(“trọn-hảo”). Việc sử-dụng cụm từ “trọn-hảo” là đặc-trưng ở văn-bản
Mátthêu. Cuối cùng thì, cùng với bản-văn Kinh Thánh New English Bible, Kinh thánh Giêrusalem và Văn-bản kinh-điển, tôi
thích cụm-từ “nhân-hậu” dịch thành “nhân-từ” (như: King James, RSV, và
NRSV). “Đầy lòng nhân-từ” bên tiếng
Anh lại có “ngụ ý” khác với “lòng nhân-hậu”;
thành thử, mãi sau này tôi mới viết về những chuyện như thế bằng thể-loại nhẹ
nhàng hơn, nhất là ở chương này.
2. Tôi có được nhận-thức
và tư-tưởng này, là do từ công việc của Phyllis
Trible viết trong sách mang tên “God
and the Rhetoric of Sexuality (Philadelphia: Fortress, 1978) đặc-biệt ở
chương 2 và 3.
3. Theo thứ tự, thì:
sách 1Vua đoạn 3 câu 26 và sách Sáng Thế đoạn 43 câu 30. Xem Trible ở “God and the Rhetoric of Sexuality” tr. 31-34
4. Giống như 1Vua 3: 26 trong đó vua Salomon buộc phải
quyết định chọn một trong hai yêu cầu của các nữ-phụ bảo rằng: mình là mẹ đẻ của
đứa bé. Khi vua Salomôn đề-nghị chém đứa trẻ làm hai mảnh để giải-quyết
tranh-chấp, thì ta được bảo là mẹ thật của đứa bé thấy xúc động trong bụng dạ của
bà. Cái hay là ở chỗ, dù bên tiếng Do-thái cũng sử dụng cụm-từ “bụng dạ”, như ở văn bản của King James ta thấy có giòng chữ: “lòng ruột bà thấy thương hại cho con
trai mình.”
5. Có văn-bản, lại nói sử-dụng
cụm từ “can trường đàn ông thấy xúc-động: Sáng Thế Ký đoạn
43 câu 30.
6. Sách Xuất Hành đoạn 34 câu 6; Sách
Ký sự quyển 2 đoạn 30 câu 9; Sách tiên-tri Nêhêmia (: 17, 31; Thánh vịnh 103: 8; Joel 2: 13; Gioan 4: 2
7. Như Thánh vịnh 25: 6; 51: 1; 69: 16; 77: 9: 79:
8; 103: 4; 119: 77; 145: 9
8. Sách Gêrêmia 31: 20; Bản dịch là từ Trible God and the Rhetoric of Sexuality tr.
45, 50: đối chiếu STK ở tr. 40-50
9. Đoạn sách chú-dẫn
Luca 6: 36 là ở hai chương này, tôi sử-dụng cụm-từ nói về giới-tính Thiên Chúa là “Cha”, từ-vựng gặp ở bản Hy-Lạp lại cũng viết: “Hãy có lòng nhân-hậu như Cha các người, Đấng
đầy lòng nhân-từ”.
10. Sách Lêvi 19: 2
11. Ở đây, tôi sử-dụng cụm
từ “chính trị” theo nghĩa rộng là để
nói lên (như tiếng Hy Lạp gốc từng đề-nghị) quan-ngại về “thị thành” (tiếng Hy
Lạp là: “polis” có ý nói đến “thành phố”) và rộng hơn nữa, có liên
quan đến dáng vẻ và hình-thái của bất cứ cộng-đoàn nào trong nhân-loại.
12. Sách Lêvi 19: 2. “Đấng thánh thiện”. Định-nghĩa về sự thánh-thiện
đây giống như sự tinh-sạch ở Lêvi 17: 26. Luật-lệ về tinh-sạch ta gặp ở Lêvi
11-16 cũng quan-trọng không kém, bởi nó là luật về sự tinh-sạch trải dài ở các
chương/đoạn của sách Ngũ Thư.
13. Tác giả Jerome Neyrey trong cuốn “The Social World of Luke –Acts (Peabody,
MA: Hendrickson, 1991), tr. 275. Tác-giả đây cho thấy việc trưng-bày khía-cạnh
rõ nét dễ tiếp-cận nhất của hệ-thống tinh-sạch của Do-thái-giáo ở Palestine:
xem tr. 271-304 của sách vừa trích và ở cuốn khác của ông có tên là: Tin Mừng Máccô Semeia 35, nxb John H. Elliott (Decatur, GA: Sholars Press, 1986)
tr. 91-128. Cũng nên xem thêm William
Countryman, Dirt, Greed, and Sex (Philadelphia: Fortress, 1988), đặc biệt
tr. 11-65. Countryman tập-trung
trưng-bày cách trong sáng tương-quan giữa hệ-thống tinh-sạch và đạo-đức/chức-năng
về tình dục.
14. Lại có định-nghĩa vừa
thoáng rộng vừa sít-sao theo cách tạo thành hệ-thống tinh-sạch. Mary Douglas, một nhà nhân-chủng-học
khác có công-tác từng gây ảnh-hưởng lớn trong ngành kinh-điển về Tân Ước, cũng đã
định-nghĩa hệ-thống tinh-sạch một cách thông-thoáng như việc sắp xếp thứ-tự hệ-thống
văn-hoá có trật-tự, gồm các đường lằn và ranh giới tạo thành từ-vựng hệ-thống và văn-hoá tinh-sạch cùng đồng-nghĩa.
Cũng nên xem cùng một tác-giả là cuốn: “Purity
and Danger: An Analysis of Concepts of Pollution and Taboo (London:
Routledge and Kegan Paul, 1966). Nói một cách chặt chẽ hơn, thì: hệ-thống
tinh-sạch có thể hiểu như hệ-thống sắp xếp được sử-dụng thật rõ nét ngoài
ngôn-ngữ của sự tinh-sạch. Ở thế-giới thời Đức Giêsu, hệ-thống tinh-sạch không
theo nghĩa thông thoáng, nhưng khá chặt chẽ.
15. Trích từ tác-phẩm của
Neyrey là: Social World of Luke-Acts, tr. 279.
16. Cung-cách hoạt-động của
hệ-thống tinh-sạch thật ra cũng phức-tạp, nếu mô-tả theo chi-tiết sẽ vượt quá tầm
nhìn của những gì tôi viết ở đây. Tuy nhiên, nên nhớ là một số vi-phạm thuộc luật
tinh-sạch là lề-thói và hệ-quả khá ngắn-ngủi. Thế nên, theo nghĩa nào đó, cũng
không nghiêm-túc cho lắm, như có ý bảo rằng: việc phạm luật như thế, là do từ
đoạn viết về thời-gian và/hoặc đơn-giản chỉ mang tính-cách nghi-tiết, thôi. Tỉ
như: việc phát-tán tinh-trùng khiến nam-nhân ra uế-tạp mãi cho đến hôm sau mới sạch
trở lại. Nhưng, do việc không tuân-giữ luật tinh-sạch, con người đã ra uế-tạp kinh-niên.
17. Tôi nói “có lẽ” là bởi
danh-sách đây có đề-cập đến chuyện kẻ chăn là phạm-trù “đáng ghét” nhất do từ đặc-thù
nghề-nghiệp gặp ở nguồn sách của Do-thái-giáo viết sau thời Đức Giêsu. Muốn biết
thêm danh sách này, hãy tìm đọc Joachim
Jeremias, Jerusalem in the Time of
Jesus (London: SCM, 1969) tr. 304. Để có tầm nhìn quân-bình hơn, nên nhớ: kẻ
chăn vào thế-kỷ thứ nhất bị mọi người ruồng bỏ như thế nào, hãy đọc Richard A. Horseley, The Liberation of Christmas:
The Infancy Narratives in Social Context (New York; Crossroad 1989) tr.
102-6; Tác giả Horseley kết-luận: kẻ
chăn, dù sao cũng là giai-cấp nông dân, nên mới bị đẩy lùi khỏi xã-hội.
18. Tôi vẫn nghĩ: Krister Stendhal, một học-giả Tân Ước từng
là Khoa Trưởng của Divinity School ở Harvard trước khi trở-thành Giám-mục thuộc
Giáo hội Thuỵ Điển đã từng nói, và trong một bài nói chuyện của ông, tôi được
nghe cách nay chừng 25 năm về niềm tin thần học ông có bảo rằng: tín-hữu Đức
Kitô đều là kẻ tội lỗi “Dĩ nhiên, chúng
ta là kẻ tội lỗi rất danh-dự”.
19. Như E.P. Sanders từng biện-luận trong cuốn “Jesus and Judaism” (Philadelphia:
Fortress, 1985) tr. 210, kẻ tội lỗi đây
được coi như những người bị ruồng bỏ, khá đáng kể. Nhưng từ-vựng này, cũng được
nhiều nhóm người khác nhau sử-dụng bên trong Do-thái-giáo để qui về người
Do-thái-giáo khác cũng không là người biết tuân-giữ lề-luật theo chuẩn-mực của
nhóm ấy. Cũng nên xem thêm luận-văn bổ-ích do James D. G. Dunn viết có tựa đề là: “Pharisee, Sinners, and Jesus” trong “The Social World of Formative Christianity and Judaism, nxb Jacob Neusner và nhiều người khác (Philadelphia: Fortress, 1988) tr.
264-89 (đặc biệt tr. 276-80)
20. Cần làm sáng tỏ việc
này: cho đến nay, tôi vẫn biết: không có câu nói nào về sự tinh-sạch lại liên-kết
một cách rõ nét với sự trù-phú tinh-sạch và nghèo-túng với uế-tạp. Thế nhưng, hệ-thống
tinh-sạch còn hơn tổng-hợp gồm các luật về sư tinh-sạch rất rõ nét của văn-hoá.
Các hệ-thống tinh-sạch đều có cái lô-gích và cấu-trúc tạo nên ý-niệm về sự
tinh-anh và uế-tạp để ta có thể liên-kết với các mâu-thuẫn khác, trong xã hội.
21. Hãy đọc Countryman, Dirt, Greed and Sex tr.
28-30; sau khi xem xét các văn-bản từ Sách Ngũ Thư, tác-giả kết-luận: thật cũng
quá, nếu ta bảo: văn-bản đây cho thấy mối lo-âu rộng-rãi về khả năng gây ô-nhiễm
của nữ-giới.
22. Xem bản đồ về sự tinh-sạch
theo tác-giả Neyrey ở: “The Social World of Luke-Acts tr.
278-79, trong đó có 10 vòng tròn qui-tâm vốn dĩ làm giảm-thiểu mức-độ thánh-thiện/tinh-sạch
chiếu ra ngoài từ Đền thờ Giêrusalem. Phần trọng-tâm, là thành-phần thánh-thiện
nhất của Đền Thờ, tức: sự thánh-thiện của mọi thứ thánh-thiện; vòng cung bên
ngoài là lòng đất của Israel, vốn đã “thánh-thiện” rồi (và đây là một trong các
nghĩa của đất lành thánh: đây, mang tính
thánh-thiện nên phải được giữ cho thật thánh-thiện). Ngoài Israel ra, tất cả mọi
nơi/mọi sự đều “uế-tạp”, tức: “ra khỏi bản-đồ tinh-sạch”.
23. Cộng thêm vào thuế thập-phân
trả cho đền thờ và tư-tế, nhà nông Do-thái-giáo cũng là đối-tượng bị giới cầm-quyền
Hêrôđê (ở Galilê) và Rôma (ở Giuđêa) đánh thuế này. Ta thật cũng không biết, nếu
ta trang-trải các thuế này liệu ta có được liên-tục can-dự vào ép buộc nào khả
dĩ đe-doạ lên thể xác không, dù đôi khi cũng có. Người Do-thái-giáo nào không
tuân-giữ luật-lệ (cả những người không đóng loại thuế này) có bị những người
quyết tâm duy-trì hệ-thống tinh-sạch khai-trừ không? Và, sự sắp xếp các sản-phẩm
không chịu thuế thập-phân coi như đồ uế-tạp và vì thế, sẽ không được người luôn
giữ luật mua/bán món hàng của họ, có khi còn kéo theo cả chuyện tẩy chay về kinh-tế
nữa. Thật khó mà biết được, việc tẩy chay này có hiệu-năng đến mức-độ nào.
Nhưng, có thể nói được việc tẩy chay ấy thật đáng kể. Giả như ta cho rằng phần
lớn giới quí-tộc –tức: phần đông là địa chủ- đều quyết tuân-giữ luật tinh-sạch
(bởi có thể họ đều như thế hết, dù gia đình các trưởng-tế đều là những người trọng-yếu
nắm quyền), ta cũng tưởng-tượng được rằng: họ từ-khước mua/bán sản-phẩm từ các
nhà trồng-tỉa, trừ phi thuế thập-phân phải được đóng đủ.
24. Việc truy-tầm các người
Pharisêu lịch-sử cho thấy có khá nhiều khác biệt hệt như khi ta truy-tầm về Đức
Giêsu lịch-sử. Nói chung thì, bức chân-dung tiêu-cực về các vị này ở nhiều cung
vòng Kitô-hữu, và hình-ảnh của các vị này trong ngôn-ngữ bình-dân gọi họ là “bọn
giả-hình” (và tệ hơn nữa) đều hoàn-toàn sai-lạc. Thật sự, họ là những người rất
sùng đạo. Tuy nhiên, các học-giả nói chung, đều bất đồng ý-kiến về các vị này
vào thời Đức Giêsu, nhất là về ảnh-hưởng và tầm hoạt-động của họ, đại loại như
thế. Với tôi, xem ra xét quân-bình, thì sự đánh động mạnh ngang qua tranh-luận
giữa các học-giả, nên đọc Dunn: “Pharisees, Sinners and Jesus”.
25. Nhằm giải quyết sự việc
nói ở đây, cũng nên đọc cuốn sách khá phổ-biến trong dân-gian của Hershel Shanks và nhiều người viết trong
cuốn: “The Dead Sea Scrolls After Forty
Years (Washington, DC: Biblical Archaeology Society, 1991) và một cuốn mang
tính kinh-điển hơn, là: “Understanding
the Dead Sea Scrolls, nxb Hershel Shanks (New York: Random House, 1992). Để
bàn-luận về định-dạng Qumran, The Dead Sea
Scrolls và người Essenê, hãy đọc Norman
Golb, “The Qumran-Essene Hypothesis: A Fiction of Scholarship”, Christian
Century, 9 tháng 12 năm 1992, tr. 1138-43.
26. Hai học-giả nổi tiếng
thời cận-đại đã bất đồng ý-kiến với nhau về việc người Do-thái-giáo tuân-giữ luật
tinh-sạch. Jacob Neusner một học-giả
Do-thái-giáo rất nổi tiếng ở thời này lại nghĩ: “Người Do-thái-giáo bình thường” không tuân-giữ các luật ấy; E.P. Sanders từng viết nhiều về
Do-thái-giáo thời ấy, cũng nghĩ là các người Do-thái-giáo từng như thế. Xem Sanders, Judaism: Practice and Belief, 63
before Christ Era – 66 Christ Era (Philadelphia: Trinity Press
International, 1992), tr. 229.
27. Luca 11: 42 = Matthêu
23: 23 và từ đó xem thêm tài-liệu Q (vì thế nên, đây là truyền-thống khá
tiên-khởi). Đoạn văn này, kết-thúc bằng câu “Các người phải làm các việc này và không được bỏ qua những điều khác”. Kết-luận
đây, có lẽ bảo rằng: Đức Giêsu chấp-thuận cho nộp thuế thập-phân và Ngài đơn-giản
chỉ than-phiền việc chểnh-mảng các chuyện khác hệ-trọng hơn như sự công-chính;
hoặc những câu mà mọi người quan-niệm là đã hiểu theo cách mai mỉa.
28. Luca 11: 44, có những
đoạn song song đứt khúc ở Mátthêu 23: 27.
29. Máccô 7: 15
30. Mátthêu 5: 8. Cũng
nên xem Mátthêu 23: 25-26 = Luca 11: 39-41. Về Mátthêu 5: 8, ta không thể nghĩ
một cách đúng-đắn rằng: Đức Giêsu từng nói câu này. Các lời này, chỉ gặp ở Tin
Mừng Mátthêu và trong một loạt các câu hơi giống thế như “có cấu trúc” hẳn-hòi để
ăn khớp với bối-cảnh văn-chương/ngôn-ngữ (Bài Giảng Trên Núi). Mạch-lạc rõ ràng
được dính-kết với những lời đích-thực của Đức Giêsu mà nhiều người cho biết ý
chính của những gì được bảo về sự tinh-sạch, cho dù Ngài đích-thị không nói những
lời tương-tự.
31. Luca 10: 29-37.
32. Máccô 5: 1-20. Trong
khuôn khổ này, câu truyện kể chứa-đựng nhiều yếu-tố biểu-trưng, thành thử thật
khó mà định-vị xem diễn-trình kéo dài như thế có trải dài các sự-kiện lịch-sử nằm
đằng sau không. Tuy nhiên, vấn-đề là truyện kể theo hình-thức hiện-tại, lại
phát-tán thứ vũ-trụ biểu-trưng của hệ-thống tinh-sạch.
33. Câu này do tự sách
kinh-điển mới rất quan-trọng về Đức Giêsu do tác-giả John Dominic Crossan chủ-trương, đó là cuốn “The Historical Jesus: The Life of a Mediterranean Jewish Peasant (SanFrancisco:
HarperSanFrancisco, 1991). Tác-giả Crossan
thấy được tính “Hội-sinh rộng mở” là một trong hai khía-cạnh rất có ý-nghĩa
truyền-thống về hoạt-động của Đức Giêsu; phần kia là “việc chữa lành miễn phí”
chuyên giúp tiếp-cận quyền-bính thánh-thiêng ngoài thẩm-quyền tôn-giáo đã lập sẵn.
34. Việc dùng cụm-từ “uế-tạp”
ở đây, dĩ nhiên được hiểu theo nghĩa “ô uế” về xác-thể (dù nhiều vị đồng bàn với
Đức Giêsu cũng đang trong tình-trạng rất “uế-tạp”). Đúng hơn, đây mang ý-nghĩa
có sẵn trong hệ-thống tinh-sạch.
35. Và, tình bằng-hữu đồng
bàn với Đức Giêsu không đơn-giản quay về với “bữa tiệc ly”. Ta cũng chẳng hề biết
Đức Giêsu có đích-thực buổi tiệc cuối cùng ấy với đồ-đệ Ngài hay không, tức là:
bữa ăn ấy, các yếu-tố thực-phẩm (gồm bánh và rượu) lại bao gồm ý-nghĩa đặc biệt.
Truyện kể về buổi Tiệc Ly ở Tin Mừng có thể chỉ là sản-phẩm của cộng đoàn
tiên-khởi viết về nghi-thức phôi-thai của truyền-thống ăn uống, hơn là sự gợi
nhớ lịch-sử về buổi tối cuối cùng trong đời Đức Giêsu. Trường hợp này, xem ra
không có gì vượt quá cụm từ “không biết rõ”.
36. Elisabeth Schũssler, In Memory of Her (New York: Crossroad,
1985) tr. 106-10, 115-18.
37. Xem lời bàn ở Walter Wink, Engaging the Powers (Minneapolis:
Fortress, 1992) tr. 129: “Dù chỉ một lần
đối đầu với nữ-giới trong suốt 4 Tin Mừng, Đức Giêsu cũng phạm phải nhiều thứư
hơn, vào thời Ngài”, muốn xem tác-giả Wink coi đoạn này như thế nào hãy đọc
tr. 129-34. Toàn-bộ chương/đoạn về “hệ-thống khuynh-loát” của Do-thái-giáo ở
Palestine hồi thế-kỷ thứ nhất, và việc Đức Giêsu đáp trả thái-độ ấy (tr.
109-37) vẫn liên-tục được đề-cập ở chương này.
38. Luca 7: 36-50; 10:
38-42; Máccô 7: 24-30
39. Các câu trích ở đây,
được sử-dụng nhiều lần trong cuốn “Schũssler
Fiorenza, In Memory of Her.
40. Công vụ Tông đồ 8:
26-40
41. Xem Đệ Nhị Luật 23:
1. Quan thái-giám ghi ở sách Công vụ Tông đồ lại là dân ngoại, tức: ngoài hệ-thống
tinh-sạch Do-thai-giáo. Nhưng luận-điểm ở đây lại vẫn ghi rằng: với tư-cách là
thái-giám, ông ta đã hồi-hướng quay về với Do-thái-giáo.
42. Thư Gala1t 3: 28
43. Điều quan-trọng cần
ghi nhớ, là: theo nhận-định của phần đông các học-giả, thì: ông Phaolô không là
người viết các thư mục-vụ (Thứ thứ nhất và thứ hai gửi Timôthê và thư gửi
Titô). Vốn phản-ảnh thái-độ hoàn-toàn khác hẳn với phụ-nữ, đặc-biệt ở “văn-bản
dùng làm chứng-cứ” cổ-điển do những ngươi chống-đối việc phong chức cho phụ nữ
như ở thư thứ hai Timôthê 2: 8-15. Vào lúc thư mục vụ được viết ra hồi đầu thế
kỷ thứ hai, động-thái qui-ước của các tổ-phụ đối xử với phụ-nữ cũng trở về lại
phong-trào này. Dù tác-giả thư mục-vụ được biết là đã viết vào thế hệ thứ hai
hoặc thứ ba của những người theo chân
Phaolô, nhưng thật ra ta vẫn có thể cho rằng: ông này lại là người đã tìm cách
phá-đổ thuyết triệt-để của Phaolô. Và, khi những người bị lật đều đã khuất rồi,
mọi người lại quay về với qui ước cũ.
44. Thường làm nhiều người
ngạc nhiên không ít khi biết rằng: Cựu Ước ít có nói đến các luật-lệ về đồng
tính luyến ái. Cấm đoán này được ghi ở Lêvi 18: 22 và hình phạt lại được ghi ở
Lêvi 20: 13.
45. Cũng nên đọc Countryman, Dirt, Greed and Sex. Tác-giả
Countryman biện-luận rằng: hiện-tượng
đồng tính luyến ái lại là vấn-để về tinh-sạch ở trong Do-thái-giáo và việc tinh-sạch
nội-tại ghi ở Tấn Ước lại đã phủ-định những gì được luật về tinh-sạch từng đề-cập
đến chuyện đồng tính luyến ái, tôi thấy được tính lô-gích nơi lập-luận này.
46. Qui về Galát 3: 28,
có trích trước đây
47. Cộng thêm vào với
sách của Countryman: Dirt, Gree and Sex,
ta cũng nên đọc “Robin Scroggs, The
New Testament and Homosexuality (Philadelphia: Fortress, 1993). Hai cuốn về
“kinh thánh” đều hiểu rằng: giới-chức có thẩm-quyền ở Kinh Sách lại gần với chủ-trương
triệt-để, nhưng dù sao cũng đưa ra trường-hợp về tính tương-hợp của chuyện đồng
tính luyến ái và Đạo Chúa ở Sylvia
Pennington, Good News for Modern Gays, và cuốn của Letha Scanzoni viết chung với Virginia
Mollenkott, Is the Homosexual My Neighbor?” (SanFrancisco: Harper &
Row, 1980). Trong các bài viết về đề-tài này, có cuốn cũng nên đọc của John J. McNeil “Homosexuality: Challenging
the Church to Grow”, Christian Century, 11-3-1987, tr. 242-46
48. Đặc biệt nên xem Robert Bellah và nhiều người cùng viết Habits of the Heart (Berkeley”
University of California Press, 1985). Đặt nền-tảng trên nghiên-cứu bao-quát về
người Mỹ trung-lưu có biện-luận bảo rằng: yếu-tố thống-lĩnh về đặc-trưng châu Mỹ
là chủ-nghĩa cá-thể gây ảnh-hưởng lên mọi thứ và mọi sự, từ tình yêu cho đến
công việc của hôn-nhân, từ chính-trị và sự công chính cho chí tôn-giáo. Cũng
nên đọc cuốn tiếp theo của Bellah và những người cùng viết trong The Good Society (New York: Alfred A.
Knof, 1991).
49. Xem Bellah và những người cùng viết trong “Habits of the Heart” và “The Good Society.
50. Bằng vào cụm-từ
“is-ness”, tôi muốn diễn-tả khái-niệm hơi khó những thật rõ đó là “is” là thứ
biệt-lập khỏi bản-đồ mà ta từng kiến-tạo đây, là Bản đồ xã-hội vốn dĩ đặt căn-bản trên các khác-biệt do văn-hoá đem
lại. Bản-đồ này trở-thành nguồn-gốc của việc định-dạng, kiến tạo nên sự khác-biệt
về tính xã-hội và cả ranh-giới xã-hội nữa. Nhưng, mọi sự trên bản đồ này, đều
là cấu-trúc nhân-tạo áp-đặt trên ta những gì “is (=là)” và những gì chúng ta
“là=are” bên dưới thế-giới này, chúng
ta dựng xây bằng ngôn-ngữ, đó là “is-ness”
(còn
tiếp)
Gs Marcus J. Borg
biên-soạn
Mai
Tá lược dịch.