Thursday, 27 December 2012

Lm Kevin O'Shea CSsR: Phaolô và một lần thất bại tại Athens phần 4



PHAOLÔ
và một lần thất bại 
tại Athens

Phần 4

Thư Côrinthô số 2

Cộng đoàn Côrinthô chưa bao giờ là cộng đoàn dễ ưa hoặc dễ chịu cả. Tất cả mọi rẽ chia, đối nghịch đều phát xuất từ sự thể là mọi người quá đặt nặng tin tưởng vào tính chất cởi mở và ‘cho đi’ của Thần Khí rồi đã quyết chí tìm đến đổi thay và xử trí. Kết quả, như các thư từ/giao dịch với thánh Phao lô cho thấy, có những mẩu vụn thư nhắn gửi đến đã chứng minh là: vẫn còn đó nhiều ưu tư cũng như bức bách, trăn trở.

Thư Corinthô số 1 không giúp ích được nhiều người. Bởi, sau đó vẫn có nhiều thư khác đã được viết xem như thể:

1.      Thánh Phaolô đã phải vội vã ghé thăm Corinthô, xứ miền đầy khổ đau;
2.      Thánh Phaolô vẫn cử đại diện đến thăm thủ phủ này;
3.      Thánh Phaolô đành phải ghi một thư khác khá nghiêm trọng gửi về cộng đoàn. Thư đó được viết trong tình trạng đầu óc suy sụp đến độ ‘hôn mê’ như được kể ở 2 Cor 2:3-9
4.      Titô đến đến báo tin cho Thánh Phaolô biết bức thư nghiêm trọng ấy, đã đạt được kết cuộc khá khả quan.

Và rồi sau đó ta lại có thư Côrinthô số 2. Tuy thế, thư này là sự kết hiệp của ít nhất hai bức thư. Hai thư chính yếu này là:

Lá thư đầu, là để cử hành việc giải hoà giữa thánh Phaolô và dân con thành Corinthô : chương 1-9.
Thư sau gồm các chương từ 10 đến 13...

Toàn bộ thư đầu có 2 đoạn nhỏ không ăn khớp với nhau cho lắm. Cũng có thể đó chỉ là trích đoạn được rút từ các thư nào khác chứ không từ thư Corinthô đầu, thôi.

            Đoạn 6, câu 14 đến đoạn 7 câu 1 bàn về trạng thái lo sợ người ngoài.
            Đoạn 9 từ câu 1 đến 15 là để gửi cho hội thánh ở Galát bàn về tiền thu thập nói chung.

Sức mạnh thù địch từ bên ngoài cộng đoàn lâu nay lại đã phá rối Cộng đoàn ở đây. Họ đến với cộng đoàn đem theo mẫu mã về những điều mà tiếng Hylạp gọi là ‘theios aner’, tức nhân vật thần thánh hiểu theo nghĩa: chính họ đã được thấy Đức Giêsu, và đã hồi hướng trở về. Điều này dẫn đến nhiều xung khắc phản kích lập trường đặc biệt của Thánh Phaolô, nên vẫn cần đến hoà giải/hoà hợp cả dân nước. Thánh Phaolô vẫn nhấn mạnh về sự kiện ‘Đức Kitô chấp nhận chịu đóng đinh vào thập giá’, thế nên việc hoà giải hoà hợp chỉ có nghĩa giới hạn như vậy, thôi.

Lại có sự thể là người Côrinthô vẫn cứ loay hoay/xoay vần giữa các lập trường cố hữu liên quan đến việc “tự dung tha” cho đến quan điểm chủ thuyết khắc kỷ đặt sai mục đích. Thánh Phaolô nhân thấy thấm mệt nhưng cũng đã tìm cách giải quyết mọi sự bằng một đường lối khá chính đáng để họ sống cho thích hợp

Thư Côrinthô số 2 ở đoạn 11 câu 21-33, thánh Phaolô liệt kê ra một danh sách kể về các nỗi khổ mình từng chịu. Ông nói đến sự yếu kém, ốm đau, âu sầu, khổ ải –tức những điều hoặc các sự việc mà thế giới Hy Lạp từng bỏ phế,- chỉ cốt nhắm vào thân xác toàn hảo của con người. Thánh Phaolô chấp nhận sự bất toàn và gánh chịu mọi nhục nhã lẫn đớn hèn xảy đến với ông. Điều này từng khiến cho Hội thánh ở Côrinthô lấy làm bất mãn, cự tuyệt. Thánh Phaolô cũng đã đề cập đến các sự kiện quá quắt khiến ông ưu tư nhiều về những hành xử từng khiến ông ưu phiền/nhục nhằn trong cuộc đời. Ưu và nhục đến độ thánh nhân đã phải nghĩ đến việc tự làm khổ mình xuống mức độ hạ thấp, rất trút sạch. Ông không còn tin tưởng vào một ai. Đây chính là  trạng thái ộng định-vị chính mình vào với Đức Kitô chịu đóng đinh vào thập giá. Và, ông cũng đã tìm ra lý lẽ để thấy được rằng Đức Chúa Phục Sinh đã hoạt động tích cực ngang qua ông.

Cuối cùng, ông lại đã đi đến giai đoạn coi mọi sự chỉ như một thất bại và cỏ rác; tức, thứ mà người Do Thái tốt lành vẫn luôn trân trọng. Ông đã tụt hạ xuống trạng thái rất thấp đến độ tự biến thái thành hư không, trống rỗng (xem Siguard Grindheim, The Crux of Election, 2003).

Nay, là lúc thánh Phaolô sống đích thực ý nghĩa của tình yêu thương con người đến độ không có gì làm mình tự hào, hoặc cao cả. Và tình thương yêu ấy là thứ chính trị rất mới mẻ đáng được thay thế để đối mặt với loại chính trị đầy khuynh loát/khống chế của đế quốc. Ông đã để cho 2 lập trường sống ấy đối đầu giáp mặt với nhau, không kiêng nể.

‘Kể từ nay, chúng tôi không còn biết một ai theo quan điểm loài người. Và cho dù chúng tôi đã được biết Đức Kitô theo quan điểm loài người, thì giờ đây chúng tôi không còn biết Ngài như vậy nữa.
( 2 Cor 5:16)

‘Già lão/cổ xưa’ đây, chính là biểu tượng nói về sự rẽ chia, phân cách. Đây là thế giới của những xu hướng kỳ thị sắc tộc. Một thế giới đầy những cách ly, bạo tàn. Thứ thế giới của cạnh tranh /giành giựt chỉ nhằm lợi dụng người khác. Một thế giới cứ chăm chăm chú chú nhằm loại bỏ những người mình không mấy thích thú. Là, thế giới chẳng biết cách tập họp nhau lại mà hoà hợp. Một thế giới chỉ biết sống với ưu tư/lo lắng vẫn quyết rằng Đức Chúa của mình bị chia năm xẻ bảy, xa lánh/tách rời, chỉ chăm chút giữ lối sống bê tha, tiêu cực. Thế giới ấy đầy dẫy những lỗi lầm và sai sót khiến họ cứ lo ngại mình không thể nào hoà giải/hoà hợp được với Thiên Chúa do bởi những điều mình đã làm đáng cho mình hủ hoá thành hư không, trống rỗng; đồng thời tự mình tạo lấy cho mình tình huống không có giá trị gì ở bên trong; hoặc chẳng có gì để tự mình tự hào với Đức Chúa, hết.

Lập trường già nua/xưa cũ ở mọi việc, nay quá lỗi thời nên đã bị cất bỏ đi và lập trường mới mẻ khác đã xuất hiện. Lập trường mới mẻ là thế, nay xảy đến một thế giới trong đó có Thiên Chúa vẫn từng nói: “Nay Ta về với các ngươi. Ta vực các người trỗi dậy từ cõi chết. Ta đòi các người đến để sở hữu mà lo lắng chăm sóc yêu thương, bao bọc các người và đặt các người vào với cuộc sống của Ta. Ta sống cuộc sống của các ngươi cùng với các ngươi. Ta vui hưởng cuộc sống với ngươi và Ta đưa các người tháp nhập vào ở trong Ta’. Đây là thế giới biết tôn kính/trân trọng và yêu thương nhau. Tức, thế giới của sự hiệp thông/nối kết rất quan hệ. Một thế giới trong không còn chỗ cho tranh chấp/lũng đoạn giữa con người và Thiên Chúa; và cũng chẳng còn phân ly cách biệt nào giữa con người với con người. Bởi lẽ, thế giới này đã thay đổi, một lần là tất cả’.

Cho nên, phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi. Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hoà giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải.19 Thật vậy, trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Ngài. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải. Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa. Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Ngài thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Ngài. (2 Cor 5: 17-21)
           
Tác giả Michael Gorman (x. Reading Paul, Eugene, Cascade Books 2008 tr. 8.) đã tìm cách viết về chuyện ‘Thánh Phaolô bị lên án’ rất như sau:

Thánh Phaolô đã diễn giảng rất nhiều điều và sau đó lại lý giải mọi sự bằng vào thư mục vụ kết hợp cộng đoàn khác biệt, sau đó ông còn cắt nghĩa thêm bằng Tin Mừng đầy những truyện kể có tính cánh chung và có cả nền thần học chính trị theo kiểu cách rất khác biệt quyết đề cập đến các luận đề như:

1.      Nối tiếp vào với câu chuyện của Isarael; và

2.      Khác biệt hẳn lời lẽ kể về đế quốc La Mã và các quyền bính từng tập trung vào Đức Giêsu là Đấng Thiên sai chấp nhận chịu đóng đinh vào thập giá và Ngài đã sống lại.

Chuyện Ngài mặc lấy thân xác làm người, rồi lại sống như con người và bị đóng đinh vào thập giá cho đến chết. Một cái chết được Thiên-Chúa-là-Cha chứng giám và tuyên dương Ngài bằng sự sống lại và nâng nhấc/thánh-hoá Ngài trở thành Đức Chúa. Ngài khai mạc kỷ nguyên mới bằng vào tạo dựng vũ trụ gồm mọi thành viên, trong đó loài người đã thiết lập giao ước rất trung kiên và họ đã đáp trả bằng một niềm tin rất hãnh tiến, quyết từ bỏ chính mình bằng cam kết tham gia vào với cái chết và sự sống lại của Đức Chúa; và

a.      Mọi thành viên đều được xác chứng và tái tạo tương quan giao ước phải lẽ/đúng đắn với Thiên Chúa và với người đồng loại;

b.      Tất cả được tháp nhập chung vào Và lại cứ chan hoà  thân mình đặc biệt của Đức Kitô ở trần thế là Hội thánh, tức cộng đoàn thay thế các nhóm người đã có đó, vẫn cương quyết để Xêda và vua chúa ở thế trần quản cai bằng các đặc trưng đi ngược lại Lời Chúa ở Tin Mừng.

c.      Và rồi lại hoà trộn theo tư cách cá nhân riêng lẻ vào với Thần Khí của Con Thiên Chúa đến độ bao gồm cả cuộc sống lưỡng nguyên vốn dĩ tập trung vào cuộc sống giáng trần và hướng vào công cuộc tái lâm của Chúa, để bắt chước Đức Kitô mà chấp nhận thập giá, tức luôn tin tưởng và hy vọng vào Chúa cũng như thương yêu người đồng loại và kẻ thù của mình nữa. Tình yêu như thế được đánh dấu bằng sự an hoà hội nhập bằng vào vị thế vui vẻ thực hiện trước những điều như sau:

1.) Trở về lại với Đức Kitô

2.) Người chết trỗi dậy để rồi sẽ đi vào cuộc sống vĩnh hằng

3.) Hoàn toàn đổi mới công cuộc tạo dựng vẫn liên tục.

                                                            --------------------                     
                                                                                                                 (còn tiếp)

--------------------------------
Lm Kevin O’Shea, CSsR –
Mai Tá lược dịch.

Lm Nguyễn Thể Hiện CSsR: ĐỨC MARIA THĂM BÀ ÊLISABÉT



Bài Tin Mừng Lc 1, 39 – 45 cho thấy biến cố Đấng Mêsia ngự đến đã được thực hiện như thế nào và mầu nhiệm cứu độ được diễn tả trong biến cố đó ra sao. Để thăm viếng v à ban tặng Ơn Cứu Độ cho nhân loại, Thiên Chúa đã ưu ái chọn Đức Maria. Con người Đức Maria, lòng tin của Mẹ, sự tuân phục của Mẹ, tình mẫu tử của Mẹ... đã là những “lối nẻo” Thiên Chúa chọn để viếng thăm và cứu độ chúng ta. Trung tâm sứ điệp của bài Tin Mừng này, vì thế, tập trung nơi Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu.
Vừa khi Đức Maria chào bà Êlisabét, bà liền được đầy tràn Thánh Thần và kêu lớn tiếng. Tâm hồn bà Êlisabét tràn ngập một niềm vui khôn tả. Và bà cất lời chào Đức Maria.
Chắc chắn niềm vui mà bà Êlisabét đang trải nghiệm không phải chỉ là một niềm vui bình thường của một người phụ nữ được một người họ hàng đến thăm, mà chính là niềm hân hoan thánh thiện của thời đại Đấng Thiên Sai đến thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Có một niềm vui mới mẻ ùa vào trần gian do mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể. Thiên sứ của Thiên Chúa, trong khung cảnh của biến cố Con Thiên Chúa đến trần gian, đã luôn tự trình bày về mình như là sứ giả của niềm vui, và là niềm vui của thời cứu độ. Với ông Dacaria, thiên sứ nói: “Ông sẽ được vui mừng hớn hở và nhiều người cũng sẽ được mừng vui” ( 1, 14 ). Lời đầu tiên mà thiên sứ Gabriel thưa với Đức Mẹ trong biến cố truyền tin là lời “Mừng vui lên !” Và với các mục đồng, thiên sứ nói: “Này tôi loan báo cho anh em một tin vui lớn lao” ( 2, 14 ). Phần Đức Maria, ngay từ giây phút đầu tiên nói lời “Fiat”, Mẹ đã được trải nghiệm một niềm vui sâu xa khôn tả. Tất nhiên niềm vui của Mẹ không phải là một cái gì đó dễ dãi và có sẵn, mà là một thực tại lớn dần theo thời gian. Niềm vui ấy sẽ trở nên ngày càng sống động hơn, sâu sắc hơn và thâm trầm hơn, sau một quá trình chín muồi dần. Một trong những thời điểm đặc biệt mà chúng ta thấy niềm vui đó của Đức Mẹ như vỡ oà, là thời điểm Đức Mẹ cất lên bài ca Magnificat tán dương Thiên Chúa, trong cuộc viếng thăm bà Êlisabét này ( 1, 46 – 47 ).
Đặt trong chuỗi những niềm vui đó, chúng ta có thể nói: chắc chắn niềm vui khiến bà Êlisabét thốt lời ca ngợi Đức Maria trong bài Tin Mừng này, phải có một ý nghĩa đặc biệt và thuộc về cảnh vực của mầu nhiệm Thiên Chúa cứu thế gian. Khi Đức Maria đến thăm bà Êlisabét, Mẹ mang đến cho bà niềm vui thánh thiện và sâu sắc ấy, vì Đấng mà Mẹ đang cưu mang chính là Đấng cứu độ nhân loại.
Trong niềm hân hoan đó, bà Êlisabét nói với Đức Maria: “Em được chúc phúc” ( c. 42b ).
Theo lối nói đặc biệt trong Kinh Thánh, “em được chúc phúc” tức là “Thiên Chúa đã chúc phúc cho em”. Thực tại đầu tiên mà bà Êlisabét nhận ra nơi Đức Maria chính là ơn phúc Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ: “Thiên Chúa đã chúc phúc cho em”. Luôn luôn, chính hành động của Thiên Chúa mới là yếu tố căn bản và có tính quyết định. Theo gương bà Êlisabét, chúng ta chỉ có thể tôn kính Đức Mẹ một cách đúng đắn nếu chúng ta chiêm ngưỡng Mẹ không phải nơi chính Mẹ, mà là trong tương quan với Thiên Chúa.
“Chúc phúc” theo nghĩa riêng biệt của hạn từ, là công trình của một mình Thiên Chúa mà thôi. Và nó có nghĩa là: ban cho Sự Sống, giữ gìn trong Sự Sống, mang đến sự viên mãn của Sự Sống. Thiên Chúa là Chúa của Sự Sống, mỗi thụ tạo đều “mắc nợ” Ngài về chính Sự Sống của mình. Nhưng Thiên Chúa chúc phúc cho Đức Maria một cách đặc biệt, khi Ngài tạo nên nơi Mẹ một Sự Sống Thần Linh, mới mẻ và hoàn hảo. Đó là chính Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đang nhập thể làm người nơi cung lòng Mẹ.
Khi nói Đức Maria được chúc phúc “hơn mọi người phụ nữ” ( c. 42b ), bà Êlisabét muốn nói rằng: Thiên Chúa, Chúa của Sự Sống, đã làm nên nơi Đức Mẹ Sự Sống vô cùng đặc biệt, và Người đã làm điều đó không giống như Người đã làm nơi bất cứ người phụ nữ nào khác. Mọi sự sống đều tuỳ thuộc vào Thiên Chúa, theo đúng quy luật mà Người đã đặt trong tạo thành. Chính bà Êlisabét cũng đang mang thai, tức là chính bà cũng đang được Thiên Chúa chúc phúc, đang được Thiên Chúa gây nên nơi mình một sự sống là cậu Gioan Tẩy Giả. Trong tư cách là một phụ nữ cao niên và son sẻ, bà đang trải nghiệm nơi chính mình tính cách đặc biệt của phúc lành của Thiên Chúa. Nhưng đứa con bà đang mang trong bụng vẫn là con của bà và con của ông Dacaria. Trái lại, Đức Maria trở thành một người mẹ theo một cách thức hoàn toàn khác lạ so với mọi phụ nữ trên trần gian, vì Sự Sống đang tượng hình nơi Mẹ hoàn toàn là do một sự can thiệp độc đáo, đặc biệt và sáng tạo của Thiên Chúa. Khi ta đọc lời kinh Kính Mừng “Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ”, là chúng ta suy gẫm về mầu nhiệm lạ lùng đó nơi Đức Mẹ.
Tiếp đó, bà Êlisabét nói một cách rõ ràng: người con mà Đức Maria đang cưu mang trong thai được chúc phúc ( c. 42c ). Nói cách khác, Thiên Chúa đã chúc phúc cho người con mà Đức Maria đang cưu mang. Người ban cho Đấng ấy sự sống và sức mạnh. Mầu nhiệm ấy xảy ra thế nào, chúng ta sẽ chỉ có thể hiểu được khi đi đến điểm cuối cùng của cuộc sống Đức Giêsu. Với mầu nhiệm Phục Sinh, Ngài chiến thắng hoàn toàn sự chết và trở nên nguồn Sự Sống vĩnh cửu. Nhờ Ngài, Thiên Chúa tự mạc khải theo một nghĩa tròn đầy, rằng Người là Đức Chúa của Sự Sống và Người ân ban phúc lành lớn lao nhất của Người là Sự Sống đời đời. Đó là công trình của Thiên Chúa. Người đã dùng Đức Maria để đem vào trần gian này chính Đấng sẽ chiến thắng sự chết và mang đến Sự Sống vĩnh cửu. Phần mình, Đức Maria góp phần vào công trình cứu độ bằng việc cưu mang và hạ sinh chính Đấng sẽ đem lại Sự Sống thật cho nhân loại, Sự Sống vĩnh cửu.
 Bà Êlisabét còn đi xa hơn nữa khi tuyên bố rằng người con mà Đức Maria đang cưu mang ấy chính là Đức Chúa: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ?” ( c. 43 ). Đức Maria đang cưu mang Con Đấng Tối Cao ( 1, 32 ), Con Thiên Chúa ( 1, 35 ). Vì thế, Mẹ là “Thân Mẫu của Đức Chúa”, nơi Mẹ, Đấng là Con Đấng Tối Cao đang bắt đầu cuộc sống thế tạm của mình. Đứng trước mặt Đấng là Mẹ của Đức Chúa ấy, bà Êlisabét ý thức ngay sự bất xứng của mình. Bà hân hoan vì cuộc viếng thăm của Người, nhưng đồng thời cũng ý thức một cách rõ ràng rằng bà không thể và không bao giờ đồng hàng với Đức Maria được. Có một sự khác biệt quá lớn lao và hoàn toàn giữa Đức Mẹ và bà Êlisabét. Nhưng tất nhiên sự khác biệt ấy đã không hề ngăn cản Mẹ hiệp thông và hân hoan cùng với bà Êlisabét.
Cuối cùng, bà Êlisabét nói về thái độ Đức Tin của Đức Maria: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” ( c. 45 ).
Đức Maria có phúc. Đó cũng là điều mà thiên sứ Gabriel đã nói khi truyền tin cho Đức Mẹ. Thiên sứ Gabriel đã không gọi Mẹ bằng tên riêng “Maria”, mà gọi là “đầy ân sủng”. “Có phúc” hay “đầy ân sủng” là những lối nói mạc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa đã thực hiện điều gì nơi Đức Maria và do đó, Đức Maria đã trở nên điều gì đối với chính Thiên Chúa. Thiên Chúa đã làm cho Mẹ được tràn đầy ân phúc; Người đã ban cho Mẹ tất cả vẻ duyên dáng nhờ những ân điển của Người; Người đã làm cho Mẹ trở thành vô cùng đáng yêu trong mắt Người; và vì vậy, ân huệ của Người và tình yêu của Người luôn hướng về Mẹ; Người bị hấp dẫn bởi vẻ duyên dáng của Mẹ, vẻ duyên dáng do chính Người tạo nên bằng các ân huệ thiêng liêng của Người. Đức Maria đã xứng đáng được Thiên Chúa lưu tâm và yêu mến. Thiên Chúa làm cho Mẹ được tràn đầy ân phúc, đến nỗi tình yêu và sự quan tâm của Người lại bị thu hút bởi chính vẻ duyên dáng của Mẹ, vẻ duyên dáng mà ân sủng của Người đã làm nên.
Và đó thực sự là một mầu nhiệm của mối tương quan giữa Thiên Chúa với Đức Maria: làm sao Thiên Chúa vĩ đại vô biên và toàn năng khôn lường, lại đã nghiêng mình một cách đặc biệt như thế trên cô thôn nữ Nadarét và đã làm cho cô thôn nữ ấy trở nên xứng đángvới tình yêu của Người như vậy ?
Về phần mình, Đức Maria đã ứng đáp với tình yêu vô cùng đó của Thiên Chúa bằng một Lòng Tin tuyệt vời: Mẹ đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với Mẹ ( c. 45 ). Thái độ trước hết và trên hết của Mẹ là thái độ của một người tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa. Mẹ đã đón nhận lời Thiên Chúa với tất cả lòng tin. Mẹ hoàn toàn tin tưởng vào quyền năng và lòng trung tín của Thiên Chúa. Mẹ thực hiện sứ mạng của mình trong lòng tin. Chưa hiểu được tất cả, chưa khám phá được tất cả, chưa nhận biết được tất cả, nhưng Mẹ hoàn toàn tin vào lời Thiên Chúa, tin vào tình yêu Thiên Chúa, tin vào quyền năng Thiên Chúa.
Tóm lại, trong bài Tin Mừng hôm nay, lời tung hô của bà Êlisabét đã khắc hoạ cho chúng ta những đường nét chính yếu trong dung mạo của Đức Maria: “Đấng được chúc phúc”, “Thân Mẫu của Đức Chúa”, “Đấng có phúc” “Đấng hoàn toàn tin vào Thiên Chúa”.
Trong tư cách là Đấng được chúc phúc, Đức Mẹ nói cho chúng ta biết rằng Đấng mà Mẹ sắp sinh ra cho nhân loại chính là Sự Sống Thần Linh, là Con Thiên Chúa làm người để đem lại cho chúng ta sự sống viên mãn của chính Thiên Chúa.
Trong tư cách là Thân Mẫu của Đức Chúa, Đức Mẹ nói cho chúng ta biết rằng Đấng mà Mẹ sắp sinh ra cho nhân loại chính là Đức Vua Mêsia và là Con Thiên Chúa, Đấng cầm quyền sinh tử.
Trong tư cách là Đấng tràn đầy ơn phúc, Đức Maria nói cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa vĩ đại vô biên và toàn năng khôn lường đang nhìn đến nhân loại với tất cả sự ưu ái của Người, mà vì thế, Người đã làm cho Mẹ trở thành cung lòng tuyệt vời để Con Thiên Chúa ngự đến khi viếng thăm nhân loại.
Trong tư cách là một con người hoàn toàn tin vào Thiên Chúa, Đức Maria nói cho chúng ta biết rằng Lòng Tin chính là điều căn bản và chính yếu mà chúng ta phải có khi đón Con Thiên Chúa nhập thể cứu độ nhân loại.
Lm. NGUYỄN THỂ HIỆN, DCCT

Tuesday, 25 December 2012

Lm Vĩnh Sang CSsR: Chúa Làm Tất Cả



CHÚA LÀM TẤT CẢ !

Gần đây tôi có tham gia vào một công trình khoa học kỹ thuật khá lớn. Vì qui mô lớn của công trình, chúng tôi phải tìm kiếm những chuyên viên có trình độ và kinh nghiệm trong nhiều lãnh vực để cộng tác.
Vì là công trình của Giáo Hội nên thường thì các cộng tác viên sẽ phải là người Công Giáo, không phải chúng tôi có sự phân biệt gì giữa lương với giáo, nhưng trong quá trình nghiên cứu và sáng tác, vai trò Lòng Tin đóng một vị trí quan trọng cùng với những kiến thức cần thiết về tôn giáo, không kể trong khi làm việc sinh hoạt với nhau, đồng đạo sẽ dễ nói chuyện và dễ tổ chức chương trình chung hơn. Dù vậy, cũng có một vài lãnh vực không nhất thiết phải là người có Lòng Tin mới làm được, vì nó đơn thuần khách quan khoa học.
Có một vị tiến sĩ khoa học rất trẻ, tốt nghiệp từ nước ngoài về, làm giảng viên của một trường đại học công uy tín trong cả nước, anh không phải là Công Giáo nhưng lại nhận lời cộng tác với chúng tôi. Anh không tham gia từ đầu ( đã ba năm nay ) nhưng chỉ tham gia khi công trình bước vào phần chuyên môn của anh. Chúng tôi quen nhau và làm việc với nhau đến nat cũng gần tròn một năm.
Trong một chuyến đi khảo sát vùng cao nguyên, chúng tôi được Đức Cha Kontum tiếp đặc biệt, sau buổi nói chuyện, khảo sát công trình và bữa ăn, Đức Cha có biếu đoàn chúng tôi mỗi người hai cuốn sách về công cuộc truyền giáo ở Giáo Phận Kontum.
Lưu lại Kontum và Pleiku hai ngày, trên đường ra phi trường trở lại Sàigòn, anh hỏi tôi nhiều điều về những vấn đề tôn giáo, tôi ngạc nhiên về những câu hỏi này, anh cho biết hai ngày qua, từ khi được Đức Cha tặng sách, anh đã đọc ngay và đọc xong trọn vẹn hai cuốn sách ấy, trong khi cũng hai cuốn sách này vẫn còn nằm nguyên trong balô của tôi và của mọi người “có đạo” trong đoàn, chưa ai mở ra đọc và đọc tới nơi tới chốn như anh. Tôi e rằng tính đến hôm nay đã hai tháng, chắc cũng chưa có ai đọc hết hai cuốn sách đó ngoại trừ anh.
Cách đây hai ngày khi chúng tôi cần phải làm việc với nhau, một ngày làm thí nghiệm, mọi việc êm ả trôi qua, kết quả khả quan. Hôm sau, chúng tôi ngồi làm việc trong phòng, bầu khí căng thẳng, nhiều tranh cãi và nhiều bất đồng. Khi trời đã xế chiều, tôi mệt mỏi tỏ vẻ thất vọng và buồn phiền về những kết quả ít ỏi trong ngày, anh nhìn tôi và nói với mọi người: “Cha đừng lo, Chúa sẽ giải quyết hết cho chúng ta”. Tôi ngạc nhiên về lời nói của anh, một cộng tác viên duy nhất trong nhóm là người không Công Giáo, một cộng tác viên duy nhất nói lời… phó thác cho Chúa ! Anh, một người bị coi là “ngoại đạo”, chứ không phải là tôi, một Linh Mục Công Giáo.
Chiều tối ấy, trên bàn ăn vui vẻ với nhau, một cộng tác viên Công Giáo nói với tôi: “Từ hôm qua đến hôm nay, con đếm được hắn nói đến năm lần câu: Chỉ có Chúa làm được thôi ! Và cũng chỉ có mỗi mình anh ta nói câu ấy !”
Từ ngày làm việc với nhau, máu nhiệt thành tự nhiên khuyến khích tôi tìm cách giới thiệu Đạo với anh, tôi mong muốn qua cơ hội này anh biết Chúa và tôi cũng nhớ cầu nguyện cho anh nữa. Nhưng bất ngờ hôm nay, anh củng cố niềm tin của tôi, anh truyền cho tôi và những anh chị em “có đạo” niềm tin của anh, niềm tin rất đơn giản và nguyên sơ, niềm tin chưa hề qua Bí Tích. Tôi tự hỏi “Ai truyền niềm tin cho ai ?”
Một lần nữa trong nhiều lần, tôi có bài học Chúa làm tất cả ! Chẳng phải tôi, chẳng phải ai, mà là Chúa, Chúa làm việc của Chúa. Đừng ai nghĩ là chính mình làm, đừng ai tự hào vô duyên, kiêu căng lố bịch, vênh vang như là không hề chịu lấy !
Bài học Máng Cỏ là bài học gì trong Mùa Giáng Sinh này ?
Lm. VĨNH SANG, DCCT, 22.12.2012

Cố Lm Chân Tín CSsR: Nói cho con người (19)



Nói cho con người (Thư Cần Giờ 1990-1993):  


VRNs (21.12.2012) - Sàigòn - Cần Giờ 16/10/1990

Anh Lan mến,
Chúng ta mừng đầy tháng bị quản chế và lưu đày. Tôi nhớ ngày “lên xe hoa” có 5 công an làm “phù rể” đưa về Duyên Hải “hưởng tuần trăng mật với Nhà nước” trong 3 năm. Mình chào mọi người, nụ cười trên môi và lòng đầy hân hoan, như các tông đồ bị tên vua bù nhìn Hêrôđê tống giam vì danh Chúa Kitô.

Nhân dịp này, tôi đọc lại lời thú nhận của mục sư Martin Niemoller mà lòng mình vừa vui vừa buồn. vì các vị lãnh đạo tôn giáo đã thiếu can đảm như mục sư. Nhưng mục sư đã sám hối, đã thú nhận sự hèn nhát của mình. Còn các vị của ta trong Giáo hội của ta thì chưa! Mục sư nói:
“Lúc bọn đức Quốc xã bắt đầu bỏ tù những người cộng sản, tôi đã im lặng, vì tôi không phải là người cộng sản. Tôi tiếp tục giữ im lặng, khi người ta bắt giam những người xã hội dân chủ, vì tôi không phải là người xã hội dân chủ. Khi người ta bắt bớ người công giáo, tôi cũng không phản đối, vì tôi không phải là người công giáo. Và lúc họ giam tôi, thì ở nước Đức, không còn tự do và nhạy cảm để phản đối” (Temps nouveaux, 10/9/1990)

Khi người cộng sản bị bắt giam và bị tra tấn, anh em ta đã lớn tiếng phản đối bằng những cuộc xuống đường, thăm nuôi tù chính trị, viết bài trên tạp chí Đối Diện, bị đưa ra tòa biết bao lần và tôi với tư cách chủ nhiệm, bị lên án năm năm cấm cố và báo Đối Diện bị đóng cửa vĩnh viễn.

Sau ngày chế độ xã hội chủ nghĩa được thiết lập ở miền Nam, anh em ta cũng đã phản đối những vi phạm nhân quyền mà vì thế, anh bị quản chế tại gia, còn tôi bị đày ra Duyên Hải và quản chế tại xã Cần Thạnh.

Như vậy là chúng ta đã thực thi chức năng ngôn sứ của người Kitô hữu và đã không im lặng trước bất công của bất cứ chế độ nào. Đó là niềm vui và hãnh diện của anh em ta. Hãnh diện chứ không tự kiêu, tự mãn, ví đó cũng là ân huệ của Chúa, đó là sức mạnh của Thánh Linh. Nhưng đồng thời cũng là nỗi buồn của chúng ta, buồn trước “sự im lặng đáng sợ” của những vị lãnh đạo trong Giáo Hội. Chúng ta cầu nguyện cho Giáo Hội, cầu nguyện cho các vị lãnh đạo Giáo Hội được sức mạnh của Thánh Linh, hầu đủ can đảm phá “sự im lặng đáng sợ” kia.

Thái độ của nhà văn Soljnitsyne cũng trong ý hướng trên. Khi Gorbatchev trả lại quốc tịch lại cho nhiều nhân vật đã bị lên án một cách bất công bằng cách phao vu cho họ những tội như phản quốc, vợ nhà văn đã nói: “Bao lâu Viện Kiểm sát LX chưa từ bỏ điểm chính để buộc tội ông là phản quốc và bao lâu Đoàn chủ tịch Xô Viết tối cao chưa nói lên rõ ràng thái độ của họ với sắc lệnh ngày 13/2/1974 về việc trục xuất ông Soljnitsyne, thì không có vấn đề trả lại quốc tịch cho ông”.

Hôm công an thành phố xuống Duyên Hải làm việc với tôi và đọc nghị quyết lần thứ hai của ủy ban Nhân dân Thành phố, tôi đã có nói với họ, cũng như anh đã nói trên Sài Gòn với CA ngày 16/5/1990, là tôi không chấp nhận lý do đưa ra và để đày và quản chế tôi: họ vu cáo tôi vi phạm an ninh quốc gia, chia rẽ tôn giáo... Soljnitsyne đã không chấp nhận sự khoan hồng, khi người ta trả quốc tịch cho ông mà chưa nhìn nhận ông ấy vô tội. Khi trả lời cho công an như trên, chúng ta cũng có một lập trường như Soljnitsyne.

Gửi lời thăm chị Thanh Vân và hôn bé Lan Chi, bé Châu. Hôm chị xuống cùng bạn bè thật vui, nhất là đối với “Incident Nguyễn Viết Khai”. Chắc chị đã kể cho anh nghe. Lại một kích thích tố! Anh em cầu nguyện cho nhau.

                                                                                                Lm. Chân Tín
                                                                        (NKNNL 1990-1991, trang 134-135)

Monday, 24 December 2012

Lm Frank Doyle sj: “Có lời buồn, vọng theo hồi chuông đổ”



“Có lời buồn, vọng theo hồi chuông đổ”
Tháng mười hai, ai còn có chờ ai?
Tình yêu buộc giữa hai đầu nỗi nhớ
Giọt mưa rơi hay những giọt lệ dài...
(thơ Trần Tường Vi)
Ga 1: 1-18
            Tháng mười hai, có lời buồn. Hồi chuông đổ. Ngày Giáng hạ, có Chúa về. Lời nhập thể. Lời nhập thể, khởi đầu từ hừng đông buổi trần thế. Khởi đầu, có thánh sử ghi Lời Chúa. Rất trọn vẹn.
            Trình thuật Lời Chúa ngày Giáng hạ, thánh sử Gioan ghi đậm nét gốc-nguồn của chính Chúa. “Lúc khởi đầu”, vẫn vang vọng Lời Đầu sách Khởi nguyên, Sáng Thế Ký. Ở nơi đây, thánh Gioan nói về một “khởi đầu” sớm sủa hơn. Lúc khởi đầu, không có nguồn ngọn đầu giây mối, nhưng đã trải dàn vô vàn chốn miên trường, là chính Chúa.
            Thông thường ở đời, người người hay dùng lời để trao đổi. Rất nhiều kiểu. Có kiểu hời hợt, bề ngoài. Có kiểu sâu sắc, có tính xây dựng. Yêu thương. Giùm giúp. Cũng có kiểu, chỉ phá hoại. Gây chán nản nản, đầy lạm dụng. LỜI nhập thể, thì khác. LỜI, không chỉ đổi trao, những ý kiến. Lời năng động. Đem mọi sự đưa vào hiện hữu. Những hiện hữu bắt nguồn từ Lời Ngài.  
            Lời người đời, chỉ là những trao đổi giữa người nói. Nói, rất nên lời. Không chỉ miệng môi. Nói, bằng toàn thân xác. Đó là ý nghĩa của điều ta vẫn bảo: đấy là ngôn ngữ của thân xác. Ta trao đổi bằng lời rất kết quả, mà chẳng cần nói lời nào. Vẫn lặng thinh, như tình đã đặng. Nói bằng mắt. Bằng diện mạo. Nụ cười. Vui tươi. .  
            LỜI Chúa là Ngài biểu lộ điều gì đó, về Ngài. Ta thấy được,  qua sự việc xảy đến với thế giới quanh ta. Do Ngài tạo. Như nhận định của nhà thơ nọ, có viết: “Thế giới nạp điện bằng sự cao cả của Thiên Chúa.” Sống ở môi trường linh thánh, ta hít thở bằng khí thiêng liêng. Rất Thánh. Hôm nay, ta mừng kính Lời Chúa thẩm nhập vào với thế giới theo cung cách rất khác biệt. Lời Chúa mặc lấy xác phàm như ta. Có thân xác như ta. Chia sẻ niềm vui/nỗi buồn, như ta.
            Mặc lấy xác phàm, Lời Chúa đã nên hữu hình, khiến ta nhận ra được Ngài. Và hiểu Ngài, nhờ Đức Giêsu, Lời Chúa trở thành cầu nối giữa thân tâm ta với Ba Ngôi Đức Chúa, như thánh Gioan, từng viết:”Điều chúng tôi thấy và nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, và ta hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người.” (1Ga 1: 4)
            Hai chủ đề thánh Gioan ghi ở Tin Mừng hôm nay, là: Lời Chúa ban sự Sống và sự Sáng. Ngài có nói “Tôi là Sự Sống và sự Sống Lại.” Ngài đem lại sự sống, cách trọn vẹn. Sự sống Ngài ban, không chỉ là sự sống theo nghĩa sinh lý, Mà là, sự sống trọn vẹn của con người. Thông thường, ta chỉ sử dụng có 10% khả năng sống vẫn tiềm ẩn, trong mỗi người. Tony de Mello có lần viết: “Phần lớn thời gian sống ở đời, ta chỉ sống có một nửa. Hoặc, có sống nhưng lại như những người đã và đang chết dần.”
            Chúa nói: Ngài là Ánh Sáng thế gian. Và, chủ đề về Sự Sáng với tối tăm được thánh sử Gioan lặp đi lặp lại rất nhiều lần, trong Tin Mừng. Thánh nhân lặp lại, để nói rằng: Đức Giêsu đem ánh sáng vào với tối tăm, nơi con người. Chúa là Đường, là Sự-Thật-Toàn-Vẹn và là Sự Sống. Tràn đầy. Chúa ban cho ta thị kiến sống động, tức khả năng thấy được nhiều điều, qua tối tăm. Thấy, để ta lên đường vào với thế giới của xác thịt, có ánh sáng.
            Cũng giống ngày ở Bê Lem, thôn làng nhỏ bé cách nay hơn hai ngàn năm, hôm nay Chúa vẫn ở với thế gian, chốn tối tăm. Do tăm tối, thế gian vẫn chưa biết Ngài. Thế gian vẫn là chốn miền của tăm tối. Của, bạo lực. Hãi sợ. Bởi thế nên, người đời chưa biết san sẻ thị kiến sống động, từ nơi Ngài. Với Ngài. Bởi thế, thánh Gioan mới thêm: “Ngài đã đến với nhà mình. Nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.” (Ga 1: 11) Người nhà hôm trước, là Do thái. Người nhà hôm nay là ta người Công giáo?
            Là người nhà của Chúa, ta được tháp nhập vào Thân Mình Ngài. Cùng tin và gọi Chúa là Cha. Cha ơi! Là người nhà của Chúa, không cần phân biệt chủng tộc, tôn giáo. Đã rửa tội, hay chua. Người nhà của Chúa, là tất cả những ai thẩm nhập vào với sứ vụ Lời Chúa. Nơi Đức Giêsu. Rõ ràng Lời Chúa đã vào với nhân trần, có xác phàm. Tội lỗi.
            Với những ai có mắt để thấy, sẽ nhận biết vinh quang của Lời Chúa đang thể hiện nơi Đức Giêsu, như bài đọc 2 hôm nay, tỏ bày: “Ngài là phản ảnh của vinh quang, là ấn tượng của bản thể Thiên Chúa.” (Dt 1: 3) Hợp lòng với thánh Phaolô, thánh giáo phụ Irênê, cũng có nói: “Vinh quang củ Thiên Chúa, là bản thể sống động, rất trọn vẹn.” Điều này áp dụng với mỗi người chúng ta, sao lại không thể áp dụng với Ngôi Lời mặc lấy xác phàm?
            Quả thật, nếu chỉ chú trọng đến Bản vị của Chúa thôi, ta sẽ không nhận ra vinh quang của Thiên Chúa, nơi Ngôi Lời trọn vẹn. Đó là điều, mà con người không thể rút kinh nghiệm từng trải nơi cuộc sống. Vinh quang của Lời có xác phàm loài người che phủ. Nhờ có thế, người người được chung phần vinh quang của Chúa, qua đặc trưng của thân xác, tức lời nói. Đó cũng là ý tưởng mà thánh Phaolô muốn nói qua hình ảnh tấm gương, ta nhìn vào. Nhìn, để biết là ta có hình ảnh bất toàn cần gia tăng niềm tin tưởng, được giống Chúa.    
              Giống Chúa, vì Lời-mặc-xác-phàm, bao gồm trọn vẹn “ân sủng và sự thật”. Nhờ ân sủng và sự thật, ta được mời để sẻ san vinh quang của Chúa. Như các thánh xưa vẫn nói: “Nhờ sự vẹn toàn ta nhận từ Chúa, hết ân sủng này đến ân sủng khác… Ân sủng và sự thật ta đạt được qua Ngôi Lời, Đức Giêsu Con Thiên Chúa Hằng Sống.” Qua ân sủng, ta nhận ra tình thương vô điều kiện của Chúa, vẫn đổ tràn trên ta, bằng nhiều cách. Nhờ sự thật, ta được trọn vẹn thị kiến sống, đến từ Chúa. Thị kiến Chúa dựng nên ta. Ban cho ta, ngang qua Đức Giêsu.
            Mùa Giáng Sinh, ta hãy cố mà đếm mà đong các ân sủng mình nhận được. Vào mùa Giáng Sinh, ta cũng cầu mong sao vẫn cứ lĩnh nhận tràn đầy mọi ân sủng và sự thật, từ Thiên Chúa. Lĩnh nhận vào tháng ngày đang từ từ đến. Cầu mong sao, ân sủng và sự thật của Chúa sẽ giúp ta đến với mọi người. Để sẻ san sự bình an và hạnh phúc, Lời mang đến.
            Trong tình thần hân hoan ấy, ta hợp cùng mọi người hát lên lời ca đầy phấn chấn, rằng:

                        “Ngày đó có ta mơ ân tình dài
buồn thắm nét môi duyên chưa thành lời
một thoáng mơ rồi
người về không nguôi
người về không nguôi...” (Thanh Trang – Duyên Thề)

            Mơ ân tình dài, xưa đã có. Mưa ân tình dài, nay vẫn về. Mưa ân huệ, hay mưa sự thật vẫn cứ về với dân con Chúa. Vì, Lời Chúa nay mặc xác phàm, làm người. Để người người sống mãi trong niềm tin. Có thương yêu. Ân huệ. Sự thật.