Thursday, 29 November 2012

Lm Richard Leonard sj: Mấu chốt niềm tin rất Nước Trời




Cuối năm 1999, dân chúng khắp nơi chừng như vẫn hối hả, ưu tư khi thế giới đang từ từ bước dần vào những ngày đầu của thiên niên kỷ mới. Có người dựa vào Phúc âm, để quyết đoán rằng: ngày thế tận đã gần kề. Và, Đức Kitô nhất định sẽ quang lâm giáng thế một lần nữa, vào ngày sinh thứ 2000 của Ngài.
Những ai quả quyết chuyện này, xem ra đã liên tưởng đến câu ngạn ngữ mà các cụ ngày xưa vẫn dặn dò: hãy luôn đặt mình vào tình huống xấu nhất, để rồi từ đó mình mới tự tìm cách thoát ra, mà đi vào chốn lạc quan, đầy ân huệ. Thật ra, Đạo Chúa đã bước vào chốn lạc quan niên lịch từ thế kỷ thứ tư, sau công nguyên. Đúng hơn, đấy là năm 526 tại La Mã, tu sĩ uyên bác tên là Dionysius Exiguus đã dày công nghiên cứu các niên biểu ghi rõ ngày Đức Giêsu sinh ra, tử nạn và sống lại để biên soạn làm niên lịch cho Hội thánh.
Nhiều năm sau, ông đã định ngày cho các nghi lễ phụng vụ để rồi đúc kết thành một bộ gọi là lịch Hội thánh. Với các dụng cụ sơ sài tự kiếm, một thày dòng chuyên tu như thày Dionysius làm được niên lịch Hội thánh như thế, cũng là chuyện phi thường, hiếm thấy. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào các nguồn sử liệu bên ngoài và nhất là vào Tân Ước, khi kể về các vị cầm quyền Do Thái và La Mã ở Palestine, thì dứt khoát là lịch của Dionysius đã đi trễ, những 4 năm.
Đến năm 1582, Giáo hội biết rõ những sơ hở này, đã định sửa đổi. Tuy nhiên nếu sửa, thế giới sẽ phải bỏ phí đi, mất 4 năm. Chung cuộc, đã có quyết định là ta cứ để vậy. Như thế, tính đúng thực tại, phải thừa nhận rằng ngày Đức Giêsu quang lâm, lẽ đáng phải là năm 1996, chứ không phải 2000, như một số dân con nhà Đạo khẳng định. Thêm một thực tế khác nữa, là: mỗi khi bắt đầu kỷ nguyên mới, tín hữu Đạo Chúa lại được nghe kể về điềm thiêng dấu lạ trên mặt trời, mặt trăng cùng các ngôi sao. Rồi đến, thiên tai hạn hán mất mùa, động đất sóng thần, cứ liên tục xảy đến. Và, người dân ngoan hiền quận huyện sẽ cho rằng: ngày Chúa tái lâm đã gần kề. Tuy nhiên, rõ ràng là ta vẫn chờ. Và, vẫn cứ chờ.
Nếu ai muốn xác minh về điềm báo khốc liệt như thế, có lẽ nên nhớ lại lời dặn: “Các con chẳng thể biết được thời gian và nơi chốn khi Con Người đến trong vinh quang.” Chính vì lời dặn dò này, mà cộng đoàn thánh Luca nghĩ rằng Đức Kitô sẽ nhanh chóng quang lâm, trong tương lai rất gần. Ngài sẽ đến lại trong huy hoàng, lộng lẫy. Thời gian vẫn cứ trôi qua. Điềm báo, dấu hiệu vẫn cứ xảy đến. Và, cộng đoàn tiên khởi lúc đó mới vỡ lẽ rằng: ngày Đức Chúa quang lâm không mang mốc chặng thời gian và không gian gì rõ ràng cả.
Thực tế cho thấy: thời gian và không gian luôn thuộc về Ngài. Hy vọng đợi chờ từ nơi tín hữu thời ban sơ đã phản ảnh tình huống bách hại, và những chịu đựng khổ đau. Các tín hữu Đạo Chúa nay đà hiểu rõ: chẳng thể tuyên xưng lòng tin vào Đức Kitô một khi hành vi, cuộc sống của mình không phản ảnh được sự sống Nước Trời, Ngài hằng nói đến. Đó là mấu chốt của niềm tin. Đó mới là mốc chặng của Tin Mừng mặc khải. 
Nói rõ hơn, nếu tín hữu Đạo Chúa sống và thực hiện điều Đức Kitô truyền dạy nơi Tin Mừng, bằng và qua cuộc sống thường nhật, thì chắc chắn thế giới này cần phải đổi thay. Thế giới này sẽ có thay đổi. Thay đổi rất nhiều. Thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Và khi đó, Đức Kitô mới quang lâm trong huy hoàng lộng lẫy, như mọi người chờ mong.
Cho đến nay, chưa nắm rõ được ngày giờ thế giới nhân trần đã đi vào giai đoạn tận tuyệt chưa. Nhưng ở đây, vào những giây phút đầu của niên lịch Hội thánh, ta biết rõ được hai điều: Đức Chúa sẽ trở lại bất cứ lúc nào khi ta thực hiện được tình yêu thương - tha thứ. Khi ta biết san sẻ tài sản ta có. Và, biết xót xa, độ lượng. Biết hy sinh cho những người có nhu cầu hơn ta. Thứ đến, vào ngày quang lâm Ngài đến lại, có thể sẽ không có hiện tượng mặt trời mặt trăng quay cuồng, nhảy múa. Và có thể, cũng chẳng thấy hiện tượng thủy triều dâng sóng ngút ngàn, đâu. Và cuộc đời ta vẫn cứ phẳng lặng. Vẫn trĩu nặng tình thương yêu, như trước.
Thực tế Nước Trời quang lâm đang diễn tiến. Quang lâm chính là lúc tình yêu dũng cảm của bậc cha mẹ đối xử với con. Quang lâm là, lòng thương yêu triển nở của vợ hoặc chồng đang diễn tiến với người phối ngẫu yếu đau. Quang lâm còn là, lòng cảm thương yêu giúp đỡ của thế giới đã phát triển đang đùm bọc các quốc gia nghèo, thuộc thế giới thứ ba. Đại để là, mỗi khi ta có được những tình thương cao cả như thế, thì Vương quốc Nước Trời đã nguy nga, tráng lệ đủ để chứng minh rằng những điều Đức Giêsu loan báo về việc Ngài quang lâm, vẫn đến với chúng ta mỗi ngày, mỗi giờ. Ở mọi nơi, vào mọi lúc. Trong Vương Quốc Nước Trời Hội thánh.   
Cầu mong sao Tiệc thánh ngày đầu niên lịch phụng vụ, đem cho ta ý nghĩa và vị ngọt của Vương quốc Nước Trời đã và đang hiện diện, sẽ còn đến với ta luôn mãi. Cầu và mong sao tinh thần mùa Vọng luôn gìn giữ chúng ta trong tư thế đợi chờ Tình Yêu Chúa Cha sẽ đến lại. Và, Tình yêu Cha đem đến cho ta lòng quả cảm để tiếp tục sống cuộc sống hiện tại. Cuộc sống nhiễu nhương, nhiều bất ổn. Nơi đó, có sự quay cuồng múa nhảy của mặt trời mặt trăng. Có, sóng dữ gầm thét. Một cuộc sống mang nặng những ưu tư triền miên, muộn phiền. Nhưng, không quên đợi chờ. Đợi và chờ rất tốt. Rất đẹp. Lm Richard Leonard sj

Tuesday, 27 November 2012

Lm Nguyễn Thể HIện CSsR: “NƯỚC TÔI KHÔNG THUỘC VỀ THẾ GIAN NÀY”




Trong những lời đối thoại với ông Philatô mà bài Tin Mừng hôm nay ( Ga 18, 33b – 37 ) thuật lại, Đức Giêsu khẳng định một cách rõ ràng vương quyền của Người và nêu ra hai đặc trưng quan trọng của vương quyền đó, khác hẳn với quan niệm mà ông Philatô có thể có về vương quyền và sứ mệnh của các vị vua trên thế gian này.
1. Đức Giêsu nói rõ với ông Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” ( c. 36a ). Trước đây, khi tranh luận với người Pharisêu về lời chứng liên quan đến bản thân Người, Đức Giêsu đã từng nói: “Tôi không thuộc về thế gian này” ( 8, 23 ), trong ngữ cảnh là lập tức ngay sau đó Người khẳng định “Tôi Hằng Hữu” ( Êgo êimi ) ( 8, 24.30 ). Cái “thế gian này” được đề cập đến ở đây chính là cái hệ thống bất chính, cái hệ thống đang áp đặt sự thống trị gian ác của nó trên con người, cái hệ thống mà sự gắn kết với nó bị coi là tội lỗi. Đối ngược với cái hệ thống ấy, Đức Giêsu phục vụ con người và từ khước việc người ta suy tôn mình ( x. 6, 15 ). Trong tư cách là vua của “Nước không thuộc về thế gian này”, Đức Giêsu sẽ là Con Người bị giương cao lên, Đấng hiến ban mạng sống để cứu độ nhân loại.
2. Đức Giêsu xác định với ông Philatô: “Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái” ( c. 36b ). Lời này giả thiết cách hiểu rằng một trong những đặc trưng của các ông vua của thế gian này là họ sử dụng sức mạnh để thiết lập và bảo vệ quyền thống trị của họ. Nhưng Đức Giêsu thì không như vậy. Người coi việc sử dụng bạo lực là một thành phần của cái hệ thống bất chính và tội lỗi. Chính ở điểm này mà vương quyền của Đức Giêsu khác hẳn vương quyền của vua chúa thế gian. Người tự nguyện chấp nhận bị nộp vào tay người Do Thái và ngăn cản ông Phêrô dùng sức mạnh chống lại những kẻ đến bắt Người ( 18, 11 ). Người từ chối sử dụng sức mạnh, chứng tỏ Người không làm vua như những người khác. Người chấp nhận bị nộp cho người Do Thái thay vì huy động lực lượng để thoát khỏi số phận bi tương của một kẻ bị kết án tử hình.
3. Vương quyền của Đức Giêsu không đặt nền hay bắt nguồn từ bất cứ nền tảng pháp lý hay chính trị hay kinh tế hay ý thức hệ nào của cái thế gian này. Người nói rõ: “Thật ra, Nước tôi không thuộc chốn này” ( c. 36c ). Vương quyền của Người có nền tảng hoàn toàn khác. “Không thuộc chốn này” tức là “không thuộc về thế gian này”. Vương quyền của Đức Giêsu thuọc “thượng giới” chứ không phải “hạ giới” ( x. 8, 23 ), tức là thuộc cảnh vực của Cha và của Thánh Thần. Đó là vương quyền mang lại sự sống ( x. 4, 47.49 ) chứ không phải sự chết.
4. Lời tuyên bố của Đức Giêsu đã khiến ông Philatô ngạc nhiên. Ông không thể hiểu một vị vua mà lại tuyên bố như vậy. Ông không thể quan niệm một vị vua mà lại từ chối sử dụng sức mạnh để bảo vệ uy quyền của mình. Vì thế, ông hỏi thẳng Đức Giêsu: “Vậy ông là vua sao ?” Thực ra, khộng chỉ ông Philatô ngạc nhiên. Mọi người đều phải nạc nhiên khi nghe công bố về vương quyền của Đức Giêsu như Người đã nói ở c. 36 trong bài Tin Mừng hôm nay, nếu họ nghe bằng đôi tai của những con người thuộc hạ giới. Thế giới hôm nay, và cả cái phần thuộc về thế giới này trong các thực tại và tập thể Kitô giáo nữa, vẫn không thể hiểu được vương quyền của Đức Giêsu và vẫn phải ngạc nhiên mà chất vấn Người: “Ông là vua sao ?”
5. Đức Giêsu trả lời: “Tôi là vua” ( c. 37a ). Hoàn toàn phù hợp với những gì được nói ở câu 36, Đức Giêsu tường minh khẳng định về vương quyền của mình. Rồi lập tức Người nói rõ: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian chính là để làm chứng cho sự thật” ( c. 37b ). Người giải thích sứ mệnh làm vua của Người. Sứ mệnh đó không hệ tại ở sự thống trị hay cai quản, theo kiểu các vị vua của thế gian này. Sứ mệnh làm vua của Đức Giêsu trước hết và trên hết là “để làm chứng cho sự thật”.
“Đã đến thế gian” là kiểu nói đã hai lần được Gioan áp dụng cho ánh sáng: 3, 19 và 12, 46. Đáng chú ý là ở 12, 46, Đức Giêsu khẳng định một cách tỏ tường ánh sáng là chính bản thân Người. Đàng khác, sự thật là chính bản thân Đức Giêsu như Người đã nói: “Chính Thầy là sự thật” ( 14, 6 ). Như thế, sự thật mà Đức Giêsu đã đến để làm chứng được đồng nhất hóa với ánh sáng, tức là ánh rạng ngời của sự sống ( “sự sống là sự sáng...”: 1, 4 ).
Về lời chứng của mình, Đức Giêsu đã từng nói: “Chúng tôi làm chứng về những điều chúng tôi đã thấy” ( 3, 11 ). “Người làm chứng về những gì Người đã thấy và đã nghe” ( 3, 32 ). Đó cũng là lời chứng về sự từ khước của Người đối với thế gian vì cách hành xử xấu xa của nó: “Tôi làm chứng rằng các việc thế gian làm thì xấu xa” ( 7, 7 ). Đó còn là lời chứng về chính bản thân Người trong liên hệ với sứ mạng của Người ( 8, 14 ).
Trong khía cạnh tích cực, sự thật mà Đức Giêsu-Vua đến để làm chứng, là kinh nghiệm của chính bản thân Người ( 3, 11.32 ), kinh nghiệm về Thần Khí là Tình Yêu và là Sự Sống. Đó là sự thật về tình yêu của Thiên Chúa đối với thế gian: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” ( 3, 16 ). Tình yêu đó được thể hiện nơi con người và hoạt động của Đức Giêsu. Đức Giêsu là sự thật về Thiên Chúa bởi vì Người thể hiện tình yêu của Thiên Chúa, và Người là sự thật về con người xét như là sự thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa về con người. Đó chính là sự thật mà Đức Giêsu-Vua làm chứng.
6. Đức Giêsu làm chứng cho sự thật bằng chính cái chết của Người trên thập giá. Và quả thực, cách nói “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian là để làm chứng cho sự thật” ( c. 37b ) cho thấy sứ mệnh của Vua Giêsu được thực hiện trong lịch sử. Vương quyền của Đức Giêsu hoàn toàn khác với vương quyền của cái thế gian xét như là một hệ thống bất chính, nhưng vương quyền đó cũng vẫn phải được thực hiện ngay trong lịch sử nhân loại, và hơn nữa, phải là yếu tố định hướng lịch sử nhân loại.
Vì thế, trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu cầu nguyện với Cha cho những kẻ thuộc về Người trằng: “Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian. Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật. Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian. Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến” ( 17, 15 – 19 ).
Kết luận:
Có hai đặc trưng của Đức Giêsu-Vua được khắc họa trong những lời Đức Giêsu nói với ông Philatô trong bài Tin Mừng hôm nay: ( 1 ) sự từ khước sử dụng sức mạnh, ( 2 ) sứ mệnh làm chứng cho sự thật. Tôn thờ Đức Giêsu-Vua, chúng ta được mời gọi phải xây dựng cuộc sống và cộng đoàn của mình cho phù hợp với hai đặc trưng quan trọng đó.
Lm. NGUYỄN THỂ HIỆN, DCCT


Sunday, 25 November 2012

Lm Kevin O'Shea CSsR: PHAOLÔ và Kiều bào Thessalônikê cùng Philípphê



PHAOLÔ
và Kiều bào Thessalônikê
cùng Philípphê

Tóm lược

Kiều bào Thessalônikê

Với thánh Phaolô, thì việc đi Châu Âu, đặc biệt là đến với thủ phủ Phillíphê, ở Maxêđônia, là việc quan trọng rất lớn lao. Và việc này, còn quan trọng không kém cho cả Châu Âu nữa. Vào lúc đó, thánh-nhân dám nói lên sự khác biệt giữa Hoàng-đế và Đức Giêsu. Khác biệt, là ở chỗ: hoàng đế La Mã chỉ muốn bá-chủ hoàn-cầu. Còn Đức Giêsu, Ngài lại những muốn gia-nhập nhóm người nghèo hèn luôn bị ức hiếp và bức bách để rồi Ngài cũng trở thành một người bị o ép, giống như họ. Nói lên điều này, thánh Phaolô đã gặp rắc rối ngay với giới cầm quyền La Mã, nên ông đành phải sách gói ra đi về xứ miền Thessalônikê, một thủ phủ rất không lạ  với người Do thái và Hy Lạp. Mãi sau này, khi ghi thư kể lại sự việc xảy đến với chính mình, thánh Phaolô cho thấy: ông từng đối đầu với các vấn đề “thế tận”, và “phục sinh”. Và khi ấy, cả đến cộng đoàn dân Chúa ở miền đó, lại cũng nghĩ: thế giới rồi sẽ bị xoá sổ khỏi vũ trụ/vạn vật, rất nhiễu nhương. Và Phục Sinh, chỉ có nghĩa: người người sẽ lại có xác thể rất mới, hệt như bộ đồ mới tậu, hầu góp mặt với thế trần, thời mai hậu.

Thánh Phaolô từng trả lời: không phải thế. Chẳng có tận thế hay tận mạng gì hết. Bởi, thế giới ta hiện sống, sẽ chẳng bao giờ bị hủy diệt do bất cứ biến cố nào gây ra, nhưng sở dĩ có chuyện đồn đoán rất như thế là vì thế giới rồi cũng sẽ thay hình đổi dạng để cải biến, mỗi thế thôi. Và, tiến trình biến cải đã thật sự bắt đầu ngay vào lúc ấy. Và, tiến trình này xảy đến cũng rất nhanh, nghĩa là sẽ rơi vào triều đại của một trong các hoàng-đế La Mã, tựa hồ như một quang-lâm mới cũng rất khác. Và, người chết dù nằm xuống, cũng sẽ đến với Ngài, và với người còn sống, để rồi tất cả sẽ hoàn tất công cuộc biến-cải toàn thế-giới nhân trần, ngay thời hiện tại. Muốn được thế, họ cần mặc lấy cho mình một xác thể rất khác. Và, cũng phải trải nghiệm hiện-trạng xã-hội theo cung cách vẫn rất mới. Thánh Phaolô gọi đó là “Sự Sống có trỗi dậy”. Và thánh-nhân nhìn sự việc Phục-sinh/trỗi dậy như tiến trình phải đến, ngay khi ấy.


Kiều bào Philípphê

Thánh Phaolô đặc biệt mến mộ kiều bào ở đây. Họ luôn có chỗ đứng trong tâm-can ông. Và, ông vẫn mở lòng mình ra với kiều bào ở đây, rất mật thiết. Thế nhưng, họ vẫn không tài nào hiểu được thánh-nhân một cách trọn vẹn. Bởi, tôn giáo họ phục vụ khi trước, là đạo giáo chỉ thuần phục mỗi thần “Mắn Đẻ” Artêmis –mà thế giới Tây Phương thường gọi là nữ thần “Diana”. Đạo giáo này, ý-thức về sự việc được thay thế, lại dẫn về những gì khác lạ, cuồng điên, dễ kích bốc đến độ nó sẽ thay hình đổi dạng, rất xuất-thần. Kiều bào ở đây vốn nghĩ rằng: thánh Phaolô hẳn sẽ đưa ra điều gì đó giống hệt thế, nên ông mới nói đến quan hệ mật thiết với Đức Chúa-chịu-đóng-đinh-vào-thập-giá. Thánh Phaolô lại nói tiếng “không” một lần nữa. Thánh-nhân khuyên dân con Đạo Chúa phải biết tự mình trở thành hư không/trống rỗng như Đức Giêsu từng thực hiện khi Ngài tự “trút sạch” khỏi mọi sự, như vậy. Thánh Phaolô không ở lại nơi “linh đạo” hoặc “thần bí” giống như thế. Thay vào đó, thánh-nhân đã nên “một” với Đức Giêsu theo cung cách rất chính trị. Và, Đức Giêsu đã cùng với thánh-nhân và dân con của Ngài sống trong tình thương-yêu cởi-mở và tôn trọng những người mới đến, để họ có thể cải biến hệ-thống sinh-động cách trọn vẹn, dù đó có là sự hệ thống sinh động theo kiểu Hoàng đế hoặc do thần Artêmis tạo ra, hay không. Dù, hệ thống ấy có là nhà nước hoặc nhà Đạo, sao cũng mặc. Thánh Phaolô khuyên các đồng đạo lâu nay có lập trường như thế, hãy sống theo kiểu “trút sạch” con người mình như Đức Chúa từng bảo ban, dạy dỗ. Và, tất cả mọi người hãy gia nhập nhóm bạn đạo lâu nay chẳng có thứ gì trong người mình, từ: của cải, tiền bạc cho chí gia tài hoặc kỹ năng này khác. Bởi, điều mà bà con ở đây đạt được, lại sẽ gồm toàn những rắc rối, khó khăn và sầu não cả vào lúc bắt đầu một ngày mới. Nhưng, việc đó cũng cần để mọi người có thể kết hợp với Đức Giêsu Kitô, nhất định là như thế.

Đức Giê-su Ki-tô
vốn dĩ là Thiên Chúa
mà Ngài không nghĩ nhất quyết phải duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng Ngài đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.
Ngài lại còn hạ mình,
vâng lời đến nỗi bằng lòng chịu chết,
và là cái chết trên thập tự.
Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài
và tặng ban danh hiệu
trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.”
(Phil 2: 6-9)


Chú thích để dẫn nhập

Ở đây, chúng ta sẽ xem xét sứ-vụ thừa-sai giai đoạn đầu của thánh Phaolô tại Maxêđônia, ở Châu Âu; đặc biệt là các thư do thánh-nhân ghi về sau và gửi về cho hai cộng đoàn đặc trưng nói ở trên. Trước nhất, là cộng đoàn Thessalônikê và sau đến là cộng đoàn Philípphê. Vậy, ta chỉ xét qua các sự việc thánh-nhân từng làm hồi còn ở Philípphê, như “sứ vụ” đầu đời của ông thôi. Sau đó, xét kỹ những gì thánh-nhân thực hiện ở Thessalônikê; để rồi, mới xét các thư do thánh-nhân viết cho cộng đoàn ở đây. Sau cùng, sẽ quay về lại với cộng-đoàn Philípphê để xem các thư viết về sau gửi kiều bào xứ Philípphê.

Vào độ trước, khi khởi đầu hành-trình do mình thực hiện, thánh Phaolô từng đến ở lại vùng Tiểu Á –nay là Thổ Nhĩ Kỳ- ở đó, ông nhận được “thị kiến thành Trô-a” thúc giục ông hãy đi Maxêđônia. Lúc ấy, thánh-nhân đem Timôthê, Silas và Luca cùng đi với ông. Sau đó, ông rời Châu Á để đi Châu Âu –điều này có tầm vóc hết sức quan trọng cho ý niệm ban đầu về Châu Âu. Ở Châu này, việc đầu tiên của ông là đặt chân đến với đất miền Philípphê, một thủ phủ cách vùng Tây Bắc gần cảng Nêapôlis của Maxêđônia, đi về phía Đông cũng dài đến 15 cây số ngàn. Nêapôlis, -tức Kavala hiện giờ- là phần đất mà thánh Phaolô từng đặt chân đến. Nơi đây còn là đường thông thương sống chết của Đế quốc chạy dài từ Đông sang Tây, ngang qua lộ tẻ Via Egnatia. Đất đá vùng Via Egnatia này, vẫn còn ghi dấu chân mòn rộn rã của thánh-nhân mãi đến ngày hôm nay. Đấy là lớp đá sỏi trên đó thánh-nhân từng vẹt mòn đôi dép cổ, để đi bộ. Ngày nay, đã có xa lộ thênh thang chạy vút từ Belgrade và sông Đanube theo cùng tuyến đường đi về vùng biển thênh thang, thoáng mát. Chuyện này, không thấy sách Công Vụ hoặc bất cứ thư mục vụ nào nhắc nhở đến chuyện thánh Phaolô từng giảng giải cho bất cứ ai ở đất miền Nêapôlis này. Trong khi đó, Philípphê lại không phải là thủ phủ chính của Maxêđônia, vào thời đó. Và nơi đó, cũng chẳng là thành phố ban đầu được thánh Phaolô đặt chân ghé đến. Trong khi đó, Nêapôlis lại có được vinh dự lớn đến là  thế. Còn, Thessalônikê mới là thành đô của xứ miền Maxêđônia. Và Amphipôlis chỉ là thủ phủ chính của quê hương bạn mình. Về điểm này, sách Công Vụ đã ghi chép sự việc này không chính xác lắm.         

Philípphê lúc ấy chỉ gồm một số rất ít người Do thái sống ở đây. Tính kỹ, cũng chỉ đếm đuợc chừng mươi nam-nhân là cùng. Nơi đây, lại không có hội đường, cũng chẳng có cao ốc hoặc phố chợ vùng thị thành, lắm người tập trung. Thế nên, thánh Phaolô cứ phải cuốc bộ nhiều dặm đường về miền Đông, mới đến được vùng ven sông cạnh đó, ngõ hầu tụ tập được một dúm người rất ít oi, đến để nguyện cầu. Đấy chỉ là nhánh nhỏ của sông con Strymôn và nơi này cũng chỉ đếm được có vài nữ phụ, lác đác cũng không nhiều. Trong khi đó, sách Công Vụ lại kể về một buổi thanh tẩy cho bạn đạo nọ ở Châu Âu thời tiên khởi; ở buổi đó còn chú thích là do thánh Phaolô chủ trì, được tổ chức ngay bên ngoài thủ phủ Philípphê, cũng không xa. Chính nơi này, người đọc nhận ra được một nữ thương gia khá giàu mang tên Lyđia và gia đình chị từng đến đây để sinh sống. Vì thế, ta mới có thể nói một cách văn hoa bóng bảy, rằng: Niềm tin khi xưa mang tính chất rất Châu Âu và Châu Âu khi ấy lại có niềm tin rất đặc thù…    

Cũng nên biết, là: đến với Châu Âu thánh Phaolô chẳng mang thứ gì đi theo người, ngoại trừ độc nhất mỗi sứ điệp. Bởi, thánh-nhân không quen biết một ai. Và thông thường, ông vẫn lê đôi chân nghèo nhiều ngày liên tiếp, chứ làm gì có ngựa có lừa để mà cỡi. Tiền bạc dù có rủng rỉnh, thánh-nhân cũng chẳng làm sao tìm ra được công ty độc-mã hay tứ mã nào ở đây, để thuê mướn. Thời đó, chỉ mỗi giới quân nhân người La Mã là giới chức duy nhất có khả năng cỡi ngựa ở vùng này mà thôi. Thánh-nhân cũng chẳng khi nào đứng trên bục gỗ hoặc thùng hàng để giảng cho mọi người nghe, về chuyện Đạo. Và, thánh-nhân chỉ muốn kết hợp mọi người thành hệ-thống gia-đình mà ông từng quen biết ở hiện trường lao động/thừa-sai tựa hồ như đồng nghiệp ngành lều/bạt và cả đến đồng Đạo quanh quẩn ở hội đường, thôi.

Thánh Phaolô rời khu vực đó, để đến với Thessalônikê, ngang qua lộ tẻ Via Egnatia, như mọi người đều biết. Quan toàn quyền La Mã, cũng từng sinh sống ở nơi này. Binh đội La Mã thì đồn trú rất qui mô, đông đúc tại trại binh chốn ấy. Thành thử, truyền thống sắc tộc độc đáo và cung cách hành nghề ở đây, cũng đều do những người như thế phổ biến, vẫn rất rộng. Có thể là, thánh Phaolô từng bị giới cầm quyền La Mã ép buộc phải bỏ xứ Philípphê nổi cộm này là vì  ông dám có động thái công khai hoặc ngấm ngầm chỉ trích Xêda của họ, khi ông lớn tiếng bảo rằng: Đức Giêsu Kitô chính là Đức Chúa và là Đấng Thiên Sai mọi người đợi trông. Có một lúc, có lẽ do hành tung mang tính chất rất quân sự, nên khá nhiều bạn Đạo ở Philípphê có thể cũng đã phải hy sinh vì Đạo nghĩa. Cũng có thể, một số vị từng trách cứ thánh Phaolô về chuyện ấy. Và lúc đó, thánh-nhân đành phải tạo “thành tích” với các vị trong Hội thánh ở Thessalônikê hệt như một người có thể cũng dễ bị hành quyết, chết cho Đạo như đã xảy ra ở thủ phủ Philípphê, nhưng ông kịp thời thoát mạng trong gang tấc.


                                                            -----------------------

Thessalônikê

-Xem Michael Tellbe, Paul between Synagogue and State: Christians, Jews, and Civic Authorities in 1 Thessalonians, Romans, and Philippians, Stockholm, Almqvist and Wiksell, 2001.

Vào độ năm 50 sau Công nguyên, có ba đấng bậc trổi bật, là; Phaolô, Silvanô và Timôthê đã quyết cuốc bộ đến Thessalônikê từ phía Đông, dọc lộ tẻ Via Egnatia. Các vị thừa sai này lại đã rao báo về một Đấng Bậc vốn cũng là người Do thái nhưng ít người biết đến và Ngài đã làm và đã nói lên rất nhiều điều phi thường, Ngài đã bị đóng đinh vào thập-giá do bởi vua quan đám cầm quyền người La Mã cứ o ép/bách hại, nhưng Ngài đã được Thiên Chúa-là-Cha nâng nhấc để Ngài có cuộc sống rất trỗi dậy. Các vị giảng thuyết này, lại nhấn mạnh một điều, là: kỷ nguyên mới đang trờ đến và “tương lai/mai ngày” đã có mặt ở thời hiện tại, ngay bây giờ. Và, các ngài còn nói: đối chọi lại những gì lâu nay được đế quốc La Mã tuyên truyền, đấy chính là Tin Mừng thật sự, cho mọi người. Nếu sách Công Vụ được tin là tài liệu ghi chép chính xác về điểm này -và theo tôi nghĩ: thì sự việc này, Sách Công Vụ ghi cũng đúng, thì chuyện ở trên xảy đến vào trước thời tổng trấn Galliô ta biết được, là nhờ vào bia đá có khắc ghi dấu vết xảy đến từ năm 51 đến năm 52, thôi. Trong thư gửi giáo đoàn Philípphê ở đoạn 4 câu 15, thánh Phaolô gọi đây là: “Khởi đầu Tin Mừng rất khích lệ”.

Nhiều người lại vẫn tin rằng: kiều bào ở đây hầu hết có quá khứ/lý lịch thuộc sắc tộc không phải là Do thái. Một số vị khác lại cứ nghĩ: thủ phủ này, thời ấy, đã có số người Do thái ngụ cư ở nơi đây cũng không nhiều. Dù sách Công Vụ có nói điều gì thêm nữa, thì chi tiết ghi trong đó có chính xác không, đó mới là vấn đề. Thật ra thì, chẳng dữ kiện nào chính xác đủ hoặc có theo cung cách sử học hoặc khảo-cổ-học không, ta mới có thể dựa vào đó mà đoan quyết về số cư dân từng sống ở đó. Trong các thư do thánh Phaolô ghi, cũng không thấy thánh-nhân đả động gì đến chuyện có liên quan đến tục “cắt bì” hoặc luật ăn uống, hết. Phần đông người ngoại giáo ở đây, đều thuộc giới thủ công nghệ, hành nghề tay chân, thôi.

Định vị nơi này, chẳng mấy chốc đã thấy có sự hiềm khích chống lại động-thái của thánh Phaolô cũng như của nhóm thừa sai cũng không đông cho lắm ở miền đó. Thế nên, thánh-nhân buộc phải giã từ thủ phủ nổi tiếng này mà ra đi và một lần nữa, và ông lại hướng về phía Nam mà đi xa thêm. Cuối cùng, thì: khi đặt chân đến Côrinthô, thánh-nhân bèn sai đồ đệ là Timôthê về lại Thessalônikê để kiểm tra tình hình ở nơi đó xem thế nào. Timôthê đã tường trình trở về lại rất đúng lúc để bảo rằng: tình hình xem ra có vẻ không ổn chút nào, vì đã có sự chộn rộn chao động đang nhen nhúm giữa nhóm/hội đồng đạo tin vào Chúa, nhất là về vấn đề người quá vãng; tức: vẫn có nhiều người thắc mắc, hỏi rằng: phải chăng sự chết đã lấy mất đi khỏi họ mọi chúc lành và ân lộc của Thiên Chúa? Và, hễ ai chết, họ có bị mất hết ân huệ cứu rỗi được Đức Chúa cam kết không? Ai tin Chúa đã sống lại, có bị án chết đời đời không?

Chính vì thế, thánh Phaolô đã quyết định phải có thư cho cộng đoàn Thessalônikê để giải thích cho mọi người hiểu. Thư này được viết vào năm 50-52, ở ngay tại Côrinthô. Chừng như, thư được viết dưới danh nghĩa là do Phaolô thánh-nhân, Silvanô và Timôthê gửi, nhưng phần chính đều do thánh-nhân đọc cho thư ký viết. Điều chắc chắn mà ta có được, là: nội dung thư, đã thấy có trên văn bản, chí ít là vào năm 200 sau Công nguyên, cũng thấy xuất hiện nội dung ở cảo bản Chester Beatty Papyrus. Đây chỉ là bức thư đơn giản, không do gom góp lấy từ thư khác. Thư này được viết theo dạng thư-từ giao-dịch kiểu lễ tân vào thời đó, thế thôi.

Thư cho thấy: lúc đó đã có chống đối nổi lên từ bên ngoài cộng đoàn Đạo Chúa, do nhóm “dân quân địa phương”, là tên gọi để chỉ cả người Do thái lẫn Dân ngoại chủ trương. Việc chống đối không nhắm vào cộng đoàn do thánh Phaolô thiết-lập hoặc vào cộng sự viên trông nom cộng đoàn. Cũng chẳng chống lại tín hữu nào từng sinh hoạt vào thời đó, nhưng lại đánh thẳng vào sứ điệp của Tin Mừng. Bởi, đối với một số người, thì sự việc được đề cập ở trong đó, thật khó mà tin. Cộng thêm vào đó, là sự kiện quyết được rằng: đòi hỏi sống thực sự yêu cầu phục sinh quả là mục tiêu phân rẽ cộng đoàn kẻ tin do tính xã hội của nó. Thành thử, hệ thống xã hội của các vị này lúc đầu cũng đổi thay, có khi còn thê thảm hơn mọi người dự tưởng.

Ta không thể biết đích xác con số các vị sống trong cộng đoàn được bao nhiêu vị đã qua đời và trước khi chết, các vị sống ra sao? Bao nhiêu vị chết cách êm ả? Chuyện chết chóc xảy đến với các vị như thế nào? Có phải các vị đều tử vì đạo? Sự việc này, cũng chẳng tác động gì lên lý lẽ/nội dung của thư mà mọi người đề cập. Thật ra, vấn đề chỉ là: kiều bào Thessalônikê khi ấy vẫn buồn sầu/khổ não chẳng hy vọng gì. Các vị vẫn tỏ ra như thể quan niệm sống, lúc ấy, của các vị vẫn giống trước khi gia nhập Đạo, tức quan niệm về thế giới không còn theo kiểu của người Do thái nữa. Và, một điều nữa, là: trước đây các vị đều cho rằng mình đã có lý, trước khi quay lưng lại với thần-linh/ngẫu tượng nhưng nay đã quay về với Đức Giêsu, cũng là chuyện tốt. Trong thư này, thánh Phaolô có khuyên răn các vị sống ở thủ phủ nói trên chớ nên buồn sầu/khổ não hoặc than khóc như những người ngoài Đạo. Bởi, Đức Giêsu, Đấng đã sống lại và nay Ngài về với Chúa Cha sẽ cứu vớt mọi người và cả những người đã chết. Việc Chúa phục sinh mang ý nghĩa rất rõ, là: nhờ Chúa hoàn tất cứu độ mọi người khỏi mọi lỗi tội và sự chết. Ngài làm việc này một cách công khai, ngay trước mắt, rất nghiêm túc cả vào lúc Ngài đến lại như Vua Cha, thời mai hậu. Và khi đó, cả người sống lẫn kẻ chết sẽ cùng nhau san sẻ hết mọi thứ ở Vương Quốc Nước Trời. Kết cục, thánh Phaolô lại đã khích lệ nhóm của ông hãy sống vững chãi trong niềm tin vào Đức Chúa duy nhất chỉ có Một. Và, mọi người hãy sống có luân lý/đạo đức trong tương quan dục tình, theo phương án ta đạt được từ niềm tin tưởng vào sự sống lại, rất mai hậu.

Kiều bào Thessalônikê khi ấy đã bị giao động về tư tưởng có liên quan đến tận thế và sống lại. Nhưng họ vẫn thấy khó mà tin. Kiều bào Thessalônikê thuộc thế hệ đầu đã báo hiệu thời khắc đi vào Đạo Chúa, là: đi vào với với thế giới đích thực ở thời cổ. Và thánh Phaolô, lần đầu tiên viết thư luân lưu cho cộng đoàn do mình thành-lập, đã tự ràng buộc mình bằng khí cụ chính trị nên thánh-nhân xem ra cũng quyền phép lắm. Theo Helmut Koesler thì: thư thứ nhất Thessalônikê là “thư về tín hữu Đạo Chúa đang thành hình.” Thư đó là những giòng chữ đầu của Tân Ước.                               

Lời tựa đầu về thư thánh Phaolô.

Thật ra, thời đó đã có một thứ gọi là “phố chợ tôn giáo”, ở xứ/miền này. Tức: vẫn có các bậc hiền triết lang thang, có ngôn sứ thuộc đủ loại từng khất thực, có cả các nhà ảo thuật, hoặc lang “vườn” cũng như dân bịp ở khắp chốn, đều vẫn ưu tư/quan ngại. Nhưng, thánh Phaolô đã tự tách ly khỏi đám nguời như thế. Và như thế, lại có hiện tượng thu hút quần chúng ngay trong cộng đoàn ở nơi này. Và, thánh Phaolô cũng tự tách rời khỏi nơi họ. Tín hữu Đạo Chúa –và cả người Do thái ở đó- đều kỳ vọng vào việc Chúa quang lâm sẽ đến lại. Về việc này, thánh Phaolô đã đồng ý với những chuyện như thế; và, thánh-nhân lại vẫn nghĩ rằng: chuyện như thế cũng sẽ xảy ra vào thời thánh-nhân vẫn còn sống. Tín hữu thời đó, đều tự vấn-nạn chuyện các vị đã qua đời. Về việc này, thánh Phaolô có nói: các vị đều sẽ trỗi dậy; và, tất cả đều sẽ gặp Chúa.

Thánh Phaolô đối đáp vấn nạn của kiều bào Thessalônikê bằng một cam kết về sự “sống lại” bằng vào sử dụng ẩn-dụ mà ai cũng hiểu –tức: diễn giải sự sống lại theo nghĩa “tái quang lâm” tựa như sự có mặt của hoàng đế vào khi ông ta chinh phục toàn đế quốc La Mã này. Thánh Phaolô, bằng vào việc giảng rao Tin Mừng, cũng đã kể cho mọi người biết, là: việc đó như thể Hoàng đế La Mã cũng sẽ “quang lâm”/trở về lại những nơi mà ông từng chinh phục. Vậy thì, Đức Giêsu cũng sẽ “tái quang lâm” cách chung cuộc ở bất cứ nơi nào. Và lúc ấy, những người đã chết –nhất là các đấng tử vì đạo cùng các vị bị quẫn bách ở Philípphê- cũng sẽ gặp được Chúa trước nhất. Điều này làm mọi người nhớ đến chi tiết mỗi khi Hoàng đế La Mã đi tới đâu, đều có kiệu rước theo hầu, và ông thuờng ngang qua mộ phần của người chết ở ngoại ô thành phố mà xem xét. Đây cũng thế, mọi nguời sẽ đi vào thành phố với Đức Giêsu, một cách rất phấn khởi.

Ở đây cần nhấn mạnh một điều là: đây không phải là trường hợp định lại vị trí trên Thiên quốc với Đức Giêsu, mà là: kết hiệp với Ngài. Và những ai còn sống trong thành phố, sẽ theo cung cách biến đổi thành phố ở đây, cả về tính cách xã hội cũng như chính trị.

Một lý do nữa, là: vì các vị cần cải tân thân xác mình, và chính các vị mới phải làm thế với lý do tham gia đường lối tái tạo “xác thể” mới theo nghĩa chính trị. Đáng lý ra, thì duy nhất chỉ có một cuộc “Tái quang lâm” thôi. Và, duy nhất chỉ có một tiến trình biến đổi ngang qua cuộc sống với thế giới, mới là điều cần thiết. Thật ra thì, tiến trình này đã khởi đầu bằng sự sống lại của Đức Giêsu. Và sự việc này còn tiếp diễn. Xem thế thì, cũng nên hiểu “Sống lại” theo nghĩa tiêu biểu của người Do thái mới đúng nghĩa tiêu biểu, đó là sự trỗi dậy của tất cả mọi người theo nghĩa rất chung, nhưng chỉ nên xem đó như tiến trình bắt đầu từ sự Phục Sinh của Đức Giêsu. Điều này, khiến cho toàn bộ thế giới trở thành chốn sống hài hoà, có công lý chính trực. Kết quả là tình thương được phổ biến khắp chốn. Thánh Phaolô tưởng tượng rằng: việc Chúa “tái quang lâm” đến lại sẽ khởi động những chuyện như thế sẽ xảy ra ngay trong thời mình sống hoặc thời của những người cùng sống với Ngài. Thánh-nhân đã tính sai ngày tháng và niên đại. Và, xem ra thánh-nhân cũng không chắc chắn gì mấy về ngày tháng cũng như cả đến tư tưởng này nữa: ông có nói là chuyện đó xảy ra như thể kẻ trộm ghé về đêm, thành thử chẳng ai biết được ngày giờ nó trờ đến. Thế nhưng, thánh-nhân cũng đã cải tân ý tưởng nền tảng này. Bởi, muốn xem sự trỗi dậy cũng rất chung như một tiến trình diễn tiến theo tính năng động ngay tại nơi mình lao động, đó là chuyện mới theo tầm nhìn của Do-thái-giáo mang nặng tính Pharisêu và đã hiển hiện ở nền tư tưởng của tín hữu Đạo Chúa thời tiên khởi.

Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ. Ai ngủ, thì ngủ ban đêm; ai say sưa, thì say sưa ban đêm.8 Nhưng chúng ta, chúng ta thuộc về ban ngày, nên hãy sống tiết độ, mặc áo giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ.” (1Thes 5: 5-8)                    

            Cùng lúc đó, vẫn có quan điểm/lập trường vững chãi quyết tập trung vào việc sử dụng ẩn-dụ hoặc “tái lâm” ngay ở đây. Qua kinh nghiệm sống của mình, thánh Phaolô quả đã không tin rằng sự chết còn có thể diễn tiến -chí ít là cái chết theo nghĩa “chấm hết”/dứt đoạn, vẫn chưa xảy đến chút nào!!

Tuy nhiên, quan điểm này lại đã khiến cho giới mộ đạo ở Thessalônikê thêm rối rắm do có nghi ngờ rằng chuyện rắc rối thực sự nằm ở việc người Thessalônikê coi đó như một chỉ dẫn chuyện thần thiêng nên chẳng đoái hoài gì. Nếu chuyện ấy đúng, thì người chết sẽ để mất cơ hội được thấy Đức Giêsu đến lại trong vinh quang như vua cha; và như thế, người người có cũng bị vụt mất ơn cứu độ Ngài mang đến, chăng? Thánh Phaolô cũng thông cảm. Không. Không chỉ thế. Thánh-nhân vẫn chủ trương phải san sẻ với người đã chết cũng một ơn cứu rỗi này khi Chúa đến. Thánh Phaolô kể cho đồng Đạo biết cách mà tính toán/đếm đong những gì là tích cực. Niềm tin của mọi người vẫn rất tốt, vẫn thoả đáng, dù không thành toàn. Tình thương họ được dạy để thi hành là do có sự hiện diện của Chúa ở giữa họ. Nhưng, niềm hy vọng của họ vẫn cần được cải tân. Nên, thánh-nhân lại đã bảo: chắc chắn một điều, là Thiên Chúa sẽ tuyển chọn họ đương nhiên là điều phải lẽ qua cung cách họ nhận lãnh Tin Mừng ngay từ buổi đầu?

Lâu nay, vẫn thấy có sự lẫn lộn về điều mà thánh Phaolô muốn nói ở đây. Chừng như, mọi người có cảm tưởng rằng trong bản diễn dịch, ra như có một thứ gì đó giống một cạm bẫy chường ra cho ta, về ngày giờ Chúa đến lại. Điều này là do có sự mù mờ nơi tiếng A-ram/Do thái được thánh-nhân vận dụng để nói cho mọi người nghe biết khi ông còn ở lại với xứ miền Thessalônikê. Chẳng hạn như cụm từ “hebel” bên tiếng Aram lại có hai nghĩa: đó vừa là cạm bẫy,  vừa là cơn đau quặn khi ở cữ. Nghĩa là, thánh Phaolô muốn nói đến các khó khăn hiện tại giống như người đàn bà đau đẻ, và thế giới này vẫn không chết, mà chỉ như người mẹ đang ở cữ sinh con, dù đó có là sự việc tái quang lâm, Chúa lại đến.        

Thánh Phaolô không để luột mất cơ hội khuyến khích người mộ đạo thời ông sống, là: hãy có cuộc sống luân lý tốt đẹp, ở đời này. Thánh-nhân nhắc lại quan niệm của người Do thái vẫn nhìn về ngày cánh chung, rất ưu thế. Điều này nói lên rằng chúng ta đang sống trong một thế giới đầy tội ác do sự dữ/ác thần khuynh loát. Vì thế nên, luôn có sự phấn đấu rất liên tục giữa sự dữ và uy lực hiền từ vào mọi lúc. Nhưng, xem ra sự dữ thường thắng thế. Con người, vẫn tham gia vào cuộc chiến phấn đấu có tính cách nước đôi này và đôi lúc cũng thấy họ dạt nghiêng về phía đúng đắn (như con cái sự sáng) hoặc phe nhóm chuyên hờn giận (như con cái của tối tăm). Thế nhưng, Thiên Chúa vẫn có kế hoạch để chấm dứt cuộc đấu tranh giành phần thắng lợi.

Thiên Chúa sẽ lại can thiệp giải quyết bằng đường lối thảm khốc và bằng cuộc chiến đấu qui mô cuối cùng sẽ xảy đến giữa sự dữ và sự tốt lành/hiền từ để rồi chung cuộc thì sự tốt lành/hiền từ sẽ toàn thắng. Và những điều như thế sẽ xảy đến cũng rất chóng. Và, trong cơn giận lôi đình của Thiên Chúa, các uy lực tà thần dù có sự lãnh đạo của Satan (hoặc Bêlian hoặc tên tuổi nào khác được nhân-cách-hoá) cũng sẽ tàn phai hoặc bị Chúa huỷ diệt, mãi muôn đời. Quan niệm đương thời của người Do thái lại vẫn nói: Thiên Chúa sẽ gửi đến cho ta một hoặc vài ba nhân vật rất quan trọng, tựa hồ vị tư tế đã xức dầu hoặc ngôn sứ, hoặc vua quan, chiến sĩ hoặc tất cả những vị nào giống như thế, nhất nhất đều đóng vai trò quan yếu trong chiến thắng vinh quang của Ngài. Và với thánh Phaolô, thì dĩ nhiên Đấng đó là Đức Chúa Phục Sinh sẽ lại đến vào thời tái quang lâm, cũng rất gần.         

Chính Thiên Chúa hoặc sứ giả của Ngài sẽ phân xử và phân rẽ tách bạch người tốt khỏi kẻ xấu. Có thể là, khi người chết trỗi dậy cũng sẽ phải trải qua một lựa lọc tựa hồ như thế. Và, người đã trỗi dậy (hoặc vẫn còn sống lúc đó) sẽ được Thiên Chúa muôn đời chúc phúc mà ở với Ngài trong công cuộc tạo dựng này hoặc ở vương quốc/thế giới rất thiên đường. Còn, thân phận của kẻ xấu cũng ra như uy lực của ác thần/sự dữ, gọi là Satan là kẻ sẽ phải đối đầu trước cơn lôi đình này.

Cũng không rõ, là: bức thư thánh Phaolô ghi có đem lại kết quả gì không? Chừng như, một thời gian sau, nhiều vị ở Thessalônikê đã nắm bắt được ý tưởng thánh Phaolô đưa ra, rất đàng hoàng. Có lời nhắn gửi đến các vị này để bảo rằng: Ngày của Chúa đã đến rồi. Trong trường hợp đó, không chỉ mỗi người quá cố mà cả những người còn sống đều vẫn ở trong ơn cứu độ Chúa ban tặng. Đối đáp tình trạng này, thánh Phaolô lại viết tiếp thư thứ hai gửi giáo đoàn Thessalônikê để giải thích. Theo một số nhà chú giải, thì: thư thứ hai này hầu như không do chính tay thánh Phaolô soạn thảo mà là do ai đó có mặt trong cộng đoàn truyền thống của thánh-nhân ghi lại, mãi sau này. Xét giọng điệu viết trong thư, hẳn người đọc cũng nhận ra được sự khác biệt giữa hai thư nói trên. Thứ thứ nhất Thessalônikê được viết, là viết về những gì đồn đoán về tương lai/mai ngày (cả đến chuyện Chúa tái quang lâm, cũng thế). Còn thư thứ hai Thessalônikê, thì thay vào đó, lại cổ võ chuyện tái lâm mau xảy đến và cũng góp phần để sự việc sẽ xảy đến, rất chắc chắn…

Thư thứ hai Thessalônikê bắt đầu bằng những lời chào như thế này:

Chúng tôi là Phao-lô, Silvanô và Timôthê, kính gửi Hội Thánh Thêssalônikê ở trong Thiên Chúa là Cha chúng ta, và trong Đức Giêsu Kitô. Xin Thiên Chúa là Cha và xin Đức Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an.” (2Thes 1: 1-2)

Và khi kết thúc thư đầu tay này, thánh-nhân lại cũng viết những giòng cuối có lời chào hỏi do tự chính ông, như sau:

Chính tôi, Phaolô, tự tay viết lời chào này. Đó là chữ ký trong tất cả các thư của tôi. Tôi viết như thế đó. Chúc tất cả anh em được đầy ân sủng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” (2Thes 3: 17)

Đó là cung cách cũng rất riêng của thánh-nhân mỗi khi ghi thư gửi giáo đoàn các nơi. Về chuyện này, một số nhà chú giải lại đã đổi ý, lúc thì công nhận thánh Phaolô là tác giả của thư này, cho đến hôm nay, lại nói khác bảo rằng: thư này không do thánh-nhân tự tay viết hoặc do chính miệng ông đọc cho thư ký ghi. Nghiên cứu kỹ, ta sẽ thấy đây là một loại thư nhái có tính toán cốt để lập lại ý tưởng được ghi trong thư thứ nhất, nhưng đã cập-nhật-hoá cho hợp thời. Các nhà chú giải khác lại nhận rằng thánh Phaolô là tác giả của thứ thứ hai Thessalônikê và còn thêm: nội dung thư thứ hai này được đưa vào thư Côrinthô, chỉ xuất hiện sau thư Thessalônikê có vài tháng, thôi. Rõ ràng là, người đọc thứ thứ nhất Thessalônikê vì không hiểu kỹ những điều viết trong đó, nên tác giả mới quyết định viết thư thứ hai sau đó không lâu là cốt để hiệu đính lá thư đầu. Thành thử, có thể nói không sai rằng: thư thứ hai Thessalônikê là thư được chỉnh sửa đôi điều về lập trường đã viết trong thư thứ nhất, mà thôi.   

Có vị lại còn cho rằng thư thứ hai này cũng do chính thánh Phaolô, Silas và Timôthê gửi đi như đã gửi thứ thứ nhất, thế nhưng địa chỉ nơi nhận có thể mang tính giả tưởng, nếu ta xét kỹ nội dung. Bởi, mục đích của thư thứ hai đi ngược hẳn ý tưởng ghi trong thư thứ nhất. Tức, muốn nói về ngày sau hết, rất thế tận. Điều đó, còn đi ngược lại cả tư tưởng của thánh Phaolô về việc Chúa tái lâm coi như rõ mồn một, rất cấp kỳ. Điều này do có nhiều dấu chỉ cho thấy những gì được kỳ vọng sẽ đi theo cùng với “ngày tái lâm” vẫn chưa thấy xảy đến. Tức, mọi người vẫn cứ hiểu là chuyện ấy sẽ được dời ngày, đoạn tháng. Kết cục thì, vẫn cần đến một thứ trật tự trong cộng đoàn hội thánh Chúa, là tổ chức rất chính đáng. Ở đây cũng nên thêm một chú thích để mọi người thấy rằng: các dấu hiệu xảy đến là về “bội giáo”, tức một mục nát/suy sụp về luân lý nói chung, cần có “Đấng không lý gì đến luật lệ” sẽ trỗi dậy, tức: tương tự như những gì được nói đến ở thư khác là sự hiện diện của vị nào đó được gọi là “Phản Kitô”.

                                                            ------------------------


Philípphê

Thánh Phaolô thực sự rất cảm mến cộng đoàn do mình lập ở Philípphê. Đây là xứ miền đầu tiên, ông đặt chân đến ở Hy Lạp, cũng một Châu Âu. Cộng đoàn hội thánh ở đây thực sự “có chỗ đứng thường xuyên trong tâm can của thánh-nhân”. Thánh-nhân mở lòng mình ra với các vị ở nơi đó, như có lần thánh-nhân từng thổ lộ tâm tình mình về những sự bực bõ ông gặp ở nơi khác. Thánh-nhân kể cho các vị ở đây nghe về những chuyện như ta vừa thấy, chẳng hạn như: chuyện thánh-nhân tự định danh chính mình với Đức Giêsu và nhất là về những lời tự sự mà thánh-nhân diễn tả về việc Chúa “trút sạch” Thân Mình Ngài.

Tuy nhiên, nói thế tức diễn giải một sai sót cả về thủ phủ Philípphê này nữa. Bởi, phần đông tôn giáo của xứ vùng này vẫn đồng loạt thờ thần “mắn đẻ” Artêmis (tứ Diana). Đây chính là đạo giáo chuyên thờ nữ thần, vẫn khích lệ động-thái xuất-thần, hiểu theo nghĩa nhập-định thần bí có động tác thác loạn, cuồng si đến cực độ. Khi thánh Phaolô nói về việc định danh/định hình với Đức Giêsu, là lúc thánh-nhân liên tưởng đến thái độ và động-thái thường vẫn thấy các tôn giáo khác vẫn làm thế. Khi ấy, mọi người đều liên tưởng đến tình trạng thay thế cho niệm-thức rất rõ, tức một loại xuất-thần/nhập định rất linh đạo.

Thánh Phaolô đành nói cho bạn bè hiểu rằng ông muốn nói đến trạng huống chính trị chứ không phải linh đạo, thiêng liêng. Thánh-nhân vẫn giữ lập trường chính trị y như cũ giống như Đức Giêsu từng chủ trương, tức về phe với những người bị o ép/bách hại để rồi không có lý gì mà lại đi đến thái độ kỳ thị, hoặc chống báng. Kết quả, điều thánh-nhân đạt được không phải là sự xuất-thần, mà là những gì Chúa từng có –tức mọi năng lực của hệ-thống tiêu-cực đều dồn vào Đức Giêsu, lúc bấy giờ, và cũng dồn vào thánh-nhân, rất cùng lúc. Điều đó đã “trút sạch” mọi tơ tưởng ở nơi ông, cả đến giấc mơ, mộng mị về sự sống lại có thể tạo cho thế giới gian trần. Thánh-nhân bắt đầu nhận ra rằng: tất cả đều có thể xảy đến trong một ngày, nhưng không bằng sự thành toàn của chương trình mà thánh-nhân định ra  hoặc ngang qua kết quả mình có được, mà là ngang qua sự thể biến mình thành hư không/trống rỗng, vẫntrút sạch mọi giấc mộng nào như thế. Đây là sự tự hạ mình dẫn đến uy lực phục sinh/trỗi dậy, chứ không dùng quyền uy, thế lực nào của mình hết. Điều, thánh-nhân mặc lấy cho mình chỉ là những nhức óc/đau đầu hoặc đâm nhói tim gan mà người Hy Lạp gọi đó bằng cụm từ rất ý nghĩa như “thlipseis”.         

Việc thánh-nhân nguyện cầu, không phải là xuất-thần. Bởi, ông tự tinh-giản chính mình thành trạng thái chẳng là kinh nghiệm linh đạo mang ý nghĩa gì hết; và cũng chẳng có lời nào diễn tả những gì là hư không/trống rỗng ở đó hết. Thánh-nhân chỉ mỗi tin tưởng và nhìn về một tương lai/mai ngày chưa xảy đến… Có thể, đó là cung cách thực tiễn hơn cốt để trở nên loại thần bí, đích thực! Tuy nhiên, điều đó cũng chẳng hay ho gì để ta đem quảng cáo với người mới nhập môn, vẫn còn hăng hái, hứng thú!

Muốn hiểu rõ chuyện này, có lẽ cũng nên hướng về với Êphêsô, như để có chút lo ra hay lạc đề. Có như thế, mới dễ hiểu.                                                                                     
                                                                                                                                         (còn tiếp)


______________________                                                                                         
Lm Kevin O’Shea CSsR
Mai Tá lược dịch.

Saturday, 24 November 2012

Lm Frank Doyles sj: “Ta lớn khôn rồi, vẫn trẻ thơ “



Suy niệm Chúa nhật Lễ Kitô Vua năm B

“Ta lớn khôn rồi, vẫn trẻ thơ "
Hồn nhiên nuối mộng, thuở nào xưa
Lâu đài ta vẫn, xây trên cát
Ôm trái tim người, đứng ngẩn ngơ!
(thơ Vương Đức Lệ)
Ga 18: 33-37
            Mộng thuở xưa, là mộng vàng tuổi thơ, rất hồn nhiên. Hồn tự nhiên, nhưng vẫn là lâu đài xây trên cát. Mộng hôm nay, phải là chân lý xác thực. Xây dựng, ở trong tim. Xây trong tim, vì tim là đền đài vững chắc Chúa dựng xây cho loài người. Hệt Đức Vua.
            Trình thuật hôm nay, thánh Gioan nói về cuộc đời nhà Đạo, không đặt trong mộng, dù lớn nhỏ. Nhưng, đặt vào niềm tin vững chắc, của dân Chúa. Vững và chắc, vì dân con Chúa nay đã biết hợp lòng cùng vị chủ tế vinh danh Đức Vua, như kinh Tiền Tụng đà ghi rõ: “Là Vua, Ngài tỏ bày quyền uy trên mọi thọ tạo để dâng lên Cha, Vương quốc trải rộng toàn cầu, vĩnh cửu. Đức Giêsu Kitô là Vua của chúng con, Đấng dẫn đưa mọi dân tộc đến với Cha.”           
            Bài đọc 2, sách Khải Huyền cũng nói Ngài là “AnPha và Ômêga, Đấng Hiện Có, Đã Có và Đang Đến”. Ngài, là Khởi Đầu và Cùng Tột của cuộc đời chúng ta. Và mọi loài.
            Tin Mừng nay ghi lại cuộc đối đầu giữa Philatô, tổng trấn La Mã và Đức Giêsu. Cuộc đọ sức giữa một người tự cho mình có quyền uy dũng mãnh như lãnh tụ một chế độ thực dân hà khắc, và Đức Giêsu, Đấng rày đây mai đó giảng rao Nước Chúa. Không tham vọng làm vua, quan, lãnh chúa.
            Philatô hỏi: “Ông có phải là Vua dân Do thái không?” (Ga 18: 33) Nói xong, ông cảm thấy bứt rứt khi Chúa hỏi ngược lại xem câu của ông có là câu hỏi chân phương, lương thiện. Hoặc, chỉ cốt để xác minh lời đồn đoán hoặc kết án, từ đối phương. Philatô có hỏi đấy, nhưng vẫn ngượng ngùng khi thấy Chúa đối đáp tay đôi với ông, như người cân tài cân sức. Không sợ hãi. Cán cân quyền lực nay chừng như đã và đang chuyển đổi. Philatô không muốn thế. Ông cũng chẳng lấy làm thích thú gì, khi biết rằng sức mạnh quyền uy đích thực không tuỳ vào cương vị/chức tước, nhưng vào phần nội tâm, bên trong con người.   
            Chúa Giêsu trả lời, không để vùi dập một ai, như Philatô đã từng làm. Sức mạnh và quyền uy của Chúa không phải để trấn át bất cứ người nào, nhưng là để nâng đỡ/hỗ trợ. Chỉ những người yếu kém mới tìm cách lấn lướt, để khuynh loát người khác. Đó là điều mà các bậc có quyền có thế, cũng nên chú ý, như: cha mẹ, thầy cô, chủ nhân, linh mục, quan chức chính quyền, thủ trưởng…
            Dù Chúa không đáp trả bằng câu nói “Tôi chính là vua”, nhưng Ngài minh định rất rõ: “Nước Tôi, không thuộc về thế gian này.” Nước của Ngài bắt đầu thế gian này, nhưng không THUỘC về thế gian. Điều đó, có nghĩa: nguồn gốc của hứng khởi và quyền lực là chính Chúa. Đặc biệt hơn, là ở Tình Yêu của Ngài.      
            Đức Giêsu là Vua, nhưng ảnh hình của Vua Kitô hoàn toàn khắc hẳn ảnh hình ta vẫn có, về vua quan ở đời. Khác ảnh hình, mà dân con người người vẫn có về Đấng Mêsia-Vua mà họ trông ngóng. Ngài không có quân đội. Cũng chẳng màng tìm ảnh hưởng chính trị. Trước mặt Philatô lúc ấy, Ngài không giống một ai khác, ngoài Đức Vua Kitô. Ít lâu sau, Philatô bình tĩnh trở lại, đã nghĩ về cơ nghiệp của mình, mới ra lệnh hành hình Vua vũ trụ, là Vua các vua. Là, Chúa các chúa. Từ lúc đó, lính tráng của Philatô mới kết triều thiên gai lên đầu Ngài, mà chế riễu: “Kính lạy Vua Do thái.”
            Thế rồi, khi dẫn Chúa ra trước mặt chúng dân, Philatô nói: ”Này là Người!” Lời này, có thể diễn dịch cách thông thoáng, như: “Hãy xem kìa! Kẻ đứng trước mặt các ngươi đây, dù các ngươi có tin hay không, vẫn chỉ là con người.” Với lời lẽ thảm thương ấy, “Vua quyền” của Đức Giêsu Kitô đã bị chối bỏ. Để từ đó, họ bắt đầu coi Ngài như kẻ tội phạm. Và từ đó, dân con Ngài cũng đã chối từ Đức Vua của vũ trụ. Của con người. Điều này không còn gì để ngỡ ngàng. Bởi, đây không là ý tưởng về Đức Vua-Mêsia, Đấng cứu độ được hứa ban cho dân Do thái.     
            Ở đây, cần nhớ rằng: thập giá nhục nhã Chúa cam chịu, không phải là dấu chỉ của một thất bại. Ta cần hiểu rằng: thập giá ấy, là chính ngai vàng của Đức Vua Vũ trụ. Với các vị đứng gần bên thập tự, giây phút xem ra như một thất bại nhãn tiền, nhưng sự thực, lại là giây phút Chúa tỏ bày một chiến thắng quang vinh. Chiến thắng của sự sống. Của Sự thật. Và, của  Tình yêu. Chiến thắng ở bên trên mọi tủi hổ. Trên sự suy sụp. Trên chính cả sự chết nữa. Đức Giêsu chiến thắng sự chết là bởi Ngài chấp nhận nó. Ngang qua nó. Ngài lấy lại sự sống. Ngài sẵn sàng để sự sống qua đi.
            Đức Kitô Vua Vũ Trụ chết trên thập tự, đã trở thành chiến thắng của sự thật. Của công lý, lòng xót thương. Và trên tất cả là chiến thắng của Tình yêu. Thứ tình, mà chẳng một ai có thể cho đi chính sự sống của mình, cho bạn bè. Và đây, chính là quyền uy sức mạnh của Đức Vua Vũ trụ. Sức mạnh mà không một thứ gì có thể sánh tày, rày lướt thắng.
Vua Vũ trụ, không thể thực sự là Vua của chúng ta, nếu như ta không nhận làm thần dân của Ngài. Ngài sẽ là Vua của ta, nếu ta không chịu nghe lời Ngài. Phục vụ ngài. Theo chân Ngài. Ngài không là Vua của chúng ta nếu như ta không tự nhận dạng với cứu cánh/mục tiêu của triều đại Ngài trị vì. Ta đến với triều đại của Ngài không vì ta được thanh tẩy hoặc vì ta mang danh tín hữu, người Công giáo. Cũng chẳng vì ta tham dự vào các sinh hoạt phụng vụ, và lễ nghĩa. Ta chỉ dám nói mình thuộc triều đại của Ngài, khi mà:
-ta cố gắng bước theo Ngài
-cố gắng sống cuộc đời tràn đầy tinh thần của Phúc Âm
-Tinh thần của Phúc Âm xâm nhập mọi khía cạnh của cuộc sống.
Ta chỉ thuộc triều đại của Ngài, khi –giống như Ngài-  tức là ta đạt đến cấp độ tự do, qua đó ta có thể để mọi thứ ra đi, cả sự sống trong chiến đấu để biến thế giới của ta thành một thế giới của sự thật. Của công lý. Của Tình yêu. Đó là cuộc chiến đấu giúp cho lời cầu của mọi người thành hiện thực. Lời cầu ta tuyên xưng ít nhất là mỗi tuần: “Xin cho Nước Cha trị đến”.
Và, ta không thể theo chân Chúa , Đức Vua của ta được, nếu như ta không am hiểu Ngài nhiều hơn. Điều này đòi hỏi ta không chỉ gật đầu hứa hẹn tìm đọc Tin Mừng, Lời của Chúa. Bởi, đơn giản là nếu không biết rõ Tin Mừng, ta sẽ không thể biết Chúa, như thánh Giêrônimô từng minh định. Ta cần nguyện cầu có sự khôn ngoan ấy hầu am hiểu tường tận tinh thần của Đức Kitô Vua. Am hiểu cả bản chất quyền uy và cứu cánh, cũng như đối tượng của thế giới, ta đang sống. Và rồi, ta mới tự đặt mình vào với thế giới ấy.
Cuối cùng ra, ta quyết tâm tin rằng Đức Kitô không chỉ là Vua của người tín hữu nhưng còn là Chúa của thế giới này. Ngài là Chúa theo dạng thức, rất đặc biệt. Bổn phận của ta, là phải giúp mọi người hiểu biết căn tính của Vua Vũ trụ, Ngài chính là:
*Vị Vua, từng yêu ta không điều kiện
* Vị Vua, từng muốn hoà giải hoà hợp với kẻ tội phạm
* Vị Vua, vốn chỉ muốn giúp đỡ, chữa lành kẻ ốm yếu, tật bệnh.
* Vị Vua, rất khiêm hạ, chẳng bao giờ kiêu hãnh lẫn tự hào
* Vị Vua chỉ muốn san sẻ cuộc sống với ta, bây giờ và mãi mãi.
Để am hiểu Lời Ngài, trước nhất ta phải tự giúp mình am hiểu cương vị Vua nơi Ngài, sau đó giúp mọi người hiểu và biết đến Ngài. Nghịch thường thay, cách thức hay nhất để biết Đức Kitô Vua là ra đi giùm giúp mọi người biết đến Ngài. Để làm việc san sẻ nhận thức, sự am hiểu và lòng yêu thương Đức Kitô Vua với người khác, ta phải khám phá ra nhận thức, sự am hiểu và lòng yêu thương của chính mình.
Lm Frank Doyle sj
Mai Tá lược dịch


Friday, 23 November 2012

Lm Nguyễn Thể Hiện CSsR: HY SINH MẠNG SỐNG VÌ ĐỨC KITÔ



Thật là một sự trùng hợp rất ý nghĩa khi chúng ta được kính trọng thể Lễ các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam vào dịp cuối Năm Phụng Vụ và ngay trước Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ. Bài Tin Mừng Lc 9, 23 – 26 có thể được chọn đọc trong Thánh Lễ hôm nay khắc họa một cách rất rõ ràng dung mạo người đồ đệ mà Chúa Kitô đòi hỏi và các Thánh Tử Đạo đã thực hiện một cách anh hùng.
Thực ra, Lc 9, 23 – 26 gồm bốn lời Đức Giêsu nói trong những dịp khác nhau, được tập hợp lại (có lẽ do Marcô trước tiên) và áp dụng vào hoàn cảnh bị bách hại mà cộng đoàn Hội Thánh đang phải trải qua: “Khi ấy, 23 Đức Giêsu nói với mọi người: "Ai muốn đi sau tôi, hãy từ bỏ chính mình, hãy vác lấy khổ giá mình mỗi ngày và hãy theo tôi. 24 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.25 Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì ?26 Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Cha và các thánh thiên thần”.
Chúng ta sẽ suy niệm đoạn văn Tin Mừng trên đây trong ngày lễ trọng thể này.
1.“Đức Giêsu nói với mọi người” ( c. 23 ). Những điều sắp được công bố là đòi hỏi phổ quát và căn bản, được nói cho mọi người thuộc mọi thời ( thay vì cho đám đông và các môn đệ như trong Mc 8, 32 ). Động từ “nói” ở đây được chia ở thời vị hoàn ( thay vì thời aorist như trong Mc và Mt ) nhằm nhấn mạnh tính chất thường xuyên của giáo huấn được trình bày.
2. "Ai muốn đi sau tôi, hãy từ bỏ chính mình, hãy vác lấy khổ giá mình mỗi ngày và hãy theo tôi” ( c. 23b ).
Khi nói “đi sau tôi”, Đức Giêsu không chỉ có ý nói đến sự gia nhập vào trường của Ngài, sự trở thành đồ đệ của Ngài, mà còn là sự thực hành một cách cụ thể chính lối sống của Ngài. Quả thực, trong Hội Thánh, lối nói “đi sau Đức Giêsu” đồng nghĩa với lối nói “là Kitô hữu”.
- Điều kiện thứ nhất để trở nên đồ đệ đích thực của Đức Giêsu là “từ bỏ chính mình”. Tác giả sách tin mừng không có ý nói đến một vài sự thực hành tu đức, mà là nói đến một thái độ căn bản của đời sống Kitô hữu. Đó là: không tìm sống tự tại nơi mình. Từ bỏ chính mình, như thế, không có nghĩa là huỷ bỏ chính con người hay phẩm giá mình, mà là ý thức và đón nhận chính con người và cuộc sống của mình như là một ơn huệ và không tự tại nơi mình như thể mình là chủ tể của cuộc đời mình. Nói theo ngôn ngữ của Thánh Phaolô, thì đó là: “Tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” ( Gl 2, 20 ). Theo nghĩa này, sự từ bỏ chính mình thực ra lại là điều làm cho người đồ đệ trở nên hết sức mạnh mẽ, vì sức mạnh làm cho họ sống là sức mạnh của chính Thiên Chúa. Hơn ai hết, các Thánh Tử Đạo đã được trải nghiệm sự thực này một cách đặc biệt.
- Nhìn theo một khía cạnh khác, từ bỏ chính mình là “vác lấy khổ giá mình mỗi ngày”. Đó là chấp nhận đau khổ và vượt qua những khó khăn mỗi ngày mà trung thành với những đòi hỏi của Đức Chúa. Đó là quyết định bước đi trong một cuộc sống mà đích đến không còn là cái tôi vị kỷ của mình, không còn là chính mình nữa. Không có quyết định này và sự thực hành quyết định này, thì sẽ không thể có được những chọn lựa anh hùng trong những khoảnh khắc kinh khủng nhất của những cuộc cấm cách đẫm máu. Sở dĩ cha ông chúng ta đã là những vị tử đạo anh hùng trong các cuộc bách hại, ấy là vì các ngài đã từng kiên tâm “vác lấy khổ giá mình mỗi ngày”.
- Đòi hỏi cuối cùng là “hãy theo tôi”.
Thoạt nhìn, đây có vẻ là một sự lặp lại của ngữ đoạn “đi sau tôi” ở đầu câu. Chúng ta biết: vào thế kỷ I, dân chúng xứ Palestina đã từng và sẽ còn chứng kiến nhiều cuộc hành hình đóng đinh vào thập giá, một cách thi hành án tử hình rất tàn khốc của đế quốc Rôma. Sinh thời, Đức Giêsu hoàn toàn có thể nghĩ đến kết cục bi thảm đó cho chính bản thân Ngài. Vậy khi nói “hãy vác lấy khổ giá mình và theo tôi”, Đức Giêsu đang mời gọi các đồ đệ ý thức và đón nhận những thách đố quyết liệt của việc đi theo Đấng Mêsia, đến độ sẵn sàng chết và là chết một cách đau thương, nhục nhã và tàn khốc như người ta có thể đã từng chứng kiến trong các cuộc hành hình thập giá đương thời.
Vác lấy khổ giá mình”, theo nghĩa đen, chính là việc người bị kết án tử hình vác lấy thanh ngang của cây thập tự trên vai, đi giữa đám đông đang la ó sỉ vả mà đến nơi hành hình. “Đi theo Đức Giêsu” là chấp nhận một cuộc đời cay đắng và đau thương như của một người bị kết án tử hình đang vác lấy khổ giá mình mà đi ra pháp trường vậy. Ở đây, “vác lấy khổ giá mình” có nghĩa là người đồ đệ của Đức Giêsu phải sẵn sàng bị nhục mạ, bị vu khống, bị sỉ nhục và bị loại trừ khỏi xã hội. Lịch sử Hội Thánh Việt Nam chúng ta đã được kết dệt bằng muôn vàn những cuộc đời chấp nhận bị nhục mạ, vu khống và loại trừ như thế.
Sau khi Đức Giêsu phục sinh từ cõi chết, lời mời gọi đó của Đức Giêsu được hiểu là lời mời gọi chấp nhận bước đi trên chính con đường đau khổ mà Đức Giêsu đã đi, tức là sẵn sàng chấp nhận sống chính thân phận bi thương của Đức Giêsu. Trong hoàn cảnh Hội Thánh đang trải qua những ngày tháng bị bách hại tàn khốc, thì lời mời gọi này thực sự có tính thời sự: lòng trung thành đối với Đức Giêsu đòi hỏi các tín hữu sẵn sàng đi vào cuộc tử vì đạo trong thực tế cụ thể.
Thánh Luca đã thêm vào yếu tố “mỗi ngày”, không phải để loại bỏ cách hiểu về sự sẵn sàng chịu tử vì đạo, nhưng là để thêm vào một sắc thái nữa: đó là đòi hỏi hàng ngày trong đời sống tín hữu. Đó không chỉ là đòi hỏi của những tháng ngày bị bách hại, mà còn là quy luật sống mỗi ngày của người tin.
3.Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” ( câu 24 ). Câu này là một lời có vẻ mâu thuẫn. Nhưng nội dung thì thật đơn giản: ai trốn tránh cái chết bằng cách từ chối Đấng Mêsia, thì sẽ bị kết án trong ngày Con Người đến để phán xét; còn ai sẵn sàng chết vì đạo, sẵn sàng hy sinh mạng sống mình, thì sẽ không bị kết án trong ngày đó, tức là sẽ “giữ được mạng sống cho sự sống đời đời” theo kiểu nói của Ga 12, 25. Lời này quả thực ám hạp và mang tính thời sự trong những hoàn cảnh Hội Thánh bị bách hại. Khác với Mc 8, 35 ( “vì tôi và vì Tin Mừng” ), tác giả Luca chỉ ghi đơn giản: “vì tôi”. Ông muốn nhấn mạnh mối tương quan thiết thân của người tín hữu với Chúa Kitô xét như yếu tố căn bản chi phối thái độ sống và cách hành xử của Kitô hữu.
4.Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì ?” ( câu 25 ). Đây là một loghion không liền mạch với cc. 23 – 24 đi trước. Có lẽ nó được nối vào đây chỉ vì động từ “mất”. Tác giả Lc không có ý nói đến câu chuyện của một người được lời lãi cả và thế gian rồi sau đó đi vào cõi chết, mà là câu chuyện của một người phải trả giá cho việc được lời lãi cả và thế gian bằng chính việc thiệt mất mạng sống mình. Vậy đây không phải là sự cay đắng của kiếp nhân sinh phù vân, mà là sự phi lý đến độ ngu đần của một sự đánh đổi dại dột. Các Thánh Tử Đạo đã không chọn sự phi lý và ngu đần của sự đánh đổi đó. Chính vì thế, các ngài đã sẵn sàng hy sinh cả mạng sống mình chứ không chấp nhận những bả vinh hoa thế gian dâng tặng. Gương anh hùng của các ngài cho chúng ta thấy đâu mới là những ích lợi đích thực và vĩnh cửu mà chúng ta phải bằng mọi giá đạt tới.
5. Câu 26 ( Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Cha và các thánh thiên thần ) là một lời của Đức Giêsu cảnh báo một nguy hiểm khác mà Lc coi là một nguy hiểm hiện thời trong cộng đoàn tín hữu: mối nguy của việc hổ thẹn vì cớ Đức Giêsu và Tin Mừng của Ngài. Tác giả nhấn mạnh đến trách nhiệm của những tín hữu hổ thẹn vì Tin Mừng của Đức Giêsu. Ông cố ý nhắc đến vinh quang của Con Người, của Cha và các thánh thiên thần, tức là nhấn mạnh đến thế giới thiên thai và cuộc sống vĩnh cửu. Số phận vĩnh cửu của mỗi người tuỳ thuộc vào thái độ và vị trí của họ đối với bản thân và sứ điệp của Đức Kitô.
Nói cách khác, Lc 9, 26 cảnh giác mối nguy thoả hiệp với cái thế gian trong đó người ta chỉ tìm cách xây dựng cho mình một bộ mặt đẹp giữa xã hội, đến độ hổ thẹn vì những đòi hỏi của Tin Mừng. Đó cũng có thể là mối nguy buông mình theo những trào lưu và học thuyết sai lầm nhưng “dễ coi” hơn và “danh giá” hơn Tin Mừng của Đức Giêsu. Những mối nguy hiểm đó luôn luôn có trong các cộng đoàn tín hữu mọi thời. Và chắc chắn, đó cũng là những mối nguy mà chúng ta đang phải đối diện hàng ngày trong cuộc sống hôm nay.
 Tóm lại, Lc 9, 23 – 26 đưa ra những đòi hỏi căn bản cho người Kitô hữu trên con đường làm đồ đệ của Chúa Kitô. Họ được mời gọi bước đi trên con đường đau khổ, được mời gọi từ bỏ chính con người vị kỷ của mình, từ chối tìm kiếm lời lãi và vinh dự thế gian, và cuối cùng được mời gọi can đảm trung thành với Đức Kitô và với những đòi hỏi của Tin Mừng.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã trung kiên đi theo sau Đức Giêsu, từ bỏ chính mình, vác lấy khổ giá mình mà theo Đức Giêsu, chấp nhận bị ngược đãi, bị hành hình và sỉ vả. Các ngài đã thực hiện lời mời gọi ấy mỗi ngày, nên vào những giai đoạn khốc liệt nhất của các cuộc bách hại đẫm máu, các ngài đã có thể can trường làm chứng cho Chúa Kitô bằng chính mạng sống mình. Là con cháu các ngài, chúng ta được kêu mời bước đi trên cũng một con đường ấy, mỗi ngày trong suốt cuộc đời.
Lm. Giuse NGUYỄN THỂ HIỆN, DCCT