PHẦN THỨ HAI của KINH LẠY
CHA : Ba (hay bốn) lời xin
Các lời xin nầy có tính cách cánh chung,
chung luận hướng về việc Thiên Chúa thực hiện cùng tận trong ý định của Người,
chứ không phải là việc nầy việc nọ, được làm liên miên theo thời gian. Ba lời
xin ấy cắm rễ trong hiện tại đời nầy, tức là sinh hoạt, hay sinh mện bấp bênh
của môn đồ trên trần gian.
Những ước nguyện Nước Chúa trị đến (Phần I
Kinh Lạy Cha) không loại bỏ đi lời xin, nhưng càng thúc dục hơn nữa lời xin, đó
là đứng trước những khốn cùng của hiện sinh của con người sống trong ngóng đợi
Nước Thiên Chúa đến. Trong Thánh vịnh 89 (90) có nói : Ngài trải ra ngày đời
chúng tôi, thì trong phần II Kinh Lạy Cha, Chúa Yesu cũng dạy chúng ta hãy trải
ra trước mặt Chúa sinh mạng bấp bênh của chúng ta. Vì thế, có ba tiếng kêu cứu
ngày càng khẩn thiết hơn, mà sự khẩn thiết cuối cùng như chop đỉnh của
crescendo, cái nguy kịch cuối cùng từ miếng bánh (lời xin 1) cho đến sự cám dỗ,
sự thử thách cuối cùng (lời xin 3). Vậy là có một sự tiệm tiến lên tới cực độ
của sự thúc bách khẩn cấp trong việc kêu cứu của mình.
Lời
xin 1 : XIN CHO CHÚNG TÔI CÓ BÁNH
NGÀY NẦY – Mt 6:11.
1. Đối tượng của lời xin nầy là Bánh.
Bánh đó chỉ cái gì ? Thực sự, Lc 14:15 cho
chúng ta ý nghĩa của bánh ấy :
Một
người ngồi đồng bàn nói với Ngài :
Phúc
cho kẻ được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa.
Được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa, thực sự
là được bẻ bánh trong Nước Thiên Chúa, nhưng người đồng bàn ấy nghĩ đến tiệc
trong Nước Thiên Chúa : Phúc cho kẻ được ăn bánh (tức là dự tiệc) trong Nước
Thiên Chúa. Vậy, ăn bánh của người Palestine cũng như người Việt Nam ăn cơm,
nghĩa là của ăn nói chung.
Theo chính bản văn Hy lạp, bánh ấy là bánh
của chúng tôi (panem nostrum), bánh chia phần cho chúng tôi, bánh mà chúng tôi
phải có mới sống được. Khẩu phần mà chúng tôi phải có hằng ngày. Bánh mà Kinh
Thánh nói là phải đổ mồ hôi trán mới có mà ăn. Bởi thế, không thể giải thích
bánh của chúng tôi một cách tượng trưng quá sớm. Vậy, bánh đó là một bánh nói
đến sự cần thiết cho sinh nhai, sinh sống thật.
Trong lời xin thứ nhất nầy, có tiếng Bánh
ngày nầy, là
tiếng vô phương dịch cho chính xác. Bản thông dụng của chúng
ta dịch hơi rộng là Bánh mỗi ngày (pain quotidien). Hoặc theo bản dịch Tin
Mừng của tín hữu Hipri, một ngụy thư, là Bánh ngày mai, ngày đang
đi đến. Bản dịch Syriac thì dịch là Bánh cần thiết. Có người
khác dịch là bánh của mai ngày. Mỗi bản dịch đều khác nhau. Vì thế, người ta
còn đang tranh luận về ý của Chúa Yêsu khi nói đến cái bánh nầy.
Điều lạ là Mattheu và Luca đều dùng tiếng Bánh ngày nầy ấy. Theo văn mạch, bánh
nầy là của ăn cần thiết như hầu hết các lời của Chúa Yêsu nói trong các ví dụ
về việc xin bánh. Như Mt 7:9-10 nói đến hai thứ cần thiết là Bánh và Cá mà mỗi
ngày đứa con xin với Cha mình :
Trong
các ngươi ai có con xin bánh, há lại lấy đá mà cho nó ư ?
Hay
là nó xin cá, há lại cho nó rắn ư ?
Đó là hai của ăn cốt thiết của dân
Palestine, dân Galilée. Hay như Lc 11:5 nói về một người bạn đi xin bánh nữa
đêm : Nầy bạn, cho tôi vay ba chiếc bánh. Người bạn ấy đã xin Bánh là
thứ tối cần thiết để đãi bạn mình. Nếu không có bánh, thì người bạn ngang qua
đường kia sẽ chết đói vì kiệt sức. Vậy ở đây chỉ nói tới cái tối cần mà thôi,
chứ không phải cái dư thừa. Lc 12: 22-31 cũng nói về cái tối cần trên đời , và
của ăn ấy sẽ xin hằng ngày, xin ngày hôm nay : Xin cho chúng tôi hôm nay có bánh
ngày nầy. Lời xin chỉ nhắm đến sự cần thiết ngày hôm nay, chứ không
phải xin sự bảo đảm cho cả đời.
Vậy, đứng trước cái cùng tận của Thiên Chúa
như ập xuống trên mình, tức là Nước Thiên Chúa, thì lời xin ấy dạy phải sống trong
lúc bấy giờ thế nào, không còn lo quá ngày hôm nay.
2. Ai xin bánh ấy ? Người đọc lên lời xin ấy
là ai ?
Môn đồ đã xin Chúa Yêsu dạy lời xin nầy.
Ngài dạy cho những nhóm môn đồ xung quanh Ngài, sống với Ngài. Điều nầy cho
chúng ta tình cảnh hiện sinh của đời Tông đồ đương thời của Chúa Yêsu, hé rạng
cho chúng ta thấy cuộc sống phiêu lưu mà Chúa Yêsu đã kéo môn đồ của Ngài vào.
Lời xin nầy là lời xin thành thực, và Chúa
Yêsu cho chúng ta những lời xin, không phải là những lời đưa đẩy ngoài môi
miệng, nhưng là những lời xin đem về sự hiện sinh của mình, về những thúc bách
hiện tại của mình. Vậy những kẻ xin ở đây phải là những kẻ ăn mày, mới nói
thành thực như thế được. Họ là những kẻ đến nỗi thiếu cả cái cần thiết trong
hiện tại nên không còn nghĩ được đến ngày mai, như chúng ta nói : Có ngày nào, xào ngày ấy, chứ không có
gì để đến ngày mai.
Vậy, lời xin nầy không phải dành cho những
kẻ nghèo thông thường, vì họ vẫn có ngày mai, nhưng cho người mà cái tối cần
ngày hôm nay cũng không có. Có lẽ Chúa Yêsu đã nghĩ đến những người ăn mày như
Lazarô, như bà góa (Mc 12: 41-44), để thấy rằng Ngài nêu những trường hợp ấy ra
để nói lên tinh thần trông cậy đến cùng tận thế nào, trông cậy đến nổi cái tối
thiểu trong ngày cũng đành lòng bố thí đi :
(41) Ngồi đối diện với hòm tiền, Ngài xem
dân chúng bỏ tiền vào hòm tiền thế nào. Lắm người giàu có bỏ nhiều.(42) Bà góa
nghèo khó nọ cũng đến và bỏ vào hai trinh, tức là một xu.(43) Ngài gọi môn đồ
của Ngài lại mà nói với họ : Quả thật ! Ta bảo các ngươi, bà góa nghèo khó ấy
đã bỏ vào nhiều hơn những người bỏ vào hòm tiền hết thảy.(44) Vì mọi người đều
lấy của dư bỏ vào, còn bà ấy lấy túng thiếu mà bỏ vào mọi sự mình có, tất cả
của độ thân.
Bà góa nghèo khó đã bỏ ra hết, đã dám bỏ
hết mọi sự bà có, đến nỗi sau đó phải đi ăn mày mà ăn, bằng không sẽ phải nhịn
đói. Chúa Yêsu có trước mắt những điều đó, nên vì thế mà Ngài mới kêu môn đồ mà
nói với họ như thế (43), để môn đồ của Ngài cũng thông chia thân phận như bà
góa nầy. Vậy, nơi những người nghèo khó thật sự ấy, lời xin thứ nhất nầy mới có
hẳn ý nghĩa của nó, chứ không phải là một sự đưa đẩy trong lời mình nói. Chỗ
nầy chúng ta mới thấy thân phận môn đồ mà Chúa Yêsu kêu vào là một sự phiêu lưu
thật sự, như Ngài nói với họ (Mt 8:20):
Chồn
có hang, chim trời có tổ, chứ Con Người không có chỗ ngã đầu.
Chúa Yêsu không có chỗ nào định sở để bảo
đảm ngày mai cho môn đồ của Ngài. Khi người thanh niên giàu có đến xin được sự
sống đời đời, Chúa Yêsu không nói : Ngươi hãy về đem hết gia sản nộp vào nhóm
môn đồ của tôi, nhưng Ngài nói : Đi đi ! có gì thì hãy đem bán mà cho kẻ khó,
và ngươi sẽ có một kho tàng trên trời, đoạn hãy đến theo Ta (Mc10:21).
Chúa Yêsu mời người thanh niên giàu có đó vào nhóm khố rách áo ôm của Ngài,
không có cái gì cả.
Chúa Yêsu dạy môn đồ Ngài lời cầu xin nầy,
tức là ngày nào họ cũng thế, không có gì bảo đảm ngày mai của họ cả. Ngài còn
dạy họ bỏ mọi sự lo lắng trong sự ký thác toàn diện (Mt 6: 25-34). Điều Chúa Yêsu
dạy các môn đồ khi họ ra đi làm sứ vụ Tông đồ của họ :
Đừng chuốc lấy vàng lấy bạc, hay tiền đồng
hòng vặn thắt lưng, không bị đi đàng, đừng có hai áo, giày dép hay gậy gộc, vì
thợ thì đáng của nuôi thân. (Mt 10: 9-10).
Ngài đã phóng môn đồ của Ngài vào một cuộc
phiêu lưu vĩ đại, và vào cuối cuộc đời, Ngài cho thấy kết quả của cuộc phiêu
lưu ấy khi hỏi họ : Khi Ta sai các ngươi đi : Không ví tiền, bao bị, giày dép, các ngươi có
thiếu gì không ? Họ thưa : Không (Lc 22:35). Các
môn đồ không thiếu thốn gì cả, tức là họ đã hưởng được sự quan phòng của Thiên
Chúa Cha trên Con của Người thế nào, thì các môn đồ cũng được hưởng sự quan
phòng ấy như vậy. Nhưng Ngài không thử thách lòng tin của họ, vì thế Ngài mới
bảo họ : Nhưng bây giờ, ai có ví tiền thì hãy cầm đi, và bao bị cũng vậy
(Lc 22:36).
Bây giờ tình cảnh cũng khác, là ngay điều
đó chỉ có Ngài ban và sống lý tưởng đó nên họ mới làm được. Còn sau khi đã
khuất đi, Ngài không muốn thử thách họ nữa, vì như thế, tất cả họ sẽ ngã lòng
hết. Nên điều Ngài đòi hỏi, sau khi Ngài khuất, là để cho kẻ nào được Thiên
Chúa kêu gọi vào con đường đó, kẻ đó sẽ làm được. Vì thế, chúng ta thấy con
đường của thánh Phanxicô khó nghèo có ít người đi vào được, và ơn kêu gọi của
Ngài ít người có được, vì Ngài đã từ bỏ đến cùng tận.
Lời xin thứ nhất nầy cho phép chúng ta đo
được việc Chúa Yêsu đã thử các môn đồ của Ngài thế nào và lời xin ấy nói lên
cái hiện tại kinh khủng cho nhóm môn đồ ấy, là không bao giờ môn đồ có ngày
mai. Vì thế, Ngài mới dạy họ : Cái bánh ngày mai phải xin, hãy trao cho
Cha.
Vậy, họ là nhóm ăn mày, phó mặc cho Cha
quan phòng. Vậy lời xin ấy trở nên yếu tố cần thiết cho sinh hoạt đỏng đảnh của
họ. Không bao giờ chắc chắn chi cả, mà đối với Ngài, đó là yêu sách đòi môn đồ
không làm thế, không theo Chúa được. Khi nghe Chúa Yêsu dạy phải bỏ tất cả, bỏ
nhà cửa, anh em, chi em, cha mẹ, con cái ruộng nương (Mt 19:29) để đi
theo Ngài, chúng ta thường cho đó là lời nói quá, lời nói ngoa. Chúng ta biết
rằng, ngoài nhóm mười hai ra, Chúa Yêsu còn có những nhóm người khác tin vào
Ngài. Mặc dù họ vẫn có nhà cửa, nhưng không phải vì thế mà họ không hưởng tình
thương của Ngài. Đó là những người môn đồ như Martha và Maria (Lc 10:38), nhóm
bà góa, nhóm phụ nữ (Lc 8:1), trong số đó có bà Yoanna, vợ của Khuza, một viên
quản lý của Hérode. Họ là những môn đồ khá giả đã lấy của cải mình mà trợ giúp Ngài (Lc 8:3). Nhưng, Ngài nay đây
mai đó, không có chỗ nào chắc chắn.
Vậy, chúng ta thấy lời xin nầy di liền với sứ vụ tông đồ
của nhóm Chúa Yêsu, nên kích thước của lời xin nầy không phải chỉ của chất, là
khẩu phần (ration) hằng ngày phải có. Nhưng là, nếu Thiên Chúa Cha nhậm lời xin, tức là
làm trọn lời hứa của Chúa Yêsu và y chuẩn sự táo bạo và kiểu sinh hoạt cánh
chung của nhóm môn đồ, tức là họ xin bánh hằng ngày, nhưng thực sự họ xin cái
đó, là xin Cha cho họ được tiếp tục sinh hoạt ấy và một trật được tiếp tục công
việc công bố Nước Trời.
Vây, lời xin nầy không hoàn toàn tràn tục,
khiến người ta phải nghĩ đến ý nghĩa thiêng liêng của nó. Như vậy, trong hoàn
cảnh nầy, chúng ta mới thấy được tại sao lời xin bánh nầy lại đi liền sau lời
xin cho Nước Cha trị đến (Theo Luca). Vậy, Bánh nầy là một dấu chỉ sinh hoạt đã
dốc cả cho Nước Thiên Chúa và thực ra không phải là xin của vật chất, nhưng xin
sự bảo đảm trần gian cho sinh hoạt cộng đồng của Chúa Yêsu.
Khi được Chúa Yêsu sai đi từng hai người một (Mt 6:7tt), nhóm
mười hai biết rằng mình không bánh, không tiền, và vào nhà người ta, không biết
người ta có đón nhận mình không, hay mình phải ra đi đói bụng, nên họ phải xin.
Họ xin cho ngày ấy có người đón nhận họ. Họ để mặc ý Thiên Chúa. Lúc bấy giờ
mới thấy lời xin đó thiết thực cho đời sống đó thế nào.
Xin
cho chúng tôi hôm nay có bánh ngày nầy.
Chữ chúng tôi ở đây có nghĩa đặc biệt, là
những kẻ sống chung với chúa Yêsu. Lời xin, cho dù của mỗi người đi nữa, cũng luôn
luôn là của tập thể, không cầu nguyện cho mình. Cái túng quẫn mà họ nghĩ đến,
là cái túng quẫn của cộng đoàn. Chúng ta phải đặt tình trạng rõ rệt cụ thể đó,
để hiểu lời xin nầy, chứ đừng vội đem về ý nghĩa thiêng liêng siêu vời như
chúng ta đọc hằng ngày. Người triệu
phú cũng đọc : Xin cho chúng tôi hôm nay có bánh ngày nầy, thì thật là phi lý.
Vậy muốn hiểu lời xin ấy, chúng ta phải đặt
mình vào tình thế hiện thực của nhóm môn đồ của Chúa Yêsu. Nếu chữ chúng tôi
trong lời xin ấy là chính các môn đồ chung quanh Chúa Yêsu, chóp đỉnh lời xin
ấy là lời xin của nhóm mười hai về tình cảnh hiện thực của họ. Nhưng lời xin
ấy, trong hình thức hiện tại của Mattheu và Luca, là lời xin của cộng đoàn.
Những kẻ tin sau nầy chứ không phải chính trong đời Chúa Yêsu nữa.
Vậy đó là lời của các môn đồ Chúa Yêsu dạy lại cho những kẻ nghe Tin Mừng của
Nước Thiên Chúa sau nầy. Nhóm môn đồ của Chúa Yêsu là khuôn mẫu nghèo khó, còn
các kẻ nghe họ thì cúng phải và có thể xin trong túng thiếu như vậy, dẫu sinh
hoạt của họ không dốc cả cho Nước Trời, vì họ không theo Chúa Yêsu theo nghĩa
chính nữa, nhưng họ có sự thông chia xẻ nào đó thật. Vì thế mà Mattheu đã viết
lại lời xin nầy cho họ trong câu : Hãy tìm kiếm Nước trước đã (Mt
6:33). Trước đã là không phải tất
cả, nghĩa là có một sự quan tâm khác mà môn đồ Chúa Yêsu cắt nghĩa, có thể châm
chước được,tùy theo cảnh yếu hèn của người ta. Chữ Trước đã đó là một sự giảm thiểu, nhưng chữ ấy dạy phải có sự trang nghiêm
trong việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa, đặt tiên quyết trong đời của mình.
Trong lịch trình tiệm tiến của người theo Chúa, theo đạo lý của Ngài, người đó
có thể phải trang nghiêm cho đến nổi phải chuyên nhất nữa. Từ sự bắt buộc phải
bỏ cái nầy cái nọ, cho đến sự từ bỏ địa vị, rồi đến từ bỏ nguồn lợi tức, và đến
cùng, đành lòng sống bấp bênh, không có gì bảo đảm ở trần gian. Đó là cả một
lịch trình trong sự nghèo khó. Đó là ơn kêu gọi, Chúa sẽ dẫn từng người, từng
nhóm vào sự nghèo khó.
Phải ở trong lịch trình tiệm tiến trong sự từ bỏ đó, người
ta mới có thể nói lời xin nầy một cách trang nghiêm được. Không thì chỉ là lời
nói ngoa, láo khoét ! Vậy, đó là lịch trình đi từ sự từ bỏ từng vật một trên
con đường tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Chúng ta thấy các thánh đều như thế, như
thánh Yoan Thánh Giá – trước khi chết ngài mới từ bỏ được thêm vài vật nữa, trong
đó có một vật kỷ niệm cùa bà thánh Thérèse Avila, là người cùng chí hướng trong
việc cải tổ dòng Cát Minh.
Chúng ta phải từ bỏ từ cái nầy, từ vật nọ
trong suốt đời của mình, rồi đến việc phải từ bỏ địa vị, từ bỏ nguồn lợi tức,
từ những lợi tức bất chính như những mánh lới, cho đến những lợi tức chính
đáng. Rồi đến việc chúng ta đành lòng sống bấp bênh đến cùng, không có sự bảo
đảm nào nữa, như thánh Phanxicô khó nghèo, sống bậc ăn mày mà thôi.
Đó là lịch trình của những kẻ thành thực tìm kiếm Nước Trời
trước đã, rồi Chúa Yêsu với ơn kêu gọi của Ngài đến cho mỗi người để họ có thể
đi đến cùng. Các môn
đồ đã thực sự dạy điều ấy cho những kẻ tin sau nầy trong Hội Thánh tiên khởi.
Trong Hội Thánh ấy vẫn có những người có nhà có cửa như bà Maria, nhưng thánh
Phêrô nói rõ rệt :
Bạc
vàng tôi không có, song có gì thì tôi cho anh :
Nhân
danh Đức Yêsu Kito, người Nazareth, anh hãy bước đi. (Cv
3:6)
Phêrô và Yoan còn tiếp tục được một phần
nào lý tưởng mà các ông đã sống với Chúa Kitô trong đời của các ông.
Chúng ta thấy lời xin trong văn bản Mattheu
:
Xin
cho chúng tôi hôm nay có bánh ngày nầy.
Còn Luca lại viết :
Xin
cho chúng tôi mỗi ngày có bánh ngày nầy.
Từ ngữ hôm nay của Mattheu gần với từ ngữ
tiên khởi của Chúa Yêsu hơn. Luca dùng tiếng mỗi ngày là áp dụng cho tình cảnh
châm chước. Xin cho chúng tôi mỗi ngày là xin trước cho cả chuỗi ngày về sau
nữa. Đó là sự châm chước. Mattheu : Xin cho chúng tôi hôm nay, là xin cái bánh
phải có cho hôm nay, phải có bây giờ để sống. Kiểu xin của Luca giống bản dịch
Kinh Lạy Cha xưa của chúng ta : Xin cho hằng ngày dùng đủ. Vậy Luca
đã thích nghi lời xin ấy cho một cộng đoàn sau nầy. Đằng khác, động từ Xin
cho chúng tôi ở thể mệnh lệnh cách hiện tại (imparfait présent), nghĩa là lời
cầu xin được lập đi lập lại, vì thế mà Luca đung chữ mỗi ngày.
Lời xin của chúng ta hôm nay là lời nói ngoa cả, vì chúng
ta không bao giờ bị dồn đến chỗ thiếu thốn đến cực điểm, nên chúng ta không cảm
thấy sự thúc bách và cũng không cảm thấy được sự vui sướng được Thiên Chúa quan
phòng trên mình. Chúng
ta phải có một sự nhận định rằng, mình ở trong tình trạng thiếu về tinh thần
Chúa Kitô thế nào. Đó là tình trạng phần nào tội lỗi của chúng ta.
Vậy ít ra tinh thần của lời xin nầy có thể
rút ra là : Chỉ xin sự tối thiểu cần thiết, chứ không xin điều phù phiếm nào,
dư dật nào. Một sự kềm chế mình cho những kẻ đã gặp Chúa độc nhất và không còn
làm tôi Mammon (của cải), không sống
để làm giàu nữa. Lấy kho tàng trên trời làm vui thỏa để không còn màng có kho
tàng nào dưới đất nữa. Đó là lời xin của kẻ được mặc khải về mầu nhiệm Nước
Thiên Chúa, và đã hết lòng ước nguyện Nước Cha trị đến, và tìm Nước đó tiên vàn
mọi sự, như độc nhất trên đời mình. Chúng ta thật sự Tìm kiếm Nước trước đã.
Vậy tinh thần của Chúa Kitô là sự trông cậy bất khuất và vô biên vào tình của
Cha trên trời.
Sự tuyệt đối của Kinh Lạy Cha trước tiên
được dùng là cho các môn đồ, những người theo Chúa Yêsu và sống chung với Ngài,
rồi sau mới áp dụng cho chúng ta. Thế nên nhóm mười hai đó bao giờ cũng là mẫu
mực cho tất cả mọi hoạt động của Hội Thánh cho đến muôn đời (không ngạc nhiên
khi Hội Thánh sử dung Kinh Lạy Cha của Mattheu). Họ sẽ không bao giờ lập lại
được tình cảnh đó nữa, nhưng đó là cái tiên trưng, cái mẫu mực.
Lời
xin thứ hai : XIN THA NỢ CHÚNG
TÔI
NHƯ CHÚNG TÔI CŨNG THA KHÁCH NỢ (Mt 6: 12)
Chữ Tội
ở chỗ nầy được nói bằng chữ Nợ : Nợ
đối với Thiên Chúa. Chúa Yêsu không nói đến việc phạm đến, nhưng nói đến cái Nợ. Trong các ví dụ của Chúa Yêsu, Ngài đều nói đến cái Nợ
đối với Thiên Chúa. Thí dụ trong Mt 18: 23-35, nói về người mắc nợ chủ
một vạn tạ vàng (Chứ không phải một nén, vì một nén chỉ có vài chục gramme) mỗi
tạ vàng có ít ra 36 kg. Vậy là một món nợ khổng lồ, không thể nào đo lường
được, so với 100 đồng bạc của người bạn mắc nợ họ. Thật là hai chuyện vô cùng
khác nhau. Đó là sự lạ kỳ và Chúa Yêsu nói quá đáng như thế để cho biết cái Nợ của
chúng ta đối với Thiên Chúa là vô cùng. Không hòng trả được.
Chúa Yêsu thường diễn tả mối liên lạc chúng
ta với Thiên Chúa hoặc như là tôi tớ, nô lệ, hoặc như là con, tức là những kẻ
không chỉ làm công, nghĩa là làm việc nầy việc nọ mà thôi, mà tất cả sinh mạng
là lệ thuộc, là thuộc về người khác, như nô lệ thuộc về chủ, con thuộc về cha. Vì thế, Nợ là
tất cả sinh mạng phải thuộc về Thiên Chúa. Nợ ấy chúng ta không bao giờ làm
trọn được đòi hỏi. Vậy, không chỉ là phạm tội, nhưng cái nợ ấy nói cách riêng
về những sự thiếu sót mà chúng ta thường làm và không ai xét mình về những điều
thiếu sót ấy cả. Đối với Chúa Yêsu cũng như đối với Hội Thánh, đáng lẽ cái tội
nặng hơn hết, phải là tội thiếu sót (Peche d’omission). Điều thiếu sót không
làm, đó là cái Nợ trước tiên.
Nơi điều nầy chúng ta mới gặp được sự xung đột với người Biệt phái, vì họ chỉ
làm việc nầy việc nọ để có công nghiệp mà thôi, và họ cho thế là đủ (như người có đạo
ấu trĩ). Chúa Yêsu thì không thế, vì cái mắc nợ cuối cùng là
chính tinh thần của người con nong nã đến cùng tột để hướng về Thiên Chúa một
các toàn diện. Như vậy, kẻ có tinh thần nong nã hướng về Thiên Chúa đó, mới
thấy mình mắc nợ khổng lồ là không bao giờ mình mến Thiên Chúa hết lòng được.
Cái mến Thiên Chúa hết lòng ấy, không còn là một lời khuyên, nhưng là một lệnh
truyền : Ngươi phải yêu mến Chúa, thiên Chúa ngươi , hết lòng ngươi, hết linh
hồn ngươi, và hết trí khôn ngươi ! (Mt 22:37). Như vậy, tội phạm đến Lề luật
không đủ nữa, vì thế mới nói đến cái Nợ.
Vậy nhờ biết tình trạng tội lỗi đó, nên lời
xin tha tội là một lời kêu rú lên trước mặt Thiên Chúa.
Sau lời xin tha tội nợ chúng tôi, Mattheu
đã thêm một lời làm cắt đứt liên lạc của những lời cầu xin : Như
chúng tôi cũng tha khách nợ. Người ta đặt vấn đề : Lời thêm nầy là điều kiện hay là nguyên nhân ? Chữ như trong lời ấy là thế nào ?
Lời nầy thật sự làm gián đoạn các lời xin,
vì tư tưởng đang diễn ra để nói lên các lời xin với nhau, đến lời nầy phải dừng
lại một lúc. Vậy về hình thức, lời nầy được coi như một lời ngoại lai trong một
kinh rất đồng đều, tuần tự đi với nhau. Đó là một điều quan trọng đối với Chúa
Yêsu nên Ngài đã dừng lại phần nào đó trong ba lời xin về con người phải đi
liền theo nhau.
Vấn đề quan trọng trước tiên ở đây là sự
tương quan thế nào giữa ơn tha thứ Thiên Chúa ban cho chúng ta và sự chúng ta
tha thứ cho nhau ? Đó là điều kiện để được tha thứ hay là hậu kết cho chúng ta
đã được tha thứ ? Thực sự , theo cách trình bày ý tưởng theo kiểu tổng hợp như
thế nầy, đằng khác, việc tha tội, việc tha thứ của Thiên Chúa là một trình tự
luôn luôn diễn tiến, nên vì thế phải nói rằng, vừa là hậu kết, vừa là điều
kiện. Là hậu kết vì chúng ta có thể nói về hai người mắc nợ (Mt 18: 23-25), Một
người mắc nợ một vạn tạ vàng so với người mắc nợ 100 đồng, thật là một trời một
vực. Sau khi ông chủ tha, người bầy tôi ác nghiệt vẫn không tha cho người bạn
đồng liêu mắc nợ y 100 đồng bạc. Theo lý luận trong câu 32-33, chúng ta thấy sự
tha thứ phải được người bầy tôi ác nghiệt kia làm cho người bạn của y, đó là
một hậu kết của việc y đã được vị tôn chủ tha bổng cả món nợ khổng lồ kia :
Tôi
tớ bất lương, Ta đã tha bổng cho ngươi tất cả món nợ ấy, chỉ vì ngươi nài xin
Ta.
Há ngươi không phải thương xót bạn đồng liêu với ngươi sao ?
Như
Ta đã thương xót ngươi ?
Đó là hậu kết. Hậu kết của sự tha thứ kia
là phải tha thứ. Nhưng cũng là điều kiện để được tiếp tục ở trong sự tha thứ,
và ở trong sự tha thứ cuối cùng :
Thịnh nộ ! Tôn chủ của y đã tro y cho lý
hình cho đến khi nào y trả xong tất cả những gì y mắc nợ với ông. (Mt
18:34)
Vậy cũng là một điều kiện nữa, nhưng là
điều kiện của một kẻ đã được chịu lấy một cái gì lớn lao hơn và phải rút lấy
hậu kết cho mình. Vậy trong trình tự thì có sự tha thứ tiên khởi, sự tha thứ
thứ nhất của Thiên Chúa đối với những kẻ tội lỗi, và từ đó trở đi, sự tha thứ
là điều kiện sống cho lòng yêu mến đó ở trần gian bấp bênh nầy. Vậy ơn tha thứ
chỉ được hưởng trong việc chuyển đi ơn tha thứ ấy cho kẻ khác. Vậy vừa là điều
kiện, vừa là hậu kết của ơn tha thứ, cũng là điều kiện để được tha thứ cùng
tận.
Sự tha thứ là một điều kiện không thể miễn
được. Sự tha thứ chung kết khi phán xét là tùy vào hoa quả hối cải, trong đó
Chúa Yêsu nhấn một cách phiếm diện, một cách như sự tuyệt đối về tha thứ và
thương người. Vậy, điều kiện ấy do tự ý thức về ơn tha thứ đã được. Vậy sự tha
thứ đó chính thực là mình phải ở như được tha thứ.
Như chúng tôi cũng tha khách nợ, tức là sự xưng thú trước tiên rằng chúng
tôi đã được tha thứ thật. Bởi đã được tha thứ nên có thể tha thứ, và như vậy
mới có thể tiếp tục xin tha thứ sau nầy.
Chua Yêsu đã dừng lại ở lời Như
chúng tôi cũng tha khách nợ, vì đối với Ngài, đó là một điều quan
trọng. Ngay khi kẻ nào ra trước mặt Thiên Chúa để xin tha thứ thì luôn mang sẳn
điều kiện ấy là ngay lúc đó, trong lòng đã tha thứ hết cả mọi sự gì anh em mình
đã mắc với mình. Vậy , có sự hợp nhất tất cả với nhau trong hàng ngũ những kẻ
tội lỗi. Sự hợp nhất ấy đi từ Thiên Chúa đến với người ta. Thiên Chúa đã tha
thứ và làm hòa với người ta, nên vì thế người ta sẽ tiếp tục được với nhau sự
làm hòa và hợp nhất ấy. Vậy, hợp nhất
với Thiên Chúa là căn cứ cho sự hợp nhất trong tha thứ như người đời trong bấp
bênh của đời người còn khiếm khuyết. Sự hợp nhất căn cứ trên sự tha thứ của
Thiên Chúa, và như vậy gây được sự tha thứ giữa loài người.
Lời
xin thứ ba : XIN CHỚ ĐỂ CHÚNG TÔI SA CƠN THỬ THÁCH
.
Thử
thách (tentation) chứ
không phải là cám dỗ, tức dụ dỗ về
đường tội, xúi dục vào đường dữ. Dịch như thế làm mất đi sắc thái về thử thách
của tiếng nầy. Chữ cám dỗ chỉ nói về một khía cạnh là sự xúi dục, chứ không có
nghĩa như chữ thử thách, dùng để thí nghiệm, để thử lòng một người nào đó. Thực
sự, tiếng thử thách trước tiên là sự quẫn bách cùng tận mà thường
dân Do Thái, qua tư tưởng của văn chương khải huyền, nghĩ đến ngày tận thế và những sự dữ ngày tận thế. Chúa Yêsu cũng
cho chúng ta thấy điều đó trong diễn từ chung luận Mc 13, Lc 21, Mt 24 là những
chương nói trước tiên về những su thử thách cùng tận. Thử thách ác liệt đến nỗi
Chúa Yêsu nói :
Song
khi Con Người đến
Sẽ
còn gặp lại lòng tin trên đất nữa không ? (Lc 18: 8b)
Chúa Yesu đã dùng hình ảnh của thế giới Do
Thái để nói rằng, với ơn cứu thoát cùng tận của Thiên Chúa đến, thì có một thời
thử thách không bao giờ gặp thế được, và sự
dữ sẽ làm cho nhân loại ra khốn đốn đến chừng nào. Đó là cơn thử thách cùng
tận, nhưng với Chúa Yêsu, sự thử thách ấy cuối cùng sẽ đi đến điều nầy là : Song
khi Con Người đến, sẽ còn gặp lai lòng tin trên đất nữa không ?
Vậy là một sự thử thách có tính cách Kitô
luận, đem về sự chối bỏ Chúa Kitô. Tức là vấn đề chối bỏ Nước Thiên Chúa và ơn huệ của
Thiên Chúa đã đến cho chúng ta trong Chúa Kitô. Đó là cái nguy cơ hơn cả. Một
kẻ đã nhận thấy Nước Thiên Chúa trong Chúa Kitô thì thực sự lời xin đó cuối
cùng là lời xin gọi là Thất kinh hồn vía
trong điều đó, bởi đã nhận thấy ơn huệ lớn lao như thế, và sự yếu đuối của mình
: Xin
chớ để chúng tôi sa cơn thử thách. Giả thiết rằng sự thử thách ấy vốn
luôn có và bây giờ đây luôn luôn đe dọa chúng ta trong sự hiệp nhất với Chúa
Kitô.
Ở những chỗ khác trong Tin Mừng, Chúa Yêsu
nói đến mãnh lực tối tăm trên nhân loại. Khi đến giờ Thương khó, Ngài nói : Nầy
là giờ của tối tăm, của Satan, của ma quỷ (Lc 22:53). Vì thế, Chúa Yêsu
đã cảnh cáo các môn đồ Hãy
tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa cơn thử thách (Mt 26:41). Thử thách lòng
tin của môn đồ vào Chúa Yêsu lúc bấy giờ. Khi Chúa gặp Thương khó, các môn đồ
đều sa ngã cả : kẻ thì bỏ, kẻ thì chối và kẻ thì bội phản Ngài. Những kẻ về sau
càng đọc càng thấy tấm gương đó và càng phải cầu nguyện. Thực sự, lời cầu nguyện nầy thúc
bách hơn nữa, vì thấy người ta đi trước mình đã bị thử thách và đã sa ngã chừng
nào.
Xin chớ để chúng tôi sa cơn thử thách. Trong lời xin nầy nầy cũng nói đến cả tội
lỗi, nhưng không phải chỉ nhắm đến việc sa phạm tội nầy tội nọ, vì sự yếu đuối
của con người, nhưng nhắm đến cái nguy
kịch nhất là sự từ khước chính ơn cứu rỗi đã đến, Nước Thiên Chúa đẫ đến trong
Chúa Kitô.
Cuối cùng, Mattheu đã thêm câu nầy vào kinh
Lạy Cha :
NHƯNG
XIN CỨU LẤY CHÚNG TÔI THOÁT KHỎI QUỶ DỮ.
Luca không có câu nầy.
Đó là câu riêng của Mattheu viết vào lối
năm 80 để giải rộng thêm nghĩa tiếng thử thách, vì chẳng lẽ Luca lại bỏ ngoài
một lời dạy của Chúa ?
Về bình luận. có thể hiểu cả hai nghĩa là quỷ dữ và sự dữ. Người Do Thái thường hiểu là sự dữ, tức là ma quỷ.
Nhưng với nghĩa quỷ dữ, chúng ta có nhiều xuất xứ :
2Th 3:3 Chúa là Đấng trung tín,
Ngài sẽ làm cho anh em kiên vững và gìn giữ
khỏi kẻ dữ.
1Yn 2: 14b Tôi đã viết cho anh em, những kẻ còn thanh
niên, là anh em mạnh mẽ,
và lời Thiên Chúa lưu lại trong anh em, và
anh em đã thắng kẻ dữ.
Yn 17:15 : Con không xin cha cất chúng khỏi thế gian,
Nhưng xin gìn giữ chúng khỏi kẻ dữ.
Chúng ta có thể hiểu theo cả hai nghĩa, vì
tiếng Hy lạp tự nó có thể có hai nghĩa. Mặt khác, những chương muộn thời của
Tân Ước phần nhiều hiểu tiếng ấy là ma quỷ.
Mc 6:14-15 Vì nếu các ngươi tha thứ cho người ta những
điều họ sai lỗi,
Thì Cha các ngươi, Đấng ngự trên trời, cũng
tha cho các ngươi.
Nhược bằng các ngươi không tha thứ cho người
ta,
Thì Cha các ngươi cũng không tha thứ những
điều các ngươi sai lỗi.
Hai câu nầy để giải rộng ý nghĩa của câu
Xin tha tội nợ chúng tôi (Mt 6:12), tức là vấn đề tha thứ, như trong Mc 11:
25-26 :
Và khi đứng cầu nguyện, các ngươi hãy tha
thứ, giả như các ngươi có điều gì bất
bình với ai, ngõ hầu Cha các ngươi, Đấng ngự trên trời, cũng tha thứ cho các
ngươi những điều các ngươi sa lỗi. Nhược bằng các ngươi không tha thứ, thì Cha
các ngươi, Đấng ngự trên trời, cũng không tha thứ những điều các ngươi sa lỗi.
Mattheu cũng đã lập lại nầy trong đoạn 18:
35
Cũng
vậy, Cha Ta, Đấng ngự trên trời, sẽ xử với các ngươi,
Nếu
các ngươi mỗi người không thật lòng tha cho anh em mình.
Câu 14 và 15 là để nối vào Kinh Lạy Cha và
được đem vào ngay sau Kinh Lạy Cha. Nó không trực thuộc ngay việc dạy Kinh Lạy
Cha, nhưng diễn ra ý tưởng quan trọng về sự tha thứ ấy. Khi Mattheu viết như
vậy, chúng ta thấy để lộ ra đằng sau tình hình Giáo hội của Mattheu mà Mattheu
muốn viết cho họ. Một Giáo hội mà ngài phải nhắc đi nhắc lại sự tha thứ nhiều
lần, chứng tỏ rằng sự tha thứ ấy là một khó khăn đặc biệt trong đời sống cộng
đoàn. Giáo hội ấy đã cảm thấy sự tha thứ và sống trong lòng nhân lành tha thứ,
châm chước mọi sự là điều khó khăn chừng nào.
Tâm hồn con người rất khó tha thứ, nhưng kẻ
nào không cảm thấy sự vui sướng trong việc tha thứ, từ nhiên không thể nào cảm
thấy niềm hạnh phúc được Thiên Chúa tha thứ. Thánh nữ Thérèse Hài Đồng Yêsu khi
có một chị đến xin lỗi, đã ôm chầm lấy chị nầy mà khóc, Thánh nữ nói : Tha
thứ cho chị, em vui sướng quá thể, như ở thiên đàng vậy. Chúng ta phải
có linh nghiệm của một đấng thánh, mới thấy được điều phúc lạc khi tha thứ cho
kẻ khác.
********