Monday, 30 May 2016

Gs Geza Vermes: Chân-dung Đức Giêsu ở truyền-thống rất Nhất Lãm (Bài 41)



Chương 6
Đức Giêsu của Tin Mừng Nhất Lãm,
Đấng Chữa lành,
Bậc Thày Dạy đầy lôi cuốn,
Đấng tạo hưng-phấn rất Khải-huyền.
(Bài 41)



Chân-dung Đức Giêsu
ở truyền-thống rất Nhất Lãm


Bằng tiêu-đề như thế, và qua ba đề-mục ở bên dưới, chúng ta sẽ xem chất-liệu nào liên-quan đến Đức Giêsu ở Tin Mừng Nhất Lãm. Các yếu-tố chân-dung, lâu nay đưa vào ở truyện kể, sẽ được bàn trước. Tiếp đó, ta lại bàn về ảnh-hình trồi vượt, xuất từ nhận-thức về Đức Giêsu do người cùng thời với Ngài bày-tỏ, và phản-ánh qua danh-xưng hoặc tước-vị của Ngài ở Tin Mừng Nhất Lãm. Và ba nữa, sẽ giải-trình giáo-huấn của Ngài để bổ-sung cho ảnh-hình này, hầu giúp ta định ra bản-vị, ý-kiến và lý-tưởng của Ngài. Luôn tiện, ta sẽ bàn thêm đôi chi-tiết thu-thập từ Tin Mừng Thứ Tư, là nguồn văn được dùng đến.

Công việc trước mắt, đòi ta học-hỏi cho chính-xác; bởi, Tin Mừng Nhất Lãm bao-hàm dữ-liệu-thô khá phong-phú ở Tân-Ước, cốt để dựng-xây ảnh-hình về Đức Giêsu lịch-sử. Thế nên, ta không thể bỏ qua mọi cố gắng do mọi người đề ra.


Đức Giêsu ở Truyện kể Nhất Lãm:
Bác Thợ Mộc làng Nadarét


Truyện kể Tin Mừng, về thực-thể, tương-ứng với những gì ta gặp ở trình-thuật Máccô, chuyên cung-cấp ảnh-hình khá lỗ-chỗ theo kiểu hoạ-đồ về cuộc đời Đức Giêsu. Ngài là người chín-chắn, rất trưởng-thành. Tin Mừng Luca đoạn 3 câu 23 có nói: khi ấy Ngài đã ở độ tuổi 30, cả vào lúc ta gặp Ngài trên đường đến với ông Gioan để được tẩy rửa từ ông ta. Ngày nay, các nam-nhân dù ở độ tuổi 30 vẫn được coi là “còn trẻ”, tức: vẫn là “tuổi đầu đời”. Nhưng, vào thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên, cũng có thể: Đức Giêsu từng được coi là Đấng trung-niên/chín-chắn, đã đi dần vào tuổi cao-niên. 

Với thành-viên nhóm “Cảo Bản Biển Chết”, những ai ở độ tuổi này, được coi là quan-chức kỳ-cựu có danh-xưng/chức-vị này/khác, kể cả Quan Giám-Hộ Tổng-Quản, cũng thế. Nên nhớ, chỉ một số rất ít xương/cốt khai-quật ở Qumran thuộc nam-nhân, ở độ tuổi trên 40 tuổi, thôi.     

Thực tế mà nói: trước khi bước vào tuổi ba mươi, hầu hết các nam-nhân Do-thái-giáo, ngoại trừ các vị thuộc phái Essênê còn độc-thân, đều đã thành gia-thất, rất nhiều năm. Theo qui-định từ giới tư-tế, thì các nam-nhân Do-thái-giáo được kỳ-vọng thuộc nhóm “đấng bậc” được phép có mặt ở lều/vòm cưới/hỏi và đã trải qua ít nhất là 18 năm lập gia-đình. Hoặc, theo phong-tục của nhánh/phái Qumran, họ cũng đã có 20 năm hoặc hơn nữa để trở-thành những người đã thành gia-thất.

Từ đó cho thấy, không Tin Mừng nào hàm-ngụ chuyện bảo rằng: Đức Giêsu từng có vợ/con, vào giai-đoạn nào đó, chí ít là khoảng thời-gian Ngài công-khai sinh-hoạt, ở ngoài đời. Theo sử-gia Philô và Flavius Josephus, thì: tính “ghét cay ghét đắng” đàn-bà/con gái như nhóm Essênê ở Biển Chết vẫn mang nặng, thì: đó không là lý-do khiến Đức Giêsu chọn đời độc-thân, đơn-độc.

Thật ra, Đức Giêsu được các tác-giả Tin Mừng mô-tả là Đấng Thánh lúc nào cũng có bầu-bạn phụ nữ và những người ái-mộ quây quần ở bên Ngài, rất đông. Tất cả mọi Tin Mừng đều không bình-luận gì về lề-thói dị-thường này.

Và, ở chương 7 tiếp theo đây, ta sẽ bàn về những quan-hệ đạt đến Đức Giêsu vẫn ẩn-giấu bên dưới Tin Mừng Nhất Lãm.

Một lần nữa, Tin Mừng bản chính cũng kể cho ta thấy rất ít điều lạ-thường về lai-lịch gia-đình, nền học-vấn và nghề chuyên-môn ngoài đời của Đức Giêsu. Ngài sinh-trưởng ở Galilê, nơi thôn-làng nhỏ bé đến độ sử-gia Josephus cùng Mishnah và Talmud đều không hề nhắc tới. Lần đầu, Ngài được nhắc nhớ tên tuổi, là ở bia/tượng là vào các thế-kỷ sau này, mà thôi.

Cha đẻ của Ngài là ông Giuse, và mẹ ruột Ngài là bà Maria, từng được coi là công-dân tốt-lành/hạnh-đạo sinh-sống ở Nadarét, ở nơi đó các ngài đã gầy-dựng gia-đình đông-đúc gồm: bốn người em trai, trong đó người có tên là Giacóp hoặc Giacôbê sau này làm Trưởng Giáo-hội Giêrusalem, tiếp theo là Giuđa được coi là tác-giả bức thư đăng ở Tân Ước, tiếp đến là Giôxét và Simôn, cộng thêm 2 người em gái không nêu rõ  danh-tánh, như được kể ở:

-Tin Mừng Máccô đoạn 6 câu 3, sau đây:

“Thế, Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giôxép, Giuđa và Simôn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?"   

-Và, ở Tin Mừng Mátthêu đoạn 13 câu 5-6, cũng thấy viết:

“Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Maria; anh em của ông không phải là các ông Giacôbê, Giôxép, Simôn và Giuđa sao? Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như thế? "

Chính Tin Mừng này, cũng không có gợi ý nào để bác-bỏ điều gì đại-khái như: các nam-nhân và nữ-phụ kể ở đây, không là anh/chị em ruột thịt của Đức Giêsu, chút nào hết. Không chỗ nào ở Tin Mừng lại nói Đức Maria còn son-sẻ như trinh-nữ, ngoại trừ ở truyện kể về “thời ấu-thơ” của Ngài, là những đoạn được đính-kết vào với truyền-thống Tin Mừng chính, mãi về sau.

Thật ra, chỉ đến khi nhằm mục đích khai-triển niềm tin vào tính-chất đồng-trinh vĩnh-viễn của thân-mẫu Đức Giêsu, các đấng bậc trong Giáo hội mới trỗi dậy tìm cách giải-thích thần-học theo kiểu “vô thưởng vô phạt” về sự hiện-hữu từng gây lúng túng về các người anh/em trai hoặc chị/em gái của Ngài trong bản-văn Tin Mừng.

Một số văn-bản ngụy-tạo mới về Tân-Ước, như cuốn “Lịch-sử về Ông Giuse Thợ Mộc”, là bản-văn còn tồn-tại bằng tiếng Ả-Rập và Cốp-tích Ai-cập có qui về bốn người em trai, hai em gái thuộc hôn-nhân trước kia của ông Giuse.

Theo các thông-dịch-viên Đạo Chúa thời hiện-đại, đã đề-nghị: ta nên nới rộng định-nghĩa về anh/em và chị/em cho rộng hơn. Làm như thế, sẽ bao gộp cả quan-hệ ít mang tính ruột thịt như anh/em hoặc chị/em họ; hoặc con chú/bác ruột; hoặc con dì/con già như tục lệ ta vẫn có.

Thế nhưng, thật cũng khó mà thấy đó là chuyện cần-thiết để định ra rằng: trong bối-cảnh ngôn-ngữ nào khác không là Tân Ước. Trên thực-tế, đã có sự việc, là: chẳng mấy ai bận tâm hỏi cho bằng được ý-nghĩa thông-thường và giản-đơn của chữ nghĩa.

Theo truyền-thống Tin Mừng, thì: gia-đình Đức Giêsu gồm giới thủ-công-nghệ. Gia-phả hoàng-tộc phía bên nội của Ngài, chỉ là cung-cách làm đẹp nền thần-học, thôi. Chúng ta sẽ có dịp bàn thêm chuyện này ở các trang kế-tiếp. Nhưng, thân-phụ Ngài là ông Giuse, một thợ mộc (mà tiếng Hy-Lạp gọi là Tekton) và chính bản-thân Đức Giêsu cũng đã hành-nghề ấy như ta vừa thấy ở trích-đoạn Tin Mừng Mátthêu đoạn 13 câu 55-56, cũng như Tin Mừng Máccô đoạn 6 câu 3, ta vừa kể.       

Với xã-hội Do-thái-giáo vào thời đó, việc phối-hợp chuyện học-hỏi về đạo-giáo vào với công tác lao-động chân tay, hoặc thủ-công-nghệ không hề là chuyện ngoại-thường. Như ông Phêrô và một số các đồng-sự của ông, đều là dân chài lưới, rất bình-dị. Trong khi đó, ông Phaolô lại là thợ dệt vải làm lều/trại và cũng là đấng bậc tư-tế được mọi người biết tiếng, nên đã đặt tên họ cho ông là “Anh Thợ Vụng” , hoặc “Người Thợ Rèn” , hoặc nhiều thứ khác.

Truyền-thống Đạo Chúa vốn kéo dài nhiều thế-kỷ đã trân-trọng ý-nghĩ về Đức Giêsu như thợ thủ-công khiêm-nhu hạ mình từng làm việc với cha đẻ của Ngài. Nhưng, mãi về sau, một số học-giả lại đã sốt-sắng nâng cao tình-trạng xã-hội của Ngài: từ thợ thủ-công-nghệ làm công việc phụ-giúp, linh-tinh được nâng lên thành nhà thầu xây-cất.

Lai-lịch chuyển-đổi này đã là một “khám-phá” nối-kết với các cuộc khai-quật mới đây ở Sepphoris, cho thấy tầm quan trọng của thị-thành Do-thái-giáo xuất tự dân ngoại đây chỉ cách xa làng Nadarét có 4 dặm mà thôi.

Giả như, tổ-hợp lao-động của ông Giuse & Đức Giêsu quyết-chí tìm về doanh-nghiệp, hẳn sẽ có rất nhiều công-việc về góc phần do người Hy-Lạp chủ-trì gần cận thủ-phủ trong vùng Galilê. Ở nơi đó, cùng với các đề-án khác, đã thấy xuất-hiện toà kiến-trúc mở rộng đang được xây-cất. Đầu óc phong-phú của một số nhà nghiên-cứu không ngừng lại ở điểm này.

Mãi về sau, các vị ấy đều thừa-nhận rằng: Đức Giêsu đã từng quan-sát nhiều tuồng kịch trên sân khấu Sepphoris. Bởi, sao lại có thể làm khác hơn để giải-thích được sự việc Ngài từng lặp đi lặp lại cụm từ “hypokritai” (tức: “Giả hình”) mà bên tiếng Hy-Lạp lại được hiểu là “diễn-viên”, cùng một số chuyện khác nữa.                    

Ngay đến giả thuyết bảo rằng: nếu ta thừa-nhận rằng Đức Giêsu đã thốt ra những đoạn văn chứa-đựng các câu nói đang đặt thành vấn-đề và bỏ qua sự-kiện bảo rằng thuyết giả-định là tiếng Hy-Lạp của Đức Giêsu cũng hay đủ để giúp Ngài có thể diễn các vai tuồng sân-khấu. Và, rằng: trái-nghịch lại nét đặc-trưng của Do-thái-giáo, thì Ngài hẳn phải là người hay đi xem các vở diễn trên sân khấu. Và cho dù có giả-định như thế, ta lại vẫn phải giáp mặt với tuyên-bố dõng-dạc của một chuyên-gia hàng đầu về nguyên-ngữ đối lại việc chú-giải các từ-vựng Tin Mừng như “hypokrites/diễn-viên”  “hypokrisis/diễn kịch” theo nghĩa “diễn-viên” “thủ-diễn”.

Cũng nên nhớ, cụm-từ tiếng Hy-Lạp nói ở đây, thường có nghĩa “tự cho mình đúng” và “hành-xử tự cho mình đúng” không thấy xuất-hiện nơi nào trong các Tin Mừng vốn dĩ mô-tả sân-khấu, kịch-nghệ, bi-kịch, thoại-kịch, dân chúng xem kịch, vv. và bảo rằng: trên hết mọi sự, ý-niệm về diễn-viên và diễn-kịch chưa từng có chỗ đứng trong văn-hoá Do-thái-giáo thời cổ-đại, hết.          

Nói cho cùng, cũng nên đề-nghị là ta cứ gắn-bó với truyền-thống và chấp-nhận mà bảo rằng: trước khi đi đến với ông Gioan Tẩy-Giả, Đức Giêsu làng Nadarét là người chưa từng lập gia-đình, vào độ tuổi chừng ba mươi, một thợ thủ-công-nghệ, tức: thợ mộc hoặc xây-dựng nhà cửa.

Mặc dù cá nhà biện-giải của Do-thái-giáo ở thế-kỷ thứ nhất, như: Philô và Josephus từng tán-dương nền kiến-thức đạo-lý ở Do-thái-giáo thời đầu chỉ-thị cho đám trai-trẻ theo Do-thái-giáo do bậc thày và cha mẹ dạy “từ hồi còn vấn tã” (Xem Philô, Legatio, đoạn 115) và cũng đã đưa vào lề-luật dạy-dỗ từ lúc còn “trứng nước” để chúng được “hằn in trong hồn mình” (Xem Josephus, Contra Apionem, 2: 178). Xem thế thì, truyền-thống rất chung ở Tin Mừng vẫn giữ thinh-lặng về trình-độ học-vấn của Đức Giêsu.

Những gì được tác-giả Luca ghi-chép về trường-hợp thiếu-niên Giêsu mới mười hai tuổi đời đã có kiến-thức phi-thường, ta sẽ bàn-luận thêm sau. Tuy nhiên, thực-chất của việc làm thinh lại đã trùng-hợp với lời công-khai tuyên-bố chối-bỏ là đã có cuộc huấn-luyện chính-thức ở Tin Mừng Thứ Tư của ông Gioan, qua các câu gặp được ở:

-Tin Mừng tác-giả Gioan đoạn 7 câu 15, sau đây:

“Người Do-thái lấy làm ngạc nhiên. Họ nói: "Ông này không học hành gì, mà sao lại thông-thạo chữ nghĩa thế!"     

-Và, ở Tin Mừng tác-giả Máccô đoạn 6 câu 2, cũng thấy bảo:

“Đến ngày Sabát, Ngài bắt đầu giảng-dạy trong hội-đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc-nhiên. Họ nói: "Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn-ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?”

-Và, cả ở Tin Mừng tác-giả Mátthêu đoạn 13 câu 54, cũng thấy viết:

“Người về quê, giảng-dạy dân chúng trong hội-đường của họ, khiến họ sửng-sốt và nói: "Bởi đâu ông ta được khôn-ngoan và làm được những phép lạ như thế?”

       
                                                                                                (còn tiếp)



Gs Geza Vermes soạn tác
Mai Tá lược dịch                     
              


                       




Thursday, 26 May 2016

Gs Geza Vermes: Khuôn Trăng Diện Mạo Ngài Thay Đổi: Chương 6: Đức Giêsu của Tin Mừng Nhất Lãm (bài 40)



Chương 6
Đức Giêsu của Tin Mừng Nhất Lãm,
Đấng Chữa lành, Bậc Thày Dạy đầy lôi cuốn,
Đấng tạo hưng-phấn rất Khải-huyền.
(Bài 40)


Không giống các ảnh/hình thần-học về Đức Kitô ở luận-văn cùng sách-vở do ông Gioan Tin Mừng, ông Phaolô và những người vinh-danh Ngài từng viết lên; và cũng không giống kiểu trình-bày đầy xác-phàm mà sách Công-Vụ từng làm, chân-dung Đức Giêsu ở Tin Mừng Nhất Lãm lại đã mang hình-thức một mảng tiểu-sử, đầy tình-tiết.

Phải công-nhận, là: tác-giả Máccô, Mátthêu và Luca vốn dĩ không là sử-gia chuyên-nghiệp nhưng vẫn mải mê truy-tầm tính khách-quan định-đoạt của lịch-sử. Dù sao thì, các ngài cũng chỉ hành-xử như người kể truyện cuộc đời và tư-tưởng cũng như sinh-hoạt, lời giảng dạy và cái chết của Đấng Thánh Hiền từng sống vào nhiều thập-niên truớc đó khi các ngài ngồi xuống ghi lại truyền-thống rất tượng-hình về Đức Chúa và các tình-huống diễn ra xung quanh Ngài.

Cuối cùng thì, qua cung-cách gọn gang/súc-tích, các tác-giả Tin Mừng Nhất Lãm đã tỏ-bày niềm tín-thác của mình vào Đức Giêsu Phục-Sinh quang-vinh. Tuy nhiên, thay vì thừa-nhận các tác-giả này là người kể truyện nhuần-nhuyễn, rất ăn khách, thì phần lớn chuyên-gia Tân-Ước lại coi các vị này như đấng-bậc chuyển-tải thông-điệp đạo-lý đã được cải-dạng thành lịch-sử.

Các chuyên-gia nhà ta vốn chịu nhiều ảnh-hưởng từ lập-trường của học-giả nổi tiếng người Đức là Rudolf Bultmann (1884-1976), tức: một người từng viết rất nhiều sách vào năm 1926, đã có nhận-định sau đây: “Thật ra, ta chẳng biết gì về cuộc đời và bản-vị Đức Giêsu cả. Bởi nguồn văn Kitô-giáo tức Phúc Âm, không quan-tâm nhiều về những thứ ấy.” (Xem Jesus and the Word, tr. 14).

Theo thiển ý, tầm nhìn đây gợi-hứng từ sự miễn-cưỡng của tín-hữu có học-thức chỉ cốt giáp mặt Đức Giêsu cách thực-tế, hơn là nhìn vào bản-chất đích-thực của Tin Mừng. Giả như tác-giả Tin Mừng Nhất Lãm có ý-định viết tường-trình, như học-giả Bultmann và các vị cùng ý-hướng với ông từng nhận-định, sẽ không là cuộc sống, ý-tưởng và niềm khát-vọng của Đức Giêsu, cho bằng quyết-tâm đặt nặng đạo-lý phù-hợp với nhu-cầu thiêng-liêng và lề-lối tổ-chức của Giáo-hội vào thời đầu. Đúng hơn, quí vị này dựa nhiều vào hình-thức văn-chương xứng-hợp với thư-từ, bài viết hoặc lời giảng này khác, ngõ hầu đưa ra mảng tiểu-sử nhiều cải-dạng.



Nguồn văn-chương cổ
có từ buổi trước

Khởi từ giả-thuyết khẳng-định rằng: ta đạt đến Đức Giêsu của lịch-sử con người cũng nhờ có 3 Tin Mừng đầu đời, mà thôi. Vậy, hãy thử để mắt nhìn về nguồn-gốc của bản-văn mình từng có, để xem sao.

Theo truyền-thống, thì ba Tin Mừng đầu đời, lâu nay được gán-ghép cho ba tác-giả: Mátthêu, Máccô và Luca là các vị từng đặt bút viết xuống. Nhưng, khi ai đó ra trước cộng-đoàn niềm-tin mà lên tiếng đọc những lời như: “Đọc Tin Mừng theo thánh Mátthêu, Máccô” hoặc đấng bậc nào đó, thì tên gọi của các vị dù được nêu lên như thế, đã chắc gì các vị đích-thị là người đầu-tiên đặt bút viết, mà chỉ là danh-tánh của ai đó do Giáo-hội thời sau gọi như thế, mà thôi chăng!

Hai văn bản cổ-sử từng được qui cho đấng bậc mang tên Mátthêu và Máccô làm tác-giả, thì hai Tin Mừng này, khởi từ thế-kỷ thứ tư do ông Eusêbiô ở Cêsarê đưa ra, trong cuốn “Lịch-sử Giáo-hội” ở đoạn 3 câu 39, và 16, khi đó ông Eusêbiô có trích lời của ngài Papias, là Giám-mục thành Hiêrapolis vào thế-kỷ thứ 2, sau Công nguyên.

Theo Giám-mục Papias, thì: “Tác-giả Mátthêu từng góp nhặt các “Câu nói” (tức: “Logia”) từ tiếng Do-thái cổ (tức: tiếng Aram) mà thành; và mọi người lại tìm cách thông-dịch các câu ấy như ông này từng làm.”

Thêm vào đó, có người còn hỏi: không biết các “Câu Logia” này có dẫn về Tin Mừng Mátthêu của ta hay không? Tức là: có chứa-đựng nhiều thứ hơn, hay chỉ mỗi “Câu nói” như thế, thôi? Và, lại có thêm vấn-nạn bảo rằng: chẳng biết tác-giả Mátthêu đây, có là tông-đồ của Đức Giêsu? Tức, có nghĩa: vấn-đề then-chốt có đáng để ta hỏi như thế không? Dù sao thì, Giám-mục Papias đã cho thấy ngay từ đầu, là: lâu nay vẫn có nối-kết Tin Mừng đầu đời vào với ai đó cùng mang tên Mátthêu, hoặc chỉ một vài phân-đoạn của Tin Mừng ấy mà thôi, không?

Cũng vị Giám-mục Papias này, từng dẫn-nhập tác-giả Máccô như “thông-dịch-viên phụ-giúp ông Phêrô rất nhiều việc”, tức có nghĩa: ông Máccô là người từng viết xuống nhiều thứ theo cách rất cẩn-thận, nhưng ông lại không giữ thứ-tự trước/sau về tất cả những gì ông nhớ như thể Lời Đức Giêsu từng nói hoặc từng làm.”

Còn ông Máccô đây, có thể cũng là một Gioan-Máccô được tác-giả sách Công-vụ Tông-đồ nhắc đến mấy lần. Ông này, lúc đầu tháp-tùng các tông-đồ một thời-gian, sau đó đã bỏ cuộc và rồi cuối cùng lại cũng tái-tục gia-nhập đội-hình của ông Phaolô, như sách Công-vụ còn ghi chép:

*Ở đoạn 12 câu 25, những lời sau đây:

“Còn ông Banaba và ông Saolô, sau khi đã chu-toàn công việc phục-vụ tại Giêrusalem thì trở về, đem theo ông Gioan, cũng gọi là Máccô.”          

*Và, ở đoạn 13 câu 5 lại thấy nói:

“Đến Salamin, hai ông loan-báo lời Thiên-Chúa trong các hội-đường Do-thái-giáo. Có ông Gioan giúp hai ông.”

Và rồi, câu 13 lại cũng viết như sau:

“Từ Paphô, ông Phaolô và các bạn đồng-hành vượt biển đến Pécghê miền Pamphylia. Nhưng ông Gioan bỏ các ông mà về Giêrusalem.”

*Và cuối cùng, ở thư Philêmôn đoạn 24 cũng thấy ông Phaolô nói:

“Cùng với các cộng-sự-viên của tôi là Máccô, Aristacô, Đêma và Luca.”

*Và, trong thư thứ hai gửi Timôthê, ông Phaolô cũng viết đôi điều ở đoạn 4 câu 11, rằng:

“Chỉ còn một mình anh Luca ở với tôi. Anh hãy đem anh Máccô đi với anh, vì anh ấy rất hữu-ích cho công việc phục-vụ của tôi.”

Ngoài ra, tác-giả ngụy-thư Phêrô, cũng đã ám-chỉ ở bức thứ nhất, đường giây nối-kết ông ta với đấng bậc được gọi “con tôi là Máccô”, như đã ghi ở thư thứ nhất đoạn 5 câu 13 sau đây:

“Hội Thánh ở Babylon, cũng được chọn như anh chị em và Máccô, con tôi, gửi lời chào anh chị em.” 

Giám-mục Papias lại nói rõ rằng: ông Máccô chưa từng biết hoặc cũng chẳng bao giờ theo chân Đức Giêsu, hết. Và như thế, có nghĩa: ông ta không là chứng-nhân thấy tận mắt các sự-kiện xảy ra ở Tin Mừng, mà chỉ là thứ “loa/kèn” phát-ngôn của ông Phêrô, mà thôi.

Tin Mừng thứ Ba, ban đầu được gán cho ông Luca là tác-giả, như ta đã đề-cập ở trang trước, như thế: có thể ông này là một trong các cộng-sự-viên đồng-hành với ông Phaolô, được ghi trong danh-sách liệt-kê ở Tân-Ước với các bài viết vào cuối thế-kỷ thứ 2, như danh-mục chính được Muratoria đưa vào Tân Ước.

Thêm nữa, ông cũng được coi là người đã có nối-kết với tác-giả sách Công-vụ, tức: người có tác-quyền. Nói vắn tắt, ta không thể coi đây là chuyện “cho không/biếu không” để bảo rằng: không phải tác-giả Tin Mừng Nhất Lãm nào, cũng đuợc coi là người từng giao-kết/gần gũi với Đức Giêsu, mà cả ba vị nói đây đều thuộc về thời các tông-đồ, mãi về sau.

Sở dĩ ba Tin Mừng đầu được gọi là Tin Mừng Nhất Lãm, là bởi các ngài phản-ánh cùng một lập-trường và nhất-thiết kể cùng một cốt-truyện. Nói chung thì, ta có thể đặt cả ba vị vào ba cột song song vào Tin Mừng Nhất Lãm. Mối quan-hệ qua/lại từ tác-giả Máccô đến Mátthêu và Luca; và ngược lại, từ Luca đến Mátthêu, điều-gọi-là “vấn-đề của Nhất Lãm”, lâu nay là chủ-đề của nhiều cuộc tranh-luận kéo dài suốt hơn hai thế-kỷ, nhưng vẫn không đi đến kết-quả nào khả-quan được công-luận đồng ý.

Mục-đích của ta, ở đây, không cần phải ghi chi-tiết xem ai thuận/ai chống lại giả-thuyết có được từ thời-buổi đó đến hôm nay. Theo thiển ý, cũng là việc hữu-ích để ta đưa ra một số yếu-tố và nhấn mạnh xem giả-thuyết nào được hỗ-trợ rộng-rãi hơn.

Dù cấu-trúc xây-dựng nội-dung có giống nhau, nhưng ba Tin Mừng này lại khác nhau rất nhiều điều, nếu ta theo-dõi chiều dài truyện kể ở trong đó. Chẳng hạn như: Tin Mừng Máccô là văn-bản ngắn-ngủi nhất chỉ dài có mỗi 18 trang, theo bản dịch tiếng Anh có chỉnh-sửa. Xét độ dài của trang viết, nếu so Tin Mừng Máccô với Tin Mừng Mátthêu dài đến 29 trang và Tin Mừng Luca dài những 31 trang, ta sẽ nhận ra được sự khác-biệt này.

Tính tỷ-lệ, thì Tin Mừng Mátthêu dài hơn Tin Mừng Máccô đến 60% và Tin Mừng Luca dài hơn Tin Mừng Máccô đến 70%. Hầu hết phần chính Tin Mừng Máccô có thể thấy ở cả hai Tin Mừng kia. Và, hầu hết các chi-tiết bổ-sung ở Tin Mừng Mátthêu và Luca đại-khái cũng giống nhau, nhưng lại không theo cùng một thứ-tự. Chi-tiết tương-tự được thêm vào Tin Mừng Luca và Mátthêu mang tính đạo-lý lại chỉ đề-cập đến bản-chất, mà thôi.

Nói cách khác, các đoạn văn đây đều thể-hiện trọn vẹn lời khuyên-răn/dẫn dụ được gán cho Đức Giêsu nêu ra, chỉ thấy rải rác đây đó ở Tin Mừng Máccô, mà thôi.

Các chi-tiết dễ nhận thấy, từng đưa các chuyên-gia Kinh-thánh đi vào thế “thủ” chỉ mỗi phỏng-đoán rằng: Tin Mừng Máccô là văn-bản độc-lập. Trong khi đó, ở Tin Mừng Mátthêu và Luca, thì: ngoại trừ một số yếu-tố tư-riêng/ngoại thường ra, còn thì: hai Tin Mừng này phần lớn lệ-thuộc vào Tin Mừng Máccô, qua đó các chuyên-gia nói trên, đã đan-xen nội-dung cố-truyện hoặc câu nói của Đức Giêsu vào bản gốc, theo cách riêng-tư/khác-biệt của mỗi vị.

Đây, là điều được các chuyên-gia Kinh-thánh gọi là giả-thuyết xuất từ hai nguồn gốc khác nhau: nguồn đầu, là của người đầu tiên viết Tin Mừng mang tên Máccô; còn nguồn kia gọi là nguồn “N” (tức văn-bản “Nguồn”). Tuy thế, do phần lớn các thể-loại văn-chương tiên-phong mở đường, đều viết bằng tiếng Đức, tức: điều mà các ngôn-ngữ khác viết thánh-kinh gọi là văn-bãn “Q”, tức: chữ tắt của tiếng Đức “Quelle”, có nghĩa là: “Nguồn Gốc”.

Thành thử, diễn-giải sự việc theo kiểu phỏng-đoán câu truyện ở Tin Mừng Nhất Lãm rồi bảo: vào lúc tác-giả Mátthêu và Luca ngồi xuống viết Tin Mừng, các ngài đã đặt trước mặt hai văn-bản có sẵn: đó là: văn-bản Máccô, còn bản kia là văn-bản “Quelle” tức bản văn theo “Nguồn”. Và khi ấy, các tác-giả đây mới bàn-luận và viết thêm đôi điều theo cách riêng-tây của mỗi vị, dựa vào ấn-bản Máccô rồi diễn-giải ở đây đó cho có ý-nghĩa của bản gốc, rất “Quelle” và cộng thêm truyền-thống đặc-biệt, được rót thêm vào trong đó.

Cả khi ta nhắm mắt làm ngơ, không màng gì đến ý-niệm có từ một học-giả thuộc thế-kỷ thứ 19 từng soạn-tác nên công-trình tham-khảo của riêng mình, qua các sách mà giả-thuyết này đem lại, tức: đặc-điểm của bản “Quelle” cũng chỉ theo giả-thuyết này mà thôi.

Dù, tất cả mọi cố gắng luận-bàn của thế-hệ học-giả tiếp-nối và mới mẻ nhất của nhóm “Chuyên-đề Về Quelle” ở Hoa Kỳ, thực-tế còn đó vẫn cho thấy: ở nguồn-văn “Quelle” chẳng có đoạn nào được chứng-thực theo hình-thức độc-lập viết trên giấy. Không có thảo-bản “Quelle”, cũng chẳng có mảnh vụn cảo-chỉ nào có tên là “Quelle”, không có lời trích-dẫn nào từ nguồn “Quelle” rút từ sách của các tổ-phụ Giáo-hội, hết.

Ta có được những lời gần-gũi như thế, là do gợi ý rất mơ-hồ của Giám mục Pappias về “Câu nói/Logia” bằng tiếng Aram của Đức Giêsu được tác-giả Mátthêu góp nhặt lại; và từ các câu nói ghi chép bằng tiếng Cốp-tích Ai-cập thu-thập ở Tin Mừng Tôma, mà bản tiếng Hy-Lạp có đề ngày tháng xuất từ hậu bán thế kỷ thứ 2, sau Công nguyên, thôi.

Tuy thế, chẳng có gì để ghi chép các câu truyện kể từ văn-bản “Quelle” này hết. Còn nữa, theo thiển ý, phần lớn Tin Mừng tác-giả Tô-Ma rõ ràng trở-thành thứ-yếu nếu đem so với Tân-Ước viết bằng tiếng Hy-Lạp. Nói theo cách gắt gao, thì: sự tương-hợp giữa tác-giả Mátthêu và Luca có thể là do một trong hai ông đã ghi như thế theo thể-thức người này sử-dụng và tái hiệu-đính bản viết của người kia; và rồi hoàn-tất bản tái duyệt/xét bằng sự/việc thêm vào đó một số truyền-thống ứng-khẩu chuyển-tải về cộng-đoàn tư-riêng của mỗi vị.

Theo chủ-trương kiếm tìm diện-mạo của Đức Giêsu gặp ở Tin Mừng, thì giải-pháp chính-xác có từ các câu hỏi hoặc câu đố, lại có tầm quan-trọng rất ít. Thế nên, thay vì mất thì-giờ vào việc ấy, tôi đề-nghị ta sẽ bắt đầu từ giả-định rằng: việc các học-giả định ngày tháng nói chung cho Tin Mừng Nhất Lãm là chấp-nhận được. Ông Máccô sẽ được coi là người viết Tin Mừng bản gốc một cách ngắn gọn vào sau thời Giêrusalem bị tàn-phá vào năm 70 sau Công nguyên.

Còn ông Mátthêu và Luca đã theo sau ông Máccô cách nào đó, đại để vào khoảng thời-gian từ năm 80 đến năm 100, mà thôi. Truyền-thống Giáo-hội tin rằng, dù không có bằng-chứng nào xác-đáng và kiên-cố về chuyện đó, là: ông Máccô đã viết Tin Mừng tại Rôma. Còn chuyện ông Mátthêu đã thu-thập chi-tiết từ Palestine hoặc Syria và ông Luca từ phiá bên ngoài Palestine, chỉ là công việc phỏng-đoán, thôi.

Việc nới rộng khung thời-gian theo cách tiệm-tiến, từ: lúc Tin Mừng được viết mới đáng để ta quan-tâm hơn cả. Nói thế có nghĩa bảo rằng: Tin Mừng Máccô là văn-bản cô-đọng nhất. Tác-giả này đã khởi-đầu công-trình viết lách bằng truyện kể về ông Gioan Tẩy Giả  xuất-hiện trước công-chúng. Và, nếu ta loại bỏ phần kết-cuộc dài-dòng hơn, tức là: kể từ đoạn 16 câu 9 đến câu 20, là phần không thấy xuất-hiện ở các bản viết tay cổ,xưa nhất, thì sẽ thấy: tác-giả Máccô đã kết-thúc công-trình của mình, bằng cách đưa ra hình-ảnh gây lúng túng nhiều về chuyện ba nữ-phụ tỏ ra hốt-hoảng khi thấy mộ Chúa trống-trơn, không còn xác.

Tác-giả Mátthêu lại đã thêm “Lời Nói Đầu” vào bản của ông Máccô bằng đoạn kể về gia-phả và truyện Hài-nhi Giêsu sinh-hạ cũng như thời ấu-thơ của Ngài, rồi bổ-sung câu truyện ấy bằng việc Đức Giêsu trổi-dậy và xuất-hiện với các môn-đồ khác nhau của Ngài. Tác-giả Tin Mừng Luca lại trải rộng truyện kể cho dài hơn nữa, về cả hai phía. Truyện kể việc Đức Giêsu sinh-hạ được ông Luca đặt trước truyện kể về ông Gioan Tây Giả; và phần nói về thời thơ-ấu của Đức Chúa được tiếp-nối bằng giai-thoại kể Đức Giêsu hồi còn trẻ mới 12 tuổi đã thông-minh, dĩnh-ngộ.

Ở mép cuối phần bên kia, ta lại gặp thấy một bản phác-hoạ gồm nhiều chi-tiết hơn bản của ông Mátthêu nói về việc “sống lại” và về việc Đức Kitô xuất-hiện được lập đi lập lại nhiều lần, và đăng-quang bằng một tuyên-ngôn có liên-quan đến việc Ngài thăng-hoá về trời.

Nói tóm lại, sau khi đã chọn cốt-lõi tập-trung Tin Mừng của Máccô, Máthêu và Luca và đính kèm vào đó phần mở đầu thần-học một cách sâu-sắc và phần kết hệt như thế, sẽ cho ra một quan-điểm lạ-kỳ cho toàn cốt-truyện.         

                                                                                                                        (còn tiếp)

Gs Geza Vermes soạn tác
Mai Tá lược dịch