Wednesday, 6 February 2008

Khi các bác tài - Nguyễn Ngọc lan Chi

Khi các bác tài

bỏ tay lái

để… xuống đường

Ngyễn Ngọc lan Chi

Pháp vốn nổi tiếng quán quân thế giới về… đình công, biểu tình với những đợt « xuống đường » qui tụ hàng triệu người như vào tháng 5 năm 1968 hay gần đây nhất là làn sóng chống điều luật lao động CPE vào tháng 3, tháng 4 năm 2006, từng làm chao đảo chiếc ghế quyền lực của cựu thủ tướng D.Villepin. Trong số các ngành thích « tay giương biểu ngữ, miệng hô khẩu hiệu » thì ngành giao thông công cộng thuộc vào hàng « top » và những lần họ rục rịch kéo nhau xuống đường, người dân xứ sở hình lục giác lại một phen khốn đốn…

1. Ngày của chờ đợi, chen lấn và kẹt xe !

Ngày 18.10.2007 vừa qua là một ngày rất… không bình thường đối với người Pháp : hoặc xin nghỉ phép hoặc bắt đầu một ngày làm việc từ rất sớm để có dịp thử thách lòng kiên nhẫn của mình. Từ trước đó vài ngày, các công đoàn ngành đường sắt và giao thông công cộng đã « đánh tiếng » : « Ngày 18.10, hoặc bạn ở lại nhà hoặc bạn sắm một đôi giày thật tốt để… đi bộ ». Toàn bộ 8 công đoàn của SNCF (Société nationale des chemins de fer français : Công ty đường sắt quốc gia), 6 trong tổng số 8 công đoàn của RATP (Régie autonome des transports parisiens : Công ty tự chủ giao thông tại Paris), cùng với các công đoàn của ngành năng lượng (điện, gaz) là những nhân tố chính của cuộc đình công, biểu tình ngày 18.10. Đây là những ngành nghề chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi dự luật cải cách « chế độ đặc biệt » do Bộ trưởng Bộ Lao động, Quan hệ Xã hội và Liên đới Xavier Bertrand vừa trình bày vào ngày 10.10.

73,5% nhân viên của SNCF, trong đó có 90% các bác tài đã đáp lại lời kêu gọi của các công đoàn. Một con số kỷ lục gây ảnh hưởng đến hơn 30 tỉnh thành của Pháp mà đặc biệt là Paris và các vùng ngoại ô. Theo thống kê hoạt động của RATP, trong năm 2006, mỗi ngày các phương tiện giao thông công cộng đã chuyên chở 10 triệu lượt hành khách tại Paris. Với hệ thống « chằng chịt » métro (tàu điện ngầm), xe bus, tramway (tàu điện) đi trong khu trung tâm thuộc quản lý của RATP cùng hệ thống tàu đi về phía ngoại ô thuộc SNCF, phần lớn người dân sống hoặc làm việc tại Paris đều xem các phương tiện giao thông công cộng là phương thức đi lại chính. Vì vậy, khi RATP và SNCF « sát cánh » cùng nhau để đình công thì Paris kẹt cứng !

Chưa đến mức làm cho toàn nước Pháp « tê liệt » suốt 3 tuần lễ như vào tháng 12.1995 trong đợt đình công toàn quốc của nhiều ngành (SNCF, RATP, bưu điện, giáo dục, kiểm soát không lưu…) chống lại dự luật về cải cách các chế độ xã hội của cựu Thủ tướng Alain Juppé, nhưng ngày 18.10 vừa qua đối với nhiều người dân Paris quả là « địa ngục giữa trần gian ». Khốn khổ nhất là những người sống ở ngoại ô nhưng làm việc tại Paris, từ nhà đến nơi làm việc cách nhau vài chục cây số. Các đường tàu RER chạy về phía ngoại ô hoặc hoàn toàn không có hoặc chạy với tần suất… 1/10, métro thường ngày giờ cao điểm cứ 1 phút có 1 chuyến nay thành nửa tiếng 1 chuyến, mà chỉ một số trong tổng số 14 đường métro tại Paris chịu hoạt động. Các chuyến tàu cao tốc TGV đi các tỉnh thành hoặc sang các nước lân cận cũng chỉ có 46 chuyến hoạt động so với 700 chuyến của những ngày khác! Chờ đợi mòn mỏi hàng giờ đồng hồ để rồi khi những chuyến tàu hiếm hoi xuất hiện, cầu quá tải so với cung, mọi người lại hè nhau chen lấn kiếm một chỗ « nhón » trên tàu. Paris vào giữa thu bắt đầu trở lạnh, nhưng nhiệt độ tại các nhà ga và trong các chuyến tàu « nóng » như một ngày hè tháng 7, nóng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.

Do đình công có thông báo trước nên trên mạng Internet, một số nhóm lại tổ chức… đi làm chung. 4, 5 người có chỗ làm gần nhau hoặc thuận tiện đường đi sẽ họp thành một nhóm, do một người trong số họ dùng xe của mình đưa tất cả « đi đến nơi về đến chốn ». Những người này có thể hoàn toàn chưa hề quen biết nhau trước, nhờ đình công mà có cơ hội… kết giao bạn bè. Tuy nhiên, những chuyến xe « liên đới » này cũng phải khởi hành từ rất sớm, khoảng 4, 5 giờ sáng (ngày làm việc ở Pháp thường bắt đầu từ 9 giờ) vì vào những ngày giao thông công cộng đình công, việc kẹt xe hàng trăm cây số xung quanh Paris là hết sức bình thường…

May mắn nhất là những người sống không quá xa nơi làm việc của mình, đi bộ là thượng sách ! Dịch vụ Vélib’ (Vélo en libre-service : dịch vụ xe đạp tự do) của tòa Thị chính Paris mở từ giữa tháng 7 vào ngày đặc biệt này cũng trở nên quá tải. Muốn kiếm được xe và đảm bảo được một chỗ trả xe tại trạm gần nơi làm việc của mình, dậy sớm là một điều kiện không thể bỏ qua !

2. Cải cách « chế độ đặc biệt », nước cờ liều của Bộ trưởng Bertrand

Không chỉ đình công, hơn 300.000 người trên toàn nước Pháp đã xuống đường ngày 18.10 để phản đối dự luật cải cách lại chế độ đặc biệt của Bộ trưởng Bertrand. Chế độ đặc biệt là những ưu đãi về việc hưu dưỡng dành cho một số ngành nghề được đánh giá là nặng nhọc như giao thông công cộng (SNCF, RATP), năng lượng (điện, gaz), sân khấu, hầm mỏ, hàng hải (các thủy thủ)… Có thể kể ra một số điểm chính : độ tuổi về hưu sớm hơn, trung bình 55 tuổi (sớm hơn 5 năm so với mức bình thường), đặc biệt nghề lái tàu được về hưu ở tuổi 50 ; thời gian trả thuế để hưởng mức lương hưu tối đa ngắn hơn (37,5 năm so với 40 năm) ; mức lương hưu được tính theo 6 tháng cuối (RATP), tháng cuối (các ngành năng lượng) nghĩa là rất lợi thế so với các công ty tư nhân (lương hưu tính theo mức lương trung bình của 25 năm)…

Chế độ đặc biệt hiện ảnh hưởng đến 1,6 triệu người, trong đó có đến 1,1 triệu người về hưu và chỉ có 500.000 người hiện còn đang làm việc. Mất cân bằng như thế nên mỗi năm Nhà nước phải bù lỗ 5 tỷ euros (riêng cho SNCF là 2,8 tỷ euros). Một mặt khác, theo quan điểm của chính phủ, lý do tồn tại của « chế độ đặc biệt » đối với một số ngành hiện đã không còn phù hợp. Tiêu biểu là chế độ đặc biệt của ngành đường sắt ra đời từ năm 1909, khi ấy tàu chạy bằng than, phải thường xuyên hít thở bụi than độc hại và lao động tay chân nặng nhọc (bỏ than vào lò) nên tuổi thọ trung bình của các lái tàu vào thời điểm ấy chỉ được 51 tuổi. Đó là chuyện của một thế kỷ trước, Bộ trưởng Bertrand đã trình dự luật cải cách lại một số điểm của chế độ đặc biệt, chuyển độ tuổi về hưu thành 60 tuổi, thời gian đóng thuế cho việc hưu trí là 40 năm và mức lương hưu được tính tỷ lệ theo 6 tháng cuối cùng. Tuy nhiên, những công nhân hầm mỏ và các thủy thủ được ở ngoài « tầm phủ sóng » của điều khoản tăng thời gian đóng thuế lên 40 năm.

Có thể nói đây là một nước cờ khá liều lĩnh của Bộ trưởng X.Bertrand vì những cải cách nhằm vào chế độ đặc biệt vốn « đụng chạm » đến ngành giao thông công cộng, ngành có khả năng làm « tê liệt » đất nước một khi họ đình công. Tuy nhiên, sự liều lĩnh của ông Bộ trưởng là có cơ sở vì ông được hậu thuẫn hoàn toàn của Thủ tướng F.Fillon và Tổng thống N.Sarkozy. Mặt khác, không như năm 1995, cuộc đình công và biểu tình lần này không được sự ủng hộ của đại đa số dân chúng vì người Pháp phần đông cũng cảm thấy những mặt bất cập của chế độ đặc biệt. Trong chương trình tranh cử Tổng thống vào tháng 5, Tổng thống Sarkozy có khẳng định việc cải cách chế độ đặc biệt một khi ông đắc cử và các cư tri vẫn bỏ phiếu cho ông.

Ngày 18.10 đối với các công đoàn ngành giao thông công cộng được xem là thành công bước đầu, và nếu những buổi đàm phán sắp tới với Bộ trưởng Bertrand không đạt được kết quả như mong muốn, mùa thu năm nay của nước Pháp ắt hẳn không chỉ có lá vàng rơi…

Nguyễn Ngọc Lan Chi

Monday, 4 February 2008

Hai vụ tòa Khâm sứ và giáo xứ Thái Hà

Hai vụ tòa Khâm sứ

và giáo xứ Thái Hà:

sơ lược, trích dẫn.

Có th sơ lược các diễn biến hai vụ này qua ba giai đoạn chính như sau :

- giai đoạn một : Vào khoảng giữa tháng 12.2007, nhà cầm quyền Cộng Sản (NCQCS) địa phương Hà-nội đột nhiên gia tăng công cuộc chiếm dụng ít nhất là trên một tòa nhà và một mảnh đất thuộc Giáo hội Công giáo Việt Nam ( GHCGVN). Tòa nhà là tòa Khâm sứ ( TKS), ngày xưa nằm trong khuôn viên tòa Tổng Giám Mục ( TTGM) Hà Nội. Mảnh đất là của giáo xứ Thái Hà(GXTH) . Hai tài sản này, -như hàng chục, có thể là hàng trăm, tài sản khác của GHCG và các tôn giáo khác- đã bị NCQCS chiếm dụng ở ngoài Bắc cũng như trong Nam. Hành động gia tăng gia công đơn phương như thế nói ở đây là một sự chà đạp quyền sở hữu của GHCG và làm cho việc GH đòi lại đất và tài sản càng ngày càng trở nên mỏng manh.Trước sự kiện «leo thang» đó trong ý đồ tước đoạt luôn, tòa TGMHN và GXTH bắt buộc phải có phản ứng nếu không thì với thời gian sẽ đương nhiên mất quyền sở hữu.

*« Một bức tường ngăn cách giữa TGM và Toà Khâm sứ đã bị tịch thu được xây lên. Không biết do bên nào và từ bao giờ. Nhưng ngày trước các cụ nói không có bức tường ấy.

«Khi chúng tôi còn bé, cho đến cuối thập niên 1980, chúng tôi thấy người ta dùng làm Cung Thiếu nhi. Trong thời gian này họ xây một số công trình ở phía trước và phía sau toà nhà cũ của Toà Khâm sứ.

«Mấy năm trước đây, họ phá toà nhà phía trước, tính tái quy hoạch và xây dựng công trình gì đó. Dạo ấy, TGM Hà Nội có gửi thư đi các giáo xứ để kêu gọi giáo dân cầu nguyện. Tưởng như chính quyền sắp trả đến nơi. Các công việc sửa sang, xây dựng bị dừng lại.

«Tuy nhiên, ngôi nhà bé mới quay mặt ra phố Nhà Chung vẫn dùng làm nơi bán phở. Trong khi ngôi nhà họ xây phía sau toà nhà cũ của Toà Khâm sứ hiện vẫn là một địa điểm kinh doanh-một khu ăn chơi-tối đến điện đóm sáng choang-ồn ào và bát nháo cạnh khu vực tôn nghiêm là TGM và Nhà thờ Chính Tòa.

«Thế nhưng thời gian qua đi, chuyện vẫn dậm chân tại chỗ. Tệ hơn, từ tối 12.12, chúng tôi thấy có bắt đầu tập kết phương tiện. Từ sáng 13.12 chúng tôi thấy người ta bắt đầu ngang nhiên dỡ mái Toà Khâm sứ. Công việc đang tiếp tục đến nay là ngày 18.12. Chúng tôi chẳng biết cơ quan nào. Hỏi bảo vệ thì các anh nói không biết. Đến hôm 15 nghe thư của Đức Tổng Giám Mục Hà Nội, mới biết họ định dùng làm ngân hàng. Trong khi khoảng sân rộng phía trước Toà Khâm Sứ, người ta đã cho siêu thị điện máy Nguyễn Kim nằm ở phố Tràng Thi gần đó thuê làm bãi giữ xe. Nhưng sân rộng cỏ tốt chiều chiều người, trẻ và chó vẫn vào chơi. Buổi sáng cũng như chiều có người còn dắt chó vào “ị” ở khu vực sân xa xa giáp tường.

«Xin nói thêm, trong những năm gần đây, một cách chính thức, ngoài Giáo xứ Cửa Bắc và Thượng Thuỵ có đòi được một chút nhà đất, còn lại các chỗ khác như Toà Giám Mục, Nhà thờ Đa Minh, Nhà thờ Sainte Marie, Giáo xứ Hàm Long, Giáo xứ Thái Hà-DCCT, Giáo xứ Hàng Bột vẫn chưa đòi được tý nào. Có chỗ còn tiếp tục bị mất thêm do giới công quyền lạm dụng chức vụ chiếm dụng và hợp thức hoá trái phép.

«Chúng tôi đi qua đi lại khu vực Toà Giám Mục khá thường xuyên. Chúng tôi cảm thấy bị xỉ nhục lắm rồi! Vì nơi thánh mà bây giờ lâm cảnh “Heo rừng vào phá phách-dã thú gặm tan hoang”! Chúng tôi cảm thấy sốt ruột lắm rồi! Hãy chờ xem sự thể vụ chiếm dụng Toà Khâm sứ này diễn ra thế nào và kết cục ra sao!»

(trích bản tin Thành Tâm, Hà Nội 18.12.2007)

*«Trong lúc cả Giáo hội Việt Nam thắp nến đòi công lý tại Toà Khâm sứ, số 40 A phố Nhà Chung, Hà Nội; trong lúc Chính quyền đang có những cam kết trả lại khu vực Toà Khâm sứ, thì ngay lúc này, Chính quyền Cộng sản cử hàng trăm cán bộ, an ninh, công an 113, thanh tra xây dựng, dân phòng... làm hàng rào bảo vệ cho Công ty Cổ phần May Chiến thắng xây dựng trái phép trên khu đất của giáo xứ chúng con. Bên cạnh đó, họ còn thiết lập một hàng rào giây thép gai, được gia cố bằng một lưới thép B40. Khi giáo dân của giáo xứ đến, cán bộ, công an, dân quân đồng loạt trấn áp, đe doạ bỏ tù... khiến giáo dân Thái hà chúng con bức xúc cao độ về sự vi phạm trắng trợn này »

(trích « tiếng kêu khẩn cấp từ giáo xứ Thái Hà

Đống Đa, Hà nội – giáo dân xứ Thái Hà »)

- giai đoạn hai :

Về phía GHCG :

Để đối phó, tòa TGMHN và ban quản hạt GXTH đã:

a) kêu gọi giáo dân cầu nguyện trong an bình và rất ư trật tự tại TKS và GXTH.

b) tiếp cận trong ôn hòa và lễ độ NCQCS địa phương bằng văn thư và những cuộc thăm viếng chúc tết.

c) kêu gọi tín hữu ở xa cách hiện trường trong nước và ngoài nước hiệp thông cầu nguyện và hổ trợ truyền thông.

*«Một lối ứng xử chưa từng có trong lịch sử Giáo phận Hà Nội. Hàng nghìn người có mặt tại Toà Khâm Sứ trong đêm. Thắp nến hát thánh ca cầu nguyện đòi công lý.

« Lời Kinh Hoà Bình của ca đoàn tổng hợp trong đêm Hát lên mừng Chúa vừa dứt trong tiếng vỗ tay, thì tiếng một cha nào đó vang lên trên hệ thống tăng âm có vẻ vừa ngọt ngào và hiền hoà, vừa nghiêm trọng và quyết liệt. Ngài nói đến việc đòi đất Toà Khâm Sứ theo nội dung của bức thư chung của Đức Tổng Giám Mục gửi cộng đồng dân Chúa ngày 15.12 vừa qua.

«Lúc đó là 22 giờ 6 phút.

«Kết thúc ngài nói: “Để các cấp chính quyền sớm giải quyết đúng với mục tiêu công bằng, văn minh, trên đường ra về, chúng ta hãy hướng về Toà Khâm Sứ. Xin tất cả hãy đi hàng đôi hướng về Toà Khâm sứ và đọc kinh cầu nguyện.”- Tôi đang mải chạy cho nên nhớ không chắc đúng từng từ.

«Tức thì tôi thấy một đoàn rước đông đảo. Thánh giá nến cao đi đầu. Theo sau là một đoàn người đông đảo. Khoảng hơn 2000 người. Có linh mục, tu sĩ, chủng sinh, giáo dân. Trong và ngoài giáo phận. Cả cán bộ nữa có lẽ. Vì vừa có buổi trình diễn thánh ca và khách tham dự thuộc nhiều đối tượng và đến từ nhiều giáo phận Miền Bắc. Tất cả trong trang phục lễ hội. Từ sân Đại Chủng viện đoàn người đi qua khu vực Toà Giám Mục tiến thẳng sang sân Toà Khâm sứ, nơi đang bị chiếm dụng bất công và bất hợp pháp từ gần nửa thế kỷ nay. »

(trích bản tin «Hà nội thắp nến đòi công lý»,Thành Tâm)

*«Tối nay, vào lúc 19giờ30, sau thánh lễ, khoảng hơn 3000 giáo dân giáo xứ Thái Hà đã tiếp tục thắp nến đòi công lý, tại khu đất mà sáng nay Chính quyền Cộng sản dàn quân hỗ trợ cho Công ty Cổ phần May Chiến Thắng xây dựng trái phép trên khu đất của Dòng Chúa Cứu Thế.

«Chúng tôi nhận thấy giáo dân Thái Hà trên cả tuyệt vời, một lòng một ý, một niềm tin tưởng sắt son vào tình thương Chúa cao vời.

«Cũng nên biết, chiều nay, hơn 1000 em thiếu nhi đã sang tận khu đất để dâng lời cầu nguyện cho Nhà Dòng. Lời kinh hoà bình vang lên từ đôi môi trẻ thơ mới thấy đẹp và xúc động dường nào. Tôi không biết những vị công an hiện diện ở đấy nghĩ gì, chỉ biết rằng một chiến sĩ công an đã thuê một người bán báo dạo 50.000 đồng, để người này, quay loa về phía các em, mở hết công xuất các bài hát ca ngợi Đảng và Bác. Thật đau xót dường nào. Một cách hành xử thiếu yêu mến vị lãnh đạo đáng kính Hồ Chí Minh. Chắc các chiến sĩ công an nghĩ rằng, các em thiếu nhi, suốt bao năm qua, trong nhà trường, đã bị bắt học cho thuộc những bài hát này, nên muốn dùng các bài hát ấy gây nhiễu lời cầu nguyện của các em. Nhưng, họ đã lầm. Thay vì, bị quấy nhiễu; thay vì lời kinh bị ngắt quãng, các bài hát ấy vô tình lại làm cho các cháu thiếu nhi được thêm sức mạnh. Vì lòng yêu mến bác Hồ, các em càng ra sức cầu nguyện.»

(trích bản tin » Hà Nội, đêm 6/1/2008 , An Dân »)

Về phía NCQCS :

Nhanh như chớp, NCQCS đã nổ « súng hạng nặng» sau đây :

a) gửi văn thư cáo buộc nhiều thứ tội tòa TGM và GXTH.

b) ra lệnh cho báo chí, đài truyền hình nhà nước xuyên tạc bôi nhọ không gớm miệng gớm tay.

c) thả các lực lượng công an nổi chìm trấn áp tại hiện trường với máy quay phim, lời dọa nạt…

*«Những người tham gia cầu nguyện đòi đất, có một số đã bị áp lực trực tiếp hay gián tiếp. Một số học sinh đi học ở trường bị một số bạn nói rằng nếu bạn cứ đi cầu nguyện ở bên khu đất Nhà Thờ thì sẽ bị đuổi học. Một số cô giáo nói rằng các em học sinh cứ đi cầu nguyện thế thì sẽ học dốt. Một số Giáo Dân phục vụ đắc lực thì bị de doạ đến chức vụ và công ăn việc làm ở cơ quan.

«Một số anh chị em xa quê đi cầu nguyện bị chủ nhà cấm cản và bị đe doạ đuổi khỏi nhà trọ. Nghe nói là họ bị tổ trưởng dân phố và Công An khu vực đến làm việc. Tuy nhiên, khi cha Giám Tỉnh và Cha Phó Giám Tỉnh truyền cho Giáo Xứ chúng con mở cửa nhà nguyện Giêrađô để đón tiếp những anh chị em này trong trường hợp bị chủ nhà đuổi không cho tạm trú vì áp lực của Công An hay tổ dân phố, thì các anh chị em này không sợ nữa. Họ tiếp tục đi ngủ đêm tại hiện trường, vì thấy mình được bảo vệ và nâng đỡ. »

(trích «báo cáo của giáo xứ Thái Hà-Hà nội 23.1.2007 », lm. Giuse Trịnh Ngọc Hiên,bề trên chính xứ)

* Cổng Toà Khâm Sứ nay đã được bảo vệ mở sẵn. Ai tinh mắt thì thấy các bảo vệ hôm nay đội mũ đeo băng đỏ trông rất lịch sự, khác hẳn mọi ngày. Hình như họ mặc đẹp hơn để cùng mừng lễ Chúa Giáng Sinh với giáo dân? Chúng tôi không nghĩ vậy. Vì chúng tôi thấy các nhân viên bảo vệ hôm nay không phải là các anh bảo vệ hằng ngày của cơ quan dịch vụ đang chiếm dụng tại đây. Thực chất các nhân viên bảo vệ trong đồng phục lịch sự hôm nay là các nhân viên an ninh. Họ cho mấy người đứng sẵn với máy quay phim và chụp hình trong tay để tiếp đoàn cầu nguyện của các linh mục tu sĩ và giáo dân. Chắc chắn là để “nghiên cứu” các đối tượng tham gia và để tiếp tục tìm các biện pháp trấn áp tinh thần các cá nhân. »

(trích bản tin « toà Khâm sứ Hà Nội ngày 25.12.2007 » -nhóm pv vietcatholic )

Yếu tố quyết định đã đưa đến chỗ có sự giải quyết tạm ổn hai vụ này là sự quyết tâm và lòng dũng cảm của giáo dân dựng lều trên hiện trường, thay phiên nhau cầu nguyện, canh thức, ngủ đêm trong thời tiết lạnh buốt. Họ thực thi tình huynh đệ không những giữa họ mà cả với cán bộ CS. Tuy căng thẳng lo sợ nhưng họ cũng có những giây phút chuyện vãn dí dỏm vui tươi.

Họ phải đương đầu với trấn áp như thế kéo dài suốt bốn mươi ngày đêm.

- giai đoạn ba :

Sự hoạt động ngoại giao của Tòa Thánh VATICANÔ đã đưa đến kết quả tốt đẹp vào những ngày cuối tháng 01.2008 vì cụ thể là đã đạt được sự thoả hiệp với NCQCS trung ương là hai bên đều trở về « vị trí» cũ như trước khi có sự gia tăng trong công tài sản của GHCG. Ngoài ra cũng có sự hứa hẹn rằng NCQCS sẽ trả lại tài sản đất đai cho GHCG VN.

Giáo dân tháo gỡ lều bạt, trở về với cuộc sống thường nhật như bất cứ công dân nào khác, tuân theo mong muốn của hàng giáo phầm và chắc hẳn về phía NCQCS Hà nội cũng đã tháo gỡ những gì đã mới xây thêm lên.

*«Hơn bốn mươi ngày qua chúng ta đã sống một lễ Hiện Xuống mới. Mọi người đồng tâm nhất trí với nhau, chuyên tâm cầu nguyện và hăng hái rao giảng Tin mừng hòa bình, bất chấp những khó khăn gian khổ, tạo nên một bầu khí hiệp thông rộng lớn không chỉ trong tổng giáo phận mà còn khắp nơi trên thế giới. Chưa bao giờ lòng yêu mến Chúa, yêu mến Giáo hội dâng cao như thế. Chưa bao giờ tình cảm gắn bó giữa chủ chăn và đoàn chiên chặt chẽ đến thế. Chưa bao giờ tình bác ái huynh đệ chan hòa nồng nàn đến thế. Chưa bao giờ lời cầu nguyện chung cho lợi ích của Giáo hội tha thiết đến thế. Thật là một hồng ân lớn lao Chúa ban cho chúng ta. Tôi không ngừng tạ ơn Chúa và cám ơn anh chị em về hồng ân cao quí này.

«Nhờ lời cầu nguyện tha thiết của anh chị em, công việc đã có kết qủa. Sau những căng thẳng, đã có đối thoại giữa Tòa Tổng Giám mục và Hội đồng Giám mục Việt nam với các vị lãnh đạo cao cấp của Nhà Nước để đi đến một giải pháp tốt đẹp. Giải pháp này sẽ thực hiện qua những bước cụ thể trong tôn trọng lẫn nhau theo ý kiến của Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh. Bước đầu tiên vừa hoàn thành đó là dịch vụ kinh doanh đóng cửa quán phở, giáo dân tháo gỡ lều bạt và cung nghinh thánh giá về. Bước đầu tiên này cũng phù hợp vì hiện nay trời rất lạnh và anh chị em phải chuẩn bị đón Tết. Tôi không đành lòng nhìn thấy anh chị em phải lạnh giá giữa trời mùa đông rét mướt. »

(trích « thư của tòa Tổng Giám Mục Hà Nội »

đề ngày 01 tháng 02 năm 2008 ).

Ý nghĩa của biến cố

“thắp nến cầu nguyện cho công lý và hòa bình

_______________________________

Sau đây là một cuộc đối thoại viễn tưởng giữa một người ngoài Công giáo (phóng viên -pv) và một người CG thường (NgCGth). Tuy nhiên, những ý nghĩ trình bầy ở đây là xuất phát tự tâm can người viết.

Pv. Câu hỏi mở đầu của tôi có tính cách tổng quát. Tại sao tôn giáo cũng cần có tài sản ?

NgCGth. Thì cũng như anh. Để hành nghề nhà báo, viết lách, anh cũng cần có cái nhà để ở, nơi ngủ nghỉ, ăn uống, bàn để viết… Chưa nói đến nếu anh có gia đình…

Pv. Thế nhưng địa hạt của tôn giáo còn xa hơn cả văn hóa, chỉ nhằm tâm linh ?

NgCGth. Sứ mệnh của GHCG là phục vụ xã hội nhân loại trong việc rao giảng niềm vui được biết Thiên Chúa và trong việc giảm bớt khổ đau của con người. Để hoàn thành sứ mệnh đó, GHCG cần có những phương tiện thể chất là tài sản làm nơi thờ tự, làm cơ sở cho các sinh hoạt xã hội, văn hóa, giáo dục, tôn giáo. Nhưng điều quan trọng hơn nữa là phải nhìn ra tầm kích tâm linh và tôn giáo của những cơ sở đó. Anh thử tưởng tượng một xóm làng mà không có lấy một ngôi nhà thờ, hay một mái chùa, hay một ngôi đình. Huống chi là một thành phố lớn, một thủ đô. Bao nhiêu người trên thế giới, vì nhu cầu tâm linh và tôn giáo, đã phải bỏ ra chi phí cao để đi xa thăm viếng các thánh điện.

* « Nếu nói về quyền lợi, thì hiển nhiên các vị Giáo Sĩ và Tu Sĩ ở Hà Nội chẳng có mấy quyền lợi vật chất trong vụ việc này. Nếu chỉ có cá nhân các vị thì chẳng cần gì phải nhiều đất, mỗi người vài mét vuông cũng đủ, Giáo dân cũng chẳng có quyền lợi vật chất gì ở đây, họ chẳng sở hữu, chẳng kinh doanh, chẳng bán chác cái gì cả. Ở đây họ chỉ tha thiết với những giá trị tinh thần và tâm linh là những thứ mà xã hội đã quá nhiều lần coi nhẹ, đã lãng quên quá nhiều, nhưng ngày nay đang rõ là cái cộng đồng đang thiếu và đang cần. Và họ đã nồng nhiệt và cảm thấy như được cởi trói đến vậy, vì tâm linh của họ đã bị dồn nén quá lâu. »

( trích « Nghĩ về chuyện tòa Khâm sứ », lm. Vũ Khởi Phụng, DCCT Sài- gòn 28.1.2008 )

Pv. Những tài sản đó đã bị NCQCS chiếm dụng đã từ hơn nửa thế kỷ, trường hợp ngoài Bắc. Tại sao bây giờ mới khởi xướng phong trào đòi đất ?

NgCGth.Đây không phải là một phong trào, chỉ là một việc làm thiết thực, pháp lý, dể chu toàn nhiệm vụ bảo toàn những phương tiện thể chất hầu phục vụ mọi người, mọi thế hệ, CG hay không, trong những khát vọng chân chính của con người. Việc đòi NCQCS trả lại đất đã diễn ra đã rất từ lâu, nhất là về mặt giấy tờ và vận động với các cơ quan hữu trách.

Pv. Nhưng chỉ bây giờ mới thấy công khai xuống đường cầu nguyện ? Tại sao ?

NgCGth. Những vị chủ chăn trong GH có trách nhiệm nặng nề không những lo cuộc sống tâm linh mà còn phải bảo vệ mạng sống cho đoàn chiên. Khi CS đằng đằng sát khí, sự trấn áp hết sức khắt khe, thì không thể tổ chức cầu nguyện dù là cách hòa bình như trong hai vụ này.

Pv.Như vậy tình hình quan hệ giữa GH và NCQCS đã có phần dễ chịu hơn ?

NgCGth. Có thể là như thế, hy vọng là như thế !

Pv.Theo anh thì đâu là những yếu tố khiến NCQCS không còn chủ trương đàn áp khắt khe lộ liễu tôn giáo ?

NgCGth. Điều này thì ai cũng biết, NCQCSVN vì lý do kinh tế đã phải chấp nhận « chơi » với cộng đồng quốc tế

là những nước dân chủ tự do đích thực, nên họ cũng cần trưng ra một hình ảnh đẹp về mình.

Pv.Ngoài sự kiện là đã có sự tiến triển về phía NCQCSVN, anh có thấy yếu tố nào khác không khiến GHCG có phần « quyết liệt » như qua hai vụ này ?

NgCGth. Theo nhận xét chủ quan của tôi, thì GHCG đang rất băn khoăn cho tương lai đất Việt, vì giai đoạn kinh tế thị trường hiện nay, -tiếp theo hai giai đoạn chuyên chính vô sảnkinh tế kế hoạch,- đang diễn ra cách thiếu tổ chức, thiếu phương hướng nhân bản, thiếu nền tảng đạo lý, đem đến bao sự đảo điên trong xã hội với hậu quả là những ai « thích nghi » được thì có nếp sống vật chất dễ chịu, còn những ai không thích nghi được thì đành nằm chết trong cơ cực. Chưa nói đến nguy cơ lao mình vào một chủ trương sống chỉ để hưởng thụ, hưởng thụ tối đa và vội vã, đang đe dọa các thế hệ trẻ.

Pv. Vì thế GH cần trở nên năng động hơn ?

NgCGth. Đúng thế ! Và đòi hỏi NCQCS phải chấp nhận trở nên nghiêm túc hơn, để GH có thể làm việc phục vụ đồng bào.

*« Tin tức về vụ Tòa Khâm Sứ ở Hà Nội hai hôm nay dồn dập truyền về. Chúng tôi ở Sài-gòn cũng nhấp nhổm không yên về những diễn biến ở thủ đô. Giờ này Công Đoàn Dân Chúa Hà Nội đang ở vào thế dầu sôi lửa bỏng. Chúng tôi ở xa hiện trường, không thể chứng kiến tận mắt để tường thuật với bạn đọc Ephata những sự việc lạ lùng này, Chỉ xin chia sẻ vài cảm nghĩ.

« Những gì đang diễn ra ở Tòa Khâm Sứ ( và ở Thái Hà, ở Hà Đông v.v... ) là hệ quả của quá trình Cách Mạng. Nhìn lại lịch sử các cuộc Đại Cách Mạng, như Cách Mạng Pháp ( 1789 ), Cách Mạng Nga và Liên sô ( 1917 về sau... ), Cách Mạng Trung Quốc ( 1949... ) thì thấy đều đi qua ba giai đoạn: một giai đoạn đầu phá hủy những cái cũ, tiếp đó là một giai đoạn gian nan và bề bộn để cho một xã hội khác trước thành hình, rồi sớm hay muộn, xã hội mới này bắt đầu đi vào giai đoạn phải xây dựng là chính, thì sẽ nhận ra rằng những điều trước đây đã phá hủy không phải điều nào cũng xấu, cũng có hại, trái lại, có những điều tốt, và có ích cho cuộc sống, nhưng vào giai đoạn phá hủy, người ta đã không phân biệt, khi đó sẽ phải tìm cách gây dựng lại những gì đã bị đả phá một cách oan uổng.

« Mao Trạch Đông từng nói rằng Cách Mạng không phải là một cái gì tế nhị lịch sự như một bữa tiệc sang trọng. Cho nên cả ba giai đoạn đó đều để lại cho cá nhân và xã hội nhiều trăn trở quằn quại mới đạt được mục đích mình nhắm tới. Ở nước ta, phải chăng giai đoạn đả phá mang tên là “chuyên chính vô sản”, và giai đoạn xây dựng, trong đó có việc phục hồi nhiều giá trị đã mất, ngày nay kết tinh trong khẩu hiệy xây dựng xã hội “công bằng, dân chủ, văn minh”.

« Thân phận của các cộng đồng tôn giáo trong quá trình Cách Mạng cũng đi qua ba giai đoạn đó. Cũng như ngày xưa chúng ta cải cách ruộng đất, rồi bao cấp, rồi bây giờ lại kinh tế thị trường nhiều thành phần. Cũng như ngày xưa kịch liệt phê bình Khổng Tử rồi bây giờ dựng lại Văn Miếu. Cũng như ngày xưa phá tán những di sản của dòng họ Nguyễn Tiên Điền rồi bây giờ xây đài kỷ niệm và bảo tàng Nguyễn Du v.v...

« Vì có một thời “chuyên chính” nên Nhà Chung Hà Nội cứ nằm rạp trong cơn bão táp mà chịu mất Tòa Khâm Sứ. (….)

« Cũng vậy, cha già Vũ Ngọc Bích, DCCT, đành chịu mất mảnh đất ngày nay là Xí Nghiệp May Chiến Thắng, để rồi cho đến ngày chết vẫn nhất mực không chịu nhận là mình đã dâng hiến bất cứ cái gì. Cứ nói trắng ra rằng đó là do “chuyên chính” thì mọi sự sẽ rõ ràng thôi !

« Ngày nay, qua giai đoạn chuyên chính rồi, thì người dân muốn lên tiếng, muốn tỏ thái độ. Và giai đoạn nào thì cũng có những quằn quại của nó. Giáo dân trong suốt thời gian dài yên lặng xót xa cho di sản thiêng liêng của cha ông, của tiền nhân trong Đức Tin. Nhưng những mảnh đất xưa kia là đối tượng của “chuyên chính” lại cũng thành những con gà đẻ trứng vàng cho những ai đó.

« Có nghĩa là ba giai đoạn Cách Mạng ấy không chỉ là những giai đoạn trong tư tưởng, mà nó còn được quy ra tiền, ra lợi lộc. Cũng Đức Cha Nguyễn Văn Sang đã cho thấy rõ điều ấy khi ngài tường thuật lại những cố gắng làm trung gian của mình. Nói cho cùng thì sự tiền bạc và lợi lộc đang chi phối xã hội này thì ai cũng biết. »

(lm. Vũ Khởi Phụng, cùng bài)

Pv. Tôi muốn đề cập đến phía giáo dân. Một số giáo dân đã dự kiến có thể bị giết chết mà cứ dự các buổi cầu nguyện. Phải hiểu và gọi làm sao thái độ này ?

NgCGth. Đây là đức dũng cảm bởi lòng tin, lòng mến.

Pv. Nhưng nếu có ai cho đó là cuồng tín thì bạn trả lời làm sao ?

NgCGth. Trong toàn thể giáo dân tham dự các buổi cầu nguyện cho công lý không một ai muốn chết, ngay đến các cụ già, ốm yếu cũng tươi vui . Tất cả họ đều là những người thường dân, chỉ mong được tự do làm công chuyện hàng ngày và giữ đạo, trong an bình và trật tự xã hội. Gỉa như muốn chết để được danh tiếng thì họ đã có rất nhiều dịp để làm chuyện này trong quá khứ. Đằng này họ chỉ cầu nguyện cách an bình, bất bạo động, và trong tình huynh đệ chẳng những giữa họ với nhau mà cả với những công an trấn áp họ. Lại nữa, lập tức ngay sau khi đức TGM kêu gọi ngừng, họ lập tức rút lui , trở về cuộc sống thường nhật, y như mọi thường dân khác.

* « 17 giờ chiều ngày 27 tháng 1 năm 2008, đến hạn cuối cùng mà chính quyền thành phố Hà Nội đưa ra "ra lệnh" Tòa Tổng Giám Mục và Giáo Dân thực hiện việc giải tán hoàn toàn khỏi khu "42 Nhà Chung". Tuy nhiên, càng tới giờ có lệnh đó, dân chúng càng tới nhiều hơn, dù ai cũng biết rằng chính quyền có thể đàn áp, bắt bớ, tra tấn và hành tội mình có "hành vị phạm luật vì đã cầu nguyện ở Tòa Khâm Sứ".

« Đã có khoảng trên 3.000 Giáo Dân tụ họp nơi đây hôm nay. Họ một lòng cương quyết, một ý chí sắt son. Đó là câu trả lời cho những đe dọa của bạo quyền, của những con người có đầy đủ súng ống và quyền lực trong tay với một cách hành sử bất công và dối trá !

« Giáo Dân và Tu Sĩ đã cầu nguyện rất sốt sắng trong khuôn viên đất Tòa Khâm Sứ. Ai cũng sẵn sàng cho một sự kiện lớn có thể sẽ xảy ra, hay một vụ đàn áp của chính quyền như họ đã đe dọa...

« Giáo Dân và các Nữ Tu tạo thành một vòng tròn quanh Thánh Giá và Đức Mẹ để cầu nguyện. Họ nói: "Chúng tôi tiếp tục cầu nguyện và chúng tôi sẵn sàng để đối phó trong hòa bình với mọi diễn biến phức tạp có thể xảy ra, hôm nay, ngày mai, bất cứ khi nào, ngay cả sau khi bị đàn áp, và có thể bị giết chết... con cháu chúnng tôi cũng sẽ lại tới đây để cầu nguyện tiếp. Không thế lực nào, không cường quyền nào có thể đè bẹp được Đức Tin của chúng tôi đâu !" ( ... )

(Trích tin VietCatholic, Hà Nội 27.1.2008, blog Kinh Hoa Binh)

Có giây phút hi hữu xẩy ra như sau và chúng tôi quan sát được: Một nhân viên an ninh chụp ảnh một bà già tuổi cỡ 80 đang ngồi chung với mấy bà khác. Bà cụ già liền móc tay vào hào bao trong quần, tưởng gì chứ bà rút ngay ra một cái điện thoại nhỏ, bà nói ngay: “Anh cứ chụp, anh tưởng anh chụp tôi mà tôi không biết chụp anh à!” Nói rồi bà lấy điện thoại ra giơ lên và chụp lại ngay anh nhân viên an ninh đó.

« Nhóm các bà đó khoái chí cười hanh hách. Bà khác nói, "Sao bà lại có cái điện thoại tinh vi như vậy?". Tôi nghe được câu trả lời của bà cụ như sau: "Thì thằng cháu tôi tối ngày hôm qua nó dặn dò tôi kĩ lắm là nếu hôm nay có ra ngoài bên khu đất đó nếu có ai động tĩnh gì thì chụp mấy tấm hình để giữ lấy làm bằng chứng... Thế là sáng hôm nay nó bắt tôi bấm lên bấm xuống mãi cái máy nhỏ này. May mà sau cùng tôi cũng nhấn đúng nút, mãi rồi cũng phải quen, nó mới tha cho đó, bà ơi"

( trích bản tin « Mình cầu nguyện ở đây tới khi nào thế chị ? », Nguyễn Lăng Chính, 9.1.2008)

Pv. Làm sao giải thích thái độ răm rắp vâng lời cấp trên của giáo dân ?

NgCGth. Hiệp thông ! Có sự hiệp thông. Chủ chiên thì chu toàn nhiệm vụ lãnh đạo, sẵn sàng hy sinh ngay đến tính mạng vì ràn chiên, còn tín hữu vì cảm mến chủ chiên mà tùng phục. Cũng như trong một gia đình, nếu có sự trên thuận dưới hòa, thì con cái vâng lời bố mẹ là một sự không khó lắm.

Pv. Một số người gán cho hai vụ này một tầm vóc lịch sử. Anh có đồng ý như vậy không ?

NgCGth. Tôi cũng chỉ mong muốn thế. Tuy nhiên, theo tôi còn tùy thuộc thái độ của NCQCS trong những ngày tháng tới. Nếu họ thực tình quan tâm đến việc trao trả lại tài sản cho dân, cho các cộng đồng tôn giáo, hầu huy động mọi nhân lực cải thiện xã hội thì hai vụ này quả là hai cánh cửa mở ra cho một chặng đường mới cho dân Việt.

Pv. Anh tiên đoán gì ?

NgCGth. Tôi không có tài tiên tri. Chỉ nguyện ước sao cho tình hình bên nhà ngày càng sáng sủa hơn.

Pv. Bằng cách nào, về phía người Việt hải ngoại ?

NgCGth. Ồ, tôi nghĩ bất cứ ai quan tâm đến vận mệnh nước Việt cũng có một câu trả lời cho câu hỏi này.

Pv. Riêng các anh phía CG sẽ gia tăng cầu nguyện ?

NgCGth. Chính thế ! Cầu nguyện và hổ trợ vật chất, văn hóa, truyền thông. Chẳng hạn !

Pv.Xin cám ơn anh và hẹn một dịp khác.

NgCGth. Xin cám ơn anh.

người CG thường

soạn thảo xong ngày đầu xuân Mậu Tý

______________________________________________

(Tôi đã có thể soạn thảo để trình bầy sơ lược biến cố « thắp nến cầu nguyện cho công lý và hòa bình » và bầy tỏ cảm nghĩ là nhờ tham khảo :

- trang mạng DCCT Saigon,

- Vietcatholic,

- Blog Kinh Hoà Bình.

Tiện đây, tôi cũng xin mạn phép các tác giả các bản tin, các

bài viết, mà sử dụng các đoạn trích. Xin chân thành cảm tạ

toàn thể quý vị. )

NHỮNG CỤ GIÀ “ĐI BỤI”

NHỮNG CỤ GIÀ “ĐI BỤI”

Họ phải làm đủ thứ nghề để sống qua ngày, từ bán vé số, ăn xin, thậm chí cả nghề... “hai ngón” (móc túi). Những chuỗi ngày cơ cực, lấy vỉa hè, công viên làm nhà. Cuộc sống cứ thế lặng lẽ trôi...

Lang thang đầu đường xó chợ

Cứ mỗi buổi sáng tinh mơ nhiều người ở khu vực phường 7, quận 3, Sài-gòn, đã thấy bà Hai “ve chai” tay xách nách mang chiếc bị đi nhặt những thứ phế thải có thể bán được. Lúc đầu mọi người cứ ngỡ là do hoàn cảnh khó khăn nên phải lặn lội vào Sài-gòn làm nghề ve chai để sống. Nhưng không, bà có ba người con đều thành đạt và khá giả ở một tỉnh miền Tây. Khi còn sống ở quê, bà sống với người con gái út, nhưng do gia đình thông gia thường có những lời qua tiếng lại nói xấu nên bà chịu không nổi, bà đã bỏ lên đây kiếm sống.

Khi được hỏi: “Sao bà không sống với người con khác ?” Bà rưng rưng: “Hai thằng con trai đầu đều sợ vợ, chúng sống chẳng khác nào cái bóng trong gia đình. Vợ bảo gì nghe nấy không hó hé lấy một câu. Thực tế chúng nó cũng thương tôi lắm, nhưng vợ chúng nó thường cho tôi là người vô tích sự, chẳng làm được việc gì nên hồn. Cứ về đến nhà là nói bóng nói gió với chồng là bà ở nhà chùi cái nhà không xong, rửa cái chén cũng chẳng sạch, còn nấu ăn thì lúc mặn nhạt thất thường”.

Giận con dâu bất hiếu, bà Hai bỏ lên thành phố làm nghề ve chai. Bỏ nhà đi đã lâu nhưng con cái bà vẫn chẳng quan tâm mẹ mình đi đâu, làm gì. “Lên thành phố làm cũng kiếm được năm, sáu chục ngàn một ngày coi như cũng đủ sống qua ngày và trả tiền phòng trọ. Tự làm ăn kiếm sống tôi lại thấy lòng thanh thản”, bà Hai tâm sự.

Không may mắn như bà Hai “ve chai”, bà Nguyễn Thị Lợi, 74 tuổi, quê ở Hải Phòng trong một lần vào thăm con gái lấy chồng ở Nha Trang vì mất địa chỉ con, đã lạc vào Sài-gòn. Vào thành phố không người thân thích, không một xu dính túi lại mang chứng bệnh đãng trí nên bà không còn nhớ rõ quê quán để liên lạc.

Ngày ngày bà đi khắp nẻo đường xin ăn sống qua ngày, ban đêm gặp đâu ngủ đó. Cuộc sống của bà Lợi vật vờ trôi tháng này qua tháng khác “tối đâu là nhà, ngả đâu là giường”. Năm 2004 trong một lần ngủ vật vờ trong công viên

Lê Văn Tám, bà Lợi đã được công an đưa về Trung Tâm Bảo Trợ Xã Hội Chánh Phú Hoà để an hưởng tuổi già.

Không còn nhớ đường về quê

Các cụ ở Trung Tâm Chánh Phú Hoà luôn mong ước được đoàn tụ với gia đình.

Tại Trung Tâm Bảo Trợ Xã Hội Chánh Phú Hòa, tỉnh Bình Dương, cụ Nguyễn Thị Hai, sinh năm 1928, sụt sịt khóc: “Nhớ nhà, nhớ quê, nhớ con cháu quá!”. Hỏi quê ở đâu thì cụ không nhớ được, chỉ nhớ nhà ở cạnh chùa Năm Hương, trong xóm có ông Sáu Khê, ông Chín Khương. Ngay cả lý do đi lạc, cụ cũng lẩn thẩn không nhớ ra. Khi thì cụ bảo vào thành phố thăm con, không kiếm được nhà, lúc thì cụ nhớ đi chùa rồi không tìm được lối về...

Ký ức người già thường lẫn lộn, nhớ, quên là chuyện thường nhưng đối với những người già đi lạc sao

mà bi kịch và thương tâm đến vậy. Chuỗi ngày thất lạc của mỗi bà là một câu chuyện đẫm nước mắt.

Trường hợp bà Nguyễn Thị Nụ, sinh năm 1938, gốc Bắc, một người đàn bà thuần nông, cả đời chưa bước chân ra khỏi luỹ tre làng. Nhưng rồi nghịch cảnh xô đẩy, năm 1954, hai đứa con của bà, đứa nhỏ 1 tuổi, đứa lớn vừa lên 2 bị một đôi vợ chồng người Pháp cướp khỏi tay.

Trong nỗi đau mất con, bà Nụ đã dò hỏi khắp nơi và biết được đôi vợ chồng nọ cùng 2 đứa trẻ mua vé bay vào Sài-gòn. Bà đi tìm con theo bản năng của một người mẹ khổ đau. Đi, đi mãi... Năm 1976 bà được đưa vào Trung Tâm, ký ức về người thân, quê quán đã bị xoá sạch.

Cụ nói: “Nhà tôi ở cạnh bờ đê một con sông lớn, phía trước là đồng ruộng mênh mông...” Làng quê Việt Nam ở đâu mà chẳng có sông, có đồng ruộng, quê bà biết tìm đâu bây giờ ?

Bà Phạm Thị Lan, 70 tuổi quê Yên Mỹ, Hưng Yên vì chán cảnh không có con nên đã bỏ nhà ra đi vào Sài-gòn sống bờ, sống bụi. Bà kể: “Lúc còn là thiếu nữ tôi lấy chồng và có công việc ổn định ở một nông trường, nhưng khổ nỗi không sinh lấy nổi một mụn con để nối dõi tông đường nên ông ấy đã bỏ tôi đi lấy vợ khác. Sau đó tôi có hai đời chồng nữa cũng không sinh được con, chán đời tôi đã phải bỏ quê”.

Cuộc sống tha hương cầu thực nay đây mai đó đã biến bà từ một con người thật thà hiền lành trở thành một người chuyên trộm cắp lúc nào không hay. Bà bảo: “Tôi bất mãn vì cuộc sống. Người đàn ông nào lấy tôi đều muốn sinh con đẻ cái cho họ. Còn tình cảm thì không. Tôi là người phụ nữ cũng khao khát được làm mẹ, nhưng ông trời không cho. Xin con nuôi các ông chồng của tôi đều không đồng ý. Chính vì hoàn cảnh éo le như vậy đã biến tôi thành một con người khác”.

Cuộc đời còn lại bà Lan chỉ mong được về quê mở một một tiệm tạp hoá sống với bà con làng xóm. Nhưng khổ nỗi không ai bảo lãnh cho bà. Chỉ có một người anh trai ở quê nhưng quá nghèo không thể vào để đưa bà về được...

Ông Đoàn Thanh Liêm, ở khu người già, Trung Tâm Bảo Trợ Xã Hội Chánh Phú Hòa, cho biết: “Hiện nay trung tâm chúng tôi có trên 100 cụ già đều bị thất lạc quê quán. Một số người không muốn trở về quê sống với con vì phải chịu cảnh là “người vô dụng, ăn bám” trong gia đình. Chính vì vậy họ thường khai những địa chỉ ma. Khi chúng tôi cho nhân viên đem thư, thậm chí về tận địa chỉ mà họ khai nhưng đều là giả mạo”.

Cuộc sống của những người già nơi đây đang rất cần nhận được sự quan tâm chăm sóc của xã hội không chỉ vật chất mà cả tinh thần.

Sunday, 3 February 2008

SUY NGHĨ TIẾP VỀ ĐỜI SAU - Lê Văn Khuê

_____________________________________________ Lê Văn Khuê

Trong thời gian gần đây, khi tuổi đời đã vượt qua ngưỡng cửa về hưu và khi được tin những người bạn cùng lứa thay nhau lìa khỏi thế gian này, tôi không thể không nghĩ đến đcai mà chính khách Mỹ Benjamin Franklin gọi là một trong hai điều chắc chăn nhất trong cuộc đời này: cái chết và thuế. Trong Duc In Altum số 55, năm 2007, anh Mễ Duy, người bạn thân cùng lớp ở Đệ Tử Viện DCCT cũng đã đề cập đến vấn đề này trong bài “ Đời sau.” Tuy nhiên trong bài này anh Mễ Duy bàn đến ý nghĩa của cuọc đời nhiều hơn là những gì sẽ xảy ra ở đời sau mặc dù anh có nói rằng “người đã từ trần không phải là một thứ “ hồn” nhẹ như không khí, ngược lại họ thấy được, nghe được, giữ lại mọi kỷ niệm của đời trần nay đã được đổi mới, được chiếu soi trong ánh sáng của vĩnh cửu.” Nghe mà thấy vui mừng phấn kích vì có phải tình yêu tôi dành cho ba mẹ, vợ con, anh em, tình bà con và tình bằng hữu thân thương sẽ không nhất thiết bị hủy diệt sau khi chết mà sẽ được giữ lại và thăng hoa? Để tự trả lời cho mình vấn nạn này và để có được một niềm hy vọng kích thích tôi sống những năm còn lại của cuộc đời trần gian này, tôi đã nghiên cứu sách vở để tìm ra lời giải đáp. Và sau đây là những giải đáp mà tôi tổng hợp và nghĩ là thỏa mãn phần nào vấn nạn của tôi nhưng chắc chắn không phải là những giải đáp cuối cùng. Do đó tôi xin bạn đọc góp ý để có thể có những giải đáp hoàn chỉnh hơn. Tôi bắt đầu với ba câu hỏi, đương nhiên là của một người tin vào Đức Giêsu Kytô.

1. Chết rồi, con người đi đâu?

2. Người chết sống lại như thế nào?

3. Khi nào thì người chết sống lại?

Để trả lời những câu hỏi này, trước tiên tôi tìm đọc Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo. Cuốn giáo lý chính thức của Hội thánh được ban hành ngày 11.10.1992, được dịch ra tiếng Việt và xuất bản ngày 21.7.1997 dạy rằng: “Khi chết, hồn lìa khỏi xác, thân xác con người lâm cảnh hư nát trong khi linh hồn đến gặp Thiên Chúa nhưng trong tình trạng chờ đợi được tái hợp với thân xác vinh quang.” (đoạn 997). Ở chỗ khác sách cũng khẳng định: “chết là “ra đi”, hồn lìa khỏi xác “ (đoạn 1005) và còn thêm rằng “ thông thường người ta chấp nhận là sau khi chết, hồn con người vẫn sống.” Khẳng định như vậy nghe có lọt tai con người ngày nay trong khi tư tưởng hiện đại cho rằng phân biệt thể xác với linh hồn là quá đơn giản hóa vấn đề. Lm. Thiện Cẩm trong bài” Viếng người chết để nghĩ về cái chết” (Nguyệt San Công Giáo và Dân Tộc tháng 11, năm 2006) cũng đã viết rằng “ nếu cứ nghĩ và diễn tả theo thói quen của chúng ta, nghĩa là người chết thì linh hồn lìa khỏi xác thì như vậy chẳng còn là người vì hồn một nơi, xác một nẻo, có khi bị thối rửa, thậm chí bị thiêu thành tro… và một linh hồn ngoài thân xác thì cũng giống như loài thiên thần, là giống thiêng liêng. Tóm lại hồn xác tuy khác nhau nhưng không thể tách rời.”

Trong cùng chiều hướng đó, cuốn Giáo lý của Hàng Giáo Phẩm Giáo Hội Hà Lan (bản Tiếng Việt: Giáo lý Mới Triều Đại Mới do Nguyễn Ước giới thiệu và biên dịch, nhà xuất bản Tôn giáo 2005) lúc đầu cũng công nhận việc phân biệt giữa thể xác và linh hồn ( “sau khi chết, linh hồn tiếp tục hiện hữu cách riêng trong khi thể xác mục nát”) là một cách diễn tả không làm sáng tỏ vấn đề. Tuy nhiên, ở trong văn bản sửa đổi (trang 925), khi trích dẫn lời của Đức Giêsu nói với người trộm lành, “Hôm nay ngươi sẽ ở trên Thiên Đàng làm một với ta” (Lc 23.43) và câu “Đừng sợ những kẻ giết được thể xác nhưng không giết được hồn,” (Mt 10:28) sách lại khẳng định rằng Chúa muốn nói đến “cái gì đó”, là thành tố đích thực nhất của con người có thể dành lại sau khi chết. Nó là cốt tuỷ sống động của con người, được dựng nên để sống trong một thể xác, nhưng nay nó tiếp tục sống tách biệt khỏi một thể xác đã chết (trang 924).

Nói như vậy phải chăng tựu trung cũng trở về với sự phân biệt hồn xác như sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo? Thực ra, có lúc sách Giáo Lý Hà lan đã đi tới chỗ giả thiết rằng “sự hiện hữu sau khi chết vốn là một cái gì đó giống sự sống lại của một thể xác mới, thể xác của sự sống lại mới này không là những phẩn tử được chôn cất và tan tác trong lòng đất (trang 776). Nhưng đó là điều xảy ra sau này khi Đức Kitô quang lâm và làm cho kẻ chết sống lại.

Trước những mâu thuẩn trên, phải giải quyết vấn đề ra sao đây? Quả thực, sự mập mờ này bắt nguồn từ Kinh Thánh. Kinh Thánh nói chủ yếu đến sự sống lại của toàn bộ con người, đến sự sống lại của người chết với linh hồn và thể xác. Nhưng đó là điều chỉ đến về sau. Còn vấn đề ngay sau khi chết những người chúng ta thương yêu lúc này ở đâu? Rõ ràng là Kinh Thánh không đi sâu vào vấn đề này. Các tác giả thần hứng không dự tính đưa ra thông tin rõ rệt về “cách” của đời sau, vì thế các ngài không đưa ra học thuyết rõ ràng về cách con người hiện hữu với Thiên CHúa sau khi chết. Và vì Kinh Thánh không rõ ràng về vấn đề này nên Hội Thánh chọn cách diễn tả dễ hiểu nhất mà nói rằng “khi chết, hồn lìa khỏi xác, thân xác con người làm cảnh hư nát trong khi linh hồn đến gặp Thiên Chúa, nhưng trong tình trạng chờ đợi được tái hợp với thân xác vinh quang.” (đoạn 997)

Đến đây chúng ta trở lại với câu hỏi đã đặt ra ở trên là nói như vậy nghe có xuôi tai chăng đối với con người hiện đại nhờ khoa học thần kinh (neuroscience) mà biết được rằng ý thức là sản phẩm của bộ não con người, và khi hoạt động của bộ não ngưng thì ý thức của người đó không còn hiện hữu nữa (xem tạp chí Time số 12 tháng 2, 2007)? Nói cách khác, khoa học không tin có linh hồn và cũng không tin linh hồn bất tử.

Việc tin có linh hồn là lãnh vực của tôn giáo, của tín ngưỡng, tức của lòng tin.. Nhưng ở đây không chỉ tin có linh hồn và tin linh hồn bất tử nhưng lòng tin đó được đặt nền tảng trên lòng tin có một Thượng Đế là Khởi Nguyên và Cứu cánh của vũ tru (bởi có những tín ngưỡng tin có linh hồn nhưng không đặt vấn đề về sự hiện hữu của một Thượng Đế). Riêng đối với Kytô Giáo lòng tin vào sự bất tử cuả linh hồn và sự hiệu hữu của Thiên Chúa lại được đặt nền tảng trên một sự kiện cụ thể xảy ra trong lịch sử con người chứ không phải tin một cách vu vơ. Đó là việc làm chứng của các Tông đồ về việc Đức Giêsu sống lại. Không có con mắt loài người nào chứng kiến ngay lúc Đức Giêsu sống lại. Việc sống lại vượt ngoài phạm vi quan sát sử tính. Chỉ có việc làm chứng của các Tông đồ là có tính lịch sử, và vấn đề là sự làm chứng của họ có đáng tin cậy không? Và sau khi cân nhắc, người ta thấy rằng không có chứng từ nào thuyết phục hơn là tính cách nhất quán của Tân ước (về giá trị sử tính của sách Tân Ước, xem The Case for Christ của Lee Strobel, Zondervan Publishing House, Michigan 1998). Qua các văn bản xưa nhất cho đến sau cùng nhất của sách Tân Ước chỉ có một điều duy nhất được nói lên. Đó là “Thiên Chúa đã làm cho Đức Kytô sống lại từ cõi chết (1 Tx 1:10) và các Tông đồ “đã thấy Chúa” (Ga 20:25). Đến đây chúng ta cũng cần đọc lại đoạn văn làm chứng xưa nhất về việc Đức Giêsu phục sinh. Vào khoảng năm 53, tháng Phaolô đã viết cho tín hữu thành Côrintô khẳng định là ngài nhận được chứng cứ qua truyền thống. “Vì tiên vàn mọi sự tôi đã truyền lại cho anh em chính điều tôi đã chịu lấy, là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, theo lời Kinh Thánh, là Ngài đã bị chôn cất, là Ngài đã sống lại, ngày thứ ba, theo lời Kinh Thánh, là Ngài đã hiện ra cho Kêpha, đoạn cho nhóm mười hai. Rồi Ngài hiện ra cho hơn năm trăm anh em một lần, trong đó phần đông đến nay v ẫn còn sống, nhưng cũng có những người đã yên nghỉ. Rồi cuối cùng Ngài đã hiện ra cho Giacôbê, đoạn cho các Tông Đồ hết thảy. Cuối hết Ngài đã hiện ra cho cả tôi nữa, là kẻ không khác một đứa con ranh.” (1 Cr.15: 3-8)

Như vậy, cuối cùng chính Đức Kitô Phục sinh là nguyên lý và nguồn mạch sự sống lại của chúng ta mai sau: “Đức Kitô đã chổi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu… như mọi người vì liên đới với Adam mà phải chết thì mọi người, nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống lại.” (1Cr15: 21-22)

Nhưng đó là sống lại vào thời sau hết khi Đức Kitô quang lâm cùng với toàn bộ cuộc sáng thế mới (Kh.21:5). Vấn đề ở đây là có phải người chết lập tức được hạnh phúc diện kiến thánh nhan Thiên Chúa như lời dạy của sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo: “Khi chết, hồn lìa khỏi xác, thân xác con người lâm cảnh hư nát trong khi linh hồn đến gặp Thiên Chúa…”? Mặc dầu sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo cũng như sách Giáo Lý Hà Lan có đề cập đến luyện ngục như là sự thanh luyện cần thiết nào đó trước khi diện kiến thánh nhan Thiên Chúa, một số nhà thần học ngày nay đã không hình dung luyện ngục như một nơi hoặc một giai đoạn thanh luyện sau khi chết ma ngay khi chết con người đã được Thiên Chúa phán xét, thanh luyện, chữa lành trong ân sủng của Ngài. (xem Hanskung, Credo, La confession de foi des Apotres expliquee aux hommes d’aujourd’hui, Editions du Seuil, 1996 trang 230-231). Nghĩa là người chết tận hưởng nhan thánh rõ ràng của Thiên Chúa Ba Ngôi cả trước khi Đức Kitô quang lâm. Tuy nhiên đó không là vinh quang đầy đủ và tuyệt đối. Vinh quang này sẽ diễn ra lúc Đức Kytô lại đến cùng với toàn bộ cuộc sáng thế mới. Lúc ấy, Đức Giêsu sẽ biến đổi thân xác khốn hèn của ta sao cho nên đồng hình đồng dạng với thân xác vinh quang của Ngài (Pl. 3,21).

Bây giờ chúng ta chuyển qua vấn đề thứ hai: Chúng ta sẽ phục sinh như thế nào? Đây không phải là một vấn đề dễ dàng. Chính sách Giáo Lý Hội thánh Công Giáo đã khẳng định. “ Thân xác con người phục sinh như thế nào là điều vượt qua sức tưởng tựơng và hiểu biết của chúng ta.” (đoạn 1000) Vậy chúng ta hình dung việc sống lại như thế nào đây? Chúng ta hãy trở lại với cội nguồn của lòng tin của chúng ta là Đức Giêsu Phục Sinh. Ngài đã phục sinh như thế nào? Đức Giêsu đã phục sinh với chính thân xác mình: “Hãy nhìn chân tay Thầy coi; đúng là Thầy đây mà.” (Lc 24:39) Nhưng Người không trở về với đời sống trần thế. Đúng vậy, Đức Giêsu sau khi sống lại thì cũng có khác biệt tới độ các Tông đồ biết rằng đó chính là Chúa nhưng thoạt đầu không nhận ra Người. Đó là thân xác vinh quang của Người, và Người cũng sẽ biến đổi thân xác khốn hèn của ta giống như vậy. “Mọi người sẽ sống lại với thân xác của mình, thân xác họ đang có bây giờ.” (Công đồng Latran IV: DS801, sách Giáo Lý Hội thánh Công Giáo đoạn 999) nhưng thân xác đó sẽ biến đổi thành “thân xác vinh hiển”, thành “thân xác thần thiêng” (1Cr.15:44). Chính thánh Phaolô đã quả quyết: “Có người thắc mắc: kẻ chết sống lại như thế nào? Họ lấy thân hình nào mà trở về? Đồ ngốc! Ngươi gieo cái gì, cái ấy phải chết mới được sống. Cái người gieo không phải là hình thể sẽ mọc lên, nhưng là một hạt trơ trụi… Việc kẻ chết sống lại cũng vậy: gieo xuống thì hư nát, mà chổi dậy thì vinh quang, gieo xuống thì yếu đuối mà chổi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là xác khí huyết, sống lại là xác thần thiêng…Quả vậy, cái thân phải hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt và cái thân phải chết này sẽ mặc lấy sự bất tử. (1 Cr 15, 35-37, 42-53) Tác giả Hanskung trong sách đã trích dẫn ở trên đưa ra hình ảnh cái kén và con bướm để diễn tả sự biến đổi từ xác khí huyết thành xác thần thiêng (trang 148).

Vậy thì điều này sẽ xảy ra lúc nào? Nói cách khác, lúc nào thì Đức Kitô quang lâm và biến đổi thân xác hư mất của chúng ta thành đồng hình đồng dạng với thân xác hiển vinh của Người? Kinh thánh nói chỉ có Chúa Cha mới biết khi nào sự kiện này sẽ xảy ra. Tuy nhiên, chúng ta có quyền suy luận, và điều chắc chắn mà chúng ta có thể nắm được là nó sẽ không xảy ra trong một tương lai gần đây như thời các Tông đồ đã nghĩ. Trong ánh sáng của những khám phá mới của thiên văn học thì chúng ta có thê suy đoán là cũng còn phải lâu lắm nữa nó mới xảy ra. Phải mất 15 tỷ năm kể từ khi hiện tượng Big Bang xảy ra để vũ trụ có hình dạng ngày hôm, 5 tỷ năm để trái đất hình thành, 1 triệu năm (?) để loài người, cùng đích tối hậu của tiến hoá, đạt đến tầm mức hôm nay thì không lý nào ngày một ngày hai lại kết thúc một cách đột ngột được. Đương nhiên con người ngày hôm nay với kho vũ khí hạt nhân khổng lồ của mình có thể tiêu diệt luôn toàn thể loài người trong chốt lát, nhưng trái đất và vũ trụ chắc hẳn vẫn còn đó. Nếu phải mất 15 tỷ năm để vũ trụ hình thành thì có lý mà suy đoán rằng tối thiểu cũng còn phải 15 tỷ năm nữa vũ trụ mới đi đến chổ kết thúc (và sau đó cũng có thể khởi đầu lại).

Kinh thánh gọi vũ trụ và nhân loại vào thời Chúa quang lâm là “Trời Mới và Đất Mới” nơi đó cuộc sống và lao động trong lịch sử của chúng ta thật sự được biến thể mà không nhất thiết bị huỷ diệt. “Bởi vì tất cả những thành quả tuyệt hảo của bản chất và tài năng chúng ta mà chúng ta đã tạo nên khắp địa cầu theo mệnh lệnh của Chúa và trong Thánh Thần, chúng ta sẽ nhận chúng lại sau này nhưng chúng đã được thanh luyện khỏi mọi tì ố, được chiếu sáng và biến đổi khi Chúa Kitô trao lại Chúa Cha vương quốc vĩnh cửu và đại đồng (Gaudium et spes 39, 3). Do đó sự trông đợi Trời Đất Mới không làm suy giảm mà trái lại phải kích thích chúng ta nỗ lực phát triển tình yêu và tiến bộ trên trái đất này.

Trong ý nghĩa đó thì chúng ta không phải bận tâm đến lúc nào Trời Mới Đất Mới sẽ được thể hiện; đó là việc của Thiên Chúa, và cũng vì chúng ta sống quá lắm cũng trăm tuổi là cùng. Cho nên khi sống, chúng ta phải quan tâm đến phát triển tình yêu và tiến bộ trên trái đất này theo hoàn cảnh và tài năng của mình, biết rằng những nổ lực của chúng ta sẽ không mất đi mà sẽ được Thiên Chúa biến đổi. Và khi chết thì chúng ta biết chắc rằng chúng ta không hư mất đi mà sẽ trở về với Thiên Chúa và những người thân yêu của chúng ta đã ra đi trước chúng ta và cả toàn thể những người đã chết, hạnh phúc trong “sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17).

Trong cuộc sống hiện tại của riêng mỗi người, đó chưa là thực tại, nhưng là một hy vọng, một hy vọng kích thích chúng ta sống, lao động và xây dựng và thương yêu. Và nói như thánh Phaolô , “Hy vọng mà thấy được thì hết là hy vọng, vì điều thấy được ai nào còn hy vọng nữa! Nhưng nếu thực ta hy vọng điều ta không thấy, thì ta kiên nhẫn đợi trông.” (Rm8:24-25). Điều khốn khỗ nhất là sống mà không có hy vọng.

Lê Văn Khuê

Saturday, 2 February 2008

MỪNG XUÂN MẬU TÝ - Gia Đình An Phong – Chi Hội Sydney

Gia Đình An Phong – Chi Hội Sydney

MỪNG XUÂN MẬU TÝ

Sự hụt hẫng của Cộng Đồng Người Việt tại tiểu bang NSW – Úc Đại Lợi quả là nhức nhối khi Hội Tết truyền thống được dự trù trong 3 ngày thứ 6, 7 và chủ nhật nhằm ngày 2, 3 và 4 tết Mậu Tý - từng được chuẩn bị cả năm trời – bị hủy bỏ vì những trận mưa dữ dội làm lầy lội địa điểm tổ chức là trường đua ngựa Warwick Farm – Liverpool. Thế nhưng đôi khi nỗi buồn của người này lại là niềm vui của người khác. Chẳng thế mà những trận mưa như thác đổ trong nhiều ngày đã mang lại niềm hy vọng cho các nhà nông tại NSW nói riêng và tại hầu như cả nuớc Úc nói chung, vốn bị thiên tai hạn hán gây thiệt hại nặng nề. Chính trong niềm vui nỗi buồn lẫn lộn đó mà cuộc họp mặt mừng năm mới của gia đình An Phong chi hội Sydney đã diễn ra vào chiều thứ bảy, tức mồng 3 tết. Cho đến 12g trưa hôm đó, trời vẫn tiếp tục đổ mưa. CHT NĐDũng và CHP HCLợi lo âu là chuyện đã đành, thế nhưng chính A/C TNTá – chủ nhân địa điểm buổi họp mặt - cũng lo lắng không kém. Theo chương trình thì 2g tề tựu và 3g thánh lễ. Thế nhưng chuyện lạ đã xảy ra. Đó là vào khoảng 2g30 mưa tạnh hẳn và lần đầu tiên trong 2 tuần lễ, mặt trời ló dạng với những tia nắng chói chang.

Chính trong khung cảnh rộn ràng và chói chang đó mà thánh lễ đầu năm của chi hội Sydney đã diễn ra với sự có mặt thân tình của người linh mục anh em chí cốt đến từ Melbourne – Giuse Mai Văn Thịnh. Trong một vài ý tưởng ngắn gọn, ngài đã nhắc nhở đến những thách đố thường trực của kiếp người và cầu chúc trong năm mới, mọi người sẽ có thêm can đảm để đối phó với những cám dỗ đó.

Sau thánh lễ, CHT NĐDũng chúc mừng năm mới mọi người và anh TNTá tóm gọn một vài tin tức gần xa. Năm nay xem ra chi hội được mùa cưới hỏi vì rằng con trai út của a/c HCLợi, trưởng nữ của a/c KimLinh và con gái út của a/c BìnhHoà từ nay đến cuối năm sẽ thành gia thất. Chi hội xin chúc mừng trước các anh chị và các cháu. Ngoài ra anh Tá và anh Lợi còn cho biết thêm là vào khoảng tháng 6, 2 linh mục Tiến Lộc và LêQuangUy (DCCT) sẽ qua Úc giảng đại phúc và LM Trần Sĩ K’ Tín hy vọng sẽ hướng dẫn một phái đoàn anh em Jarai đến Sydney tham dự Đại Hội Giới Trẻ vào tháng 7. Anh chị em trong chi hội được nhắc nhở chuẩn bị tinh thần mở rộng vòng tay. Trong lúc thao thao bất tuyệt, xem ra TNTá chỉ nhớ đến chuyện người mà quên đi chuyện mình. Do đó mà VNhuận đã phải “can thiệp” và cho bà con biết là cách đây ít tuần lễ, trưởng nam của a/c TNTá vừa khai trương một văn phòng luật sư mới toanh tại Cabramatta – thủ phủ của người Việt tại Sydney – Chúc mừng văn phòng pháp lý Gibson Trần được thành công tốt đẹp. Thành viên chi hội chắc chắn sẽ được hưởng giá đặc biệt trong tinh thần: vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi.

Ngoài ra có tin đồn là có thể đây là lần cuối chi hội tổ chức họp mặt tại nhà a/c Tá vì trong nay mai, anh chị sẽ dọn đến một nơi khác rộng rãi và khang trang hơn. Nếu quả đó là sự thật thì chi hội lại có dịp khilikhitô và làm phiền anh chị.

Sau phần tin tức đó đây, anh chị em được mời nhập tiệc với những món đặc sản do mỗi gia đình mang đến. Cuối cùng là phần hái lộc đầu xuân với những món quà do các thành viên đóng góp. Có điều dễ thuơng là xem ra có những món quà thấy quen quen. Giá vé lần này cũng giống như mọi năm là 3 vé 5 đôla với lời bảo đảm là vé nào cũng trúng. Được biết mục đích việc quyên góp năm nay là dành cho cơ sở truyền giáo tại Tây Nguyên – Việt Nam.

Mở đầu phần hái lộc, 5 cháu bé đã chúc tết thân mẫu của chị Tá là cụ bà Đàm Quang Tính, năm nay 96 tuổi. Sau đó anh NMTâm – đại diện chi hội – trong 1 phút ngẫu hứng – đã có những lời chúc thọ rất chân tình và đánh dấu bằng một màn ôm hôn thắm thiết kiểu tây phương. Để đáp lại tấm thịnh tình đó, cụ bà đã lì xì cho chi hội và chúc anh chị em thành viên mọi điều tốt đẹp trong năm mới.

Xen kẽ với việc hái lộc đầu xuân là phần bán đấu giá với 4 món quà bao gồm 1 chai rượu Remy Martin 1 lít do anh chị NDLâm tặng, 1 chai Johnny Walker – Black Label của cháu ( luật sư ) Anthony Trần và 2 túi mỹ phẩm do bà Văn Ty – một thân hữu trung thành của chi hội – tặng. Tuy lần này thiếu vắng một số xì thẩu máu mặt, thế nhưng buổi đấu giá vẫn diễn ra một cách khá xôm tụ. Túi mỹ phẩm thứ nhất đã được a/c Tâm mua với giá 50$, túi mỹ phẩm thứ nhì về tay a/c Tá với giá 60$. Chai rượu Johnny Walker được anh chị CHT Dũng mua với giá 60$ và chai Remy Martin lọt vào tay a/c NVDũng với giá 120$. Tổng cộng số tiền thu được – kể cả tiền cắc trong loong tiết kiệm – được khoảng 2.200$ và sẽ được chuyển về VN trong thời gian sớm nhất.

Buổi họp mặt mừng năm mới Mậu Tý chấm dứt vào lúc 7g tối, thế nhưng nhóm khilikhitô thì vẫn tiếp tục ở lại hàn huyên. Đặc biệt lần này các bợm nhậu đều tỏ ra rất “ngoan” vì rằng chẳng giấu gì qúy vị, dạo này cảnh sát giao thông ở NSW gớm lắm, phạt thẳng tay. Dân nhậu lái xe, vừa mất tiền, vừa mất điểm, lơ mơ mất luôn cả bằng lái, thì lấy gì làm phương tiện để nuôi vợ nuôi con. Âu đó cũng là điều hay phải không các chị con dâu của cha Thánh.

Trước khi chấm dứt bài viết, một lần nữa xin kính chúc mọi nguời Một Năm Mới tràn đầy ơn Chúa, hồn an xác mạnh và tiếp tục làm chứng nhân nuớc Trời. Hẹn gặp lại qúy anh chị và các cháu trong ngày lễ Cha Thánh.

Tầu Há Mồm ghi nhanh

Tường trình về số tiền thu được

Trong buổi họp mặt mừng

Xuân Mậu Tý

Của Gia đình An Phong Sydney

Tổ chức tại

Nhà anh chị Mai Tá

Hôm Mồng 3 Tết – tức 09-02-2008

*Tiền hái lộc đầu xuân: $475

*Tiền bán đấu giá:

-chai Johnny Walker(a/c CHT) $70

-chai Remy Martin (a/cNVDũng) $120

-Túi mỹ phẩm I (a/c NminhTâm) $60

-Túi mỹ phẩm II (a/c chủ nhà) $50

*Tiền quyên tặng:

-2 lon tiền lẻ(con a/c MaiTá) $664.50

-Cụ Bà Đàm Quang Tính $250

-Anh nguyễn Kim Linh $100

-Anh Nguyễn Đắc Dũng $100

-Chị Nguyễn Thị Tính(Phụng) $20

-A/c Nguyễn Minh Vọng(Hương) $100

-Bác Nguyễn Thị Oanh (Kim) $50

-A/c Nguyễn Hồng Tân (Loan) $100

-Anh PhạmVănChương (cho chẵn)$41

Tổng cộng: $2,200.50

Được biết, số tiền này

Anh CHP Huỳnh Công Lợi

đã trả lệ phí và chuyển về

giúp nhà Buôn Ma Thuột

và Lm Hồ Quang Lâm, CssR

cho biết đã nhận đủ

hôm 13/02/2008.

với lời nhắn như sau:

“Con về thăm Mẹ, hôm nay trở lại đã nhận được quà. Xin cảm ơn các Bác, anh chị trong Gia đình An Phong Sydney đã thương nhớ quan tâm giúp đỡ con và người nghèo tại đây trong dịp Xuân về.

Xin Chúa chúc lành cho các bác và anh chị trong gia đình An Phong trong năm mới Mậu Tý.

(trích email jb HoQLam đề ngày 14/02/2008)