Sunday 30 March 2014

Lm Kevin O'Shea CSsR: Ơn Cứu Chuộc và ý của các tác giả Tin Mừng (bài 9)



Ơn cứu-chuộc
nơi Ngài chan chứa!
_____________________________________________________________
                                                                                                    Lm Kevin O’Shea, CSsR


Chương Hai
Ơn Cứu-chuộc,
và thần-học lịch-sử rút từ Thánh Kinh
(bài 9)


Phần 3:
Ơn Cứu-chuộc,
và ý tác-giả Tin Mừng


Đến đây, tôi muốn hé mở ra để anh em mình thấy được rằng: các tác-giả Tin Mừng khi xưa từng đưa ý-tưởng mới mẻ vào từ-vựng “cứu-chuộc” mà mọi người khi ấy vẫn cứ đặt căn-bản lên cụm-từ “lytron” tiếng Hy-Lạp, bởi các ngài đều hiểu rõ điều Đức Giêsu làm.

Ở đây, tôi dựa phần lớn vào bài viết của Alberto de Mingo Kamimouchi, trong cuốn: But It Is Not So among You: Echoes of Power in Mark 10: 32-45, London, T and T Clark, 2003. Bài này, ban đầu là luận án đệ-trình lên Trường Thần-học Dòng Tên ở Berkeley, California dưới sự bảo-trợ của John Donohue. Tác giả là một linh-mục Dòng Chúa Cứu Thế từng đứng bục giảng-dạy tại Madrid, nước Tây Ban Nha; và lúc ấy là Thư Ký Tổng Quyền Dòng phụ trách linh-hướng.

Sở dĩ tôi chọn mở đầu ở đây bằng tư-tưởng do thánh-sử Máccô ghi, là vì thánh Máccô là tác-giả từng đưa ra tuyên-nhận hay nhất về “Ơn Cứu-chuộc” vẫn cứ bảo: Đức Giêsu đến với trần-gian không phải để được người trần-gian phục-vụ nhưng là để phục-vụ người ở gian-trần; và Ngài đến với con người là để “thí mạng sống Ngài làm giá chuộc muôn người.” (Mc 10: 45)

Ở đây xin nói sơ qua một chút về ngôn-từ. Không biết bên tiếng Việt dịch-nghĩa ra sao, chứ bản dịch tiếng Anh ở đoạn này xem ra dịch hơi “yếu” đến mức không đúng cho lắm. Chúa cho đi, không phải sự sống của Ngài, cho bằng cả “tâm-thân” Ngài. Và, Ngài tặng ban “tâm-thân” Ngài hiểu theo nghĩa cụm-từ “Lytron” bên tiếng Hy-Lạp, là từ-vựng chính buộc ta phải xem xét ngay với tự-vựng tiếng Aram là ‘hoi polloi”, tức khối lượng những người không mang bất kỳ tên gọi một ai hết. Đây là sự-việc nói về “tình yêu dành cho tha-nhân” được hiểu một cách không hạn-hẹp về sự chết của Ngài, nhưng bao gồm mọi thứ thuộc toàn-bộ con người của Ngài và toàn-bộ tất cả những gì Ngài làm trong đời, cả bản-thể Ngài cũng như những gì Ngài làm trong cuộc sống có Phục sinh/trỗi dậy. Đây là sự “cho đi” chính bản-thể của Ngài, chứ không chỉ mỗi cuộc sống rất xác-phàm của Ngài mà thôi. Đó là tính-cách “lytron”, ban đầu được sử-dụng để đề-xuất ý-nghĩa một “thế-chấp bảo-kê” cho những ai được đưa vào tương-quan giao-ước rất miên trường. Họ là ai? Là chúng dân ở khắp nơi, bất cứ nơi nào cũng có họ. Họ là những người bị bỏ rơi, quên lãng, tức những kẻ bị hạ giá/xuống cấp ở bất cứ xã-hội nào đặt dưới hệ-thống quyền-lực hoặc cơ-chế của đế-quốc.

Thánh Máccô đã duyệt ngang qua tiến-trình kiến-tạo ý-nghĩa rất mới cho cụm-từ “lytron” bên tiếng Hy Lạp. Diễn-tả như thế, thánh-sử Mác-cô phải lần từng bước một trong suy-tư/nghĩ ngợi, cũng lo ra hoặc chia trí một đôi chốc. Thánh-nhân không bắt đầu suy-tư về sự việc cứu-độ của Chúa, nhưng vào những suy-tư về quyền-lực và thánh-nhân tự nghĩ phải làm sao đối đầu với những sự việc như thế.

Đức Giêsu ở Tin Mừng thánh Máccô cũng nghĩ ra phương-án bãi-bỏ/lật-đổ quyền-lực. Ngài cũng có ý thực-thi quyền-bính có thẩm-quyền. Vào thế kỷ đầu, điều đó mang ý-nghĩa chống-đối mọi cơ-cấu cũng như động-lực tạo quyền-bính cũng như mạng lưới kiểm-soát do quyền-bính tạo ra. Chính do việc ngang qua sự việc như thế mà cụm-từ “lytron” mang nghĩa về một thứ gì đó rất đặc biệt.  Đoạn văn thánh Máccô viết ở chương 10, câu 32-45 là văn-bản chính-yếu về vấn-đề này. Đây là đoạn nói về “những người xuất đầu lộ-diện ra bên ngoài ngõ hầu lãnh-đạo”.

Ở đây lại cũng xin mở một ngoặc nhỏ để nói rằng: Cụm từ “xuất-đầu lộ-diện” đây dịch từ động-từ “dokeo” có nghĩa như thứ mùi vị biếm-nhạo nói về những người/những vị, lẽ đáng ra, là thủ-lĩnh, nhưng thực tế lại không phải thế.
                                                                                   (còn tiếp)
____Lm Kevin O’Shea, CSsR -Mai Tá lược dịch     

Saturday 29 March 2014

DCCT kỷ niệm 150 được ủy thác phổ biến lòng sùng kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp



Năm 2016: Kỷ niệm 150 năm
DCCT được ủy thác phổ biến
lòng sùng kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp

Roma – Ngày 26/4/2016 là ngày ghi dấu tròn 150 năm phục chế bức linh ảnh nổi tiếng Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp hiện đang đặt tại nhà thờ Thánh Anphong của DCCT tại Roma.
Nhân dịp này, ngày 27/3/2014 vừa qua, Bề trên Tổng quyền DCCT, cha Michael Brehl, C.Ss.R đã gửi đến toàn Dòng một lá thư về sự kiện đặc biệt này.


Trong thư ngài nhắc lại lịch sử thăng trầm của bức linh ảnh cách đây 300 năm cũng chính tại địa điểm nhà thờ Thánh Anphong ngày nay khi ấy là nhà thờ Thánh Mátthêu. Chiến tranh đã phá hủy tan tành nhà thờ Thánh Mátthêu và bức linh ảnh này cũng bị lưu lạc đi đâu không ai hay biết.

Bỗng nhiên, vào ngày 26/4/1866, bức linh ảnh được tái xuất hiện cho dân chúng đến tôn kính tại nhà thờ Thánh Anphong. Đức Thánh cha Pio thứ 9 đã ủy thác cho cha Nicholas Mauron, Bề trên Tổng quyền DCCT bức linh ảnh này với lời nhắn nhủ: “Hãy làm cho cả thế giới biết đến Mẹ”. Các thừa sai DCCT đã ghi khắc những lời này của ĐTC vào tâm khảm.
Cha Michael Brehl Bề trên Tổng quyền DCCT hiện nay đã tuyên bố năm 2016 là năm Thánh kỷ niệm Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp (ĐMHCG). Để chuẩn bị cho năm Thánh này, cha BTTQ đã thành lập một Ủy ban trù bị Trung ương. Tháng 4/2014, Ủy ban này sẽ trình cho Hội đồng Trung ương DCCT kế hoạch sơ khởi.


Ủy ban này gồm có 8 cha: 1 cha Tổng Cố vấn, 1 cha Giám đốc Trung tâm Linh đạo Trung ương, 1 cha thuộc Văn phòng Trung Ương và 5 cha còn lại đại diện cho 5 Liên hiệp DCCT toàn thế giới.

Các Đơn vị DCCT trên thế giới cũng sẽ thiết lập Ủy Ban này ở cấp Đơn vị tương ứng để triển khai cho Đơn vị mình.

Trước mắt, công trình đầu tiên sẽ là Hội nghị về ĐMHCG sẽ được tổ chức tại Campo Grande, Brazil vào tháng 5/2014.

Cha BTTQ kêu gọi mỗi Đơn vị gửi 1 người liên lạc để tham gia sự kiên trọng đại này và để Năm Thánh kỷ niệm này trở thành 1 sự kiện của toàn Dòng. Các nữ Đan sĩ DCCT cũng được mời gọi tham dự.

Friday 28 March 2014

Ơn cứu-chuộc nơi Ngài chan chứa! Lm Kevin O’Shea, CSsR

                                                                   Lm Kevin O’Shea, CSsR


Chương Hai
Ơn Cứu-chuộc,
và thần-học lịch-sử rút từ Thánh Kinh
(bài 8)


Phần 2:
Ơn Cứu-chuộc,
một học hỏi về Đấng Thiên-Sai

Nay, tôi muốn mời bà con anh em ở đây, ta nghiệm xét xem nghiên-cứu mới của tác-giả J. M. Maldame, linh-mục Dòng Đa-Minh (thuộc Tỉnh Dòng Toulouse, bên Pháp) nói về nhân-vật Giuđa Iscariốt. Tiểu-luận này, có tựa-đề là: “La trahison de Judas, Psychologie, histoire et théologie, Domuni, April 2006.

Theo J.M. Maldame, O.P. ta đang đối đầu với những gì Đức Giêsu từng làm, như thể Ngài đã hiểu điều đó, ngay lúc ấy. Dõi theo câu chuyện xảy ra giữa Đức Giêsu và Giuđa, ta thấy Chúa từng cách-ly chính Ngài một cách có ý-thức, ngõ hầu xa rời vị-thế và hành-xử mang tính quyền-lực chính-trị, cả những gì Ngài có khả-năng sử-dụng cho Ngài, nữa. Ngay khi bước vào trạng-thái không-còn-quyền-uy/thế-lực, Ngài đã khám-phá ra ‘chốn miền’ của sự cứu-rỗi mà ta quen gọi là “Ơn cứu-chuộc” dành cho Ngài và cho ta. Điều này hàm-ngụ ý-tưởng bảo rằng: cả ta nữa, có thể ta cũng đến đó và ở lại đó ngõ hầu hiện-thực điều Ngài làm.

Chúa làm thế, với quyết-tâm của Ngài, cả vào lúc Ngài không có quyền-uy thế-lực nào như thế, tức có nghĩa hành-động bao-hàm động-thái cho-đi-chính-mình-Ngài một cách có ý-thức, cốt “thay thế” cho quyền-uy/thế-lực của con người. Nói cách khác, ta có thể bảo: Chúa làm thế vì Ngài biết rõ những gì Ngài làm, lúc ấy. Có thể, sẽ có người lại biện-luận, cho rằng: Chúa nghĩ là việc Ngài làm, có thể sẽ gây ảnh-hưởng mạnh lên thế-giới có quyền có lực để rồi cũng sẽ trút bỏ thành hư-không/trống rỗng, như Ngài muốn.
                                                       ---    
         
Điều quan-trọng ở đây, là: ta nên giữ trong đầu mục-đích của  sứ-mạng Chúa thực-hiện, tức luôn hỏi rằng: Ngài làm thế để làm gì? Và cho ai? Chúa mạc-khải sứ-mạng của Ngài ở Galilê, vẫn tập-trung quanh sứ-mạng của Đấng Mêsia Thiên-Sai theo đúng nghĩa. Thiên-Sai, là Đấng được xức-dầu thành hoàng-tộc, là Đấng thiết-lập Vương-quốc Nước Trời ở trần gian. Ngài được cưu-mang cả trong Đạo lẫn môi-trường chính-trị, cùng một lúc. Ai gần cận Ngài đều trở-thành người dấn-bước ra đi theo Ngài, bởi: họ cứ nghĩ Ngài là Đấng Thiên-Sai theo nghĩa rất “Mêsia”. Ngay thánh Phêrô khi xưa cũng khẳng-định điều đó thay cho đồ-đệ Chúa. Vào khoảnh-khắc rối-rắm tựa hồ như thế (tức: lúc thánh-sử Gioan viết đoạn 6 Tin Mừng của mình), phần đông đồ-đệ Chúa lại đã thôi không còn dấn bước theo Chúa nữa. Họ ngưng, là bởi Đức Giêsu không đáp-ứng được những điều mà họ trông-đợi, tức: họ vẫn nghĩ rằng, Ngài phải là Đấng “Mêsia” theo quan-điểm của họ. Và khi đó, Giuđa Iscariốt (và cả thánh Phêrô nữa) đã ở lại với Ngài. Rõ ràng là, thời gian âm thầm trôi, nhưng đã xuất-hiện sự căng-thẳng giữa điều Chúa muốn hiện-thực với những gì mà kẻ dấn bước theo Ngài lại cứ đòi cho được tính-cách “Mêsia” theo quan-niệm mà họ đợi-trông.

Chúa lên Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, thì người theo Ngài lại cứ nghĩ: Ngài sắp xếp để dựng-xây Vương Quốc Nước Trời ở nơi đó. và họ lại cứ tưởng-tượng thêm rằng: việc tranh-giành quyền-lực theo nghĩa chính-trị sẽ xảy đến rất nhanh. Sự kiện mọi người hăng say gia-nhập “kiệu rước ngày Lễ Lá” mang nặng tầm-kích của tính-chất “Mêsia” mà số đông quần-chúng muốn diễn rộng. Ngay đến Zacaria lại cũng nói: Đức Vua Thiên-Sai sẽ cưỡi lừa mà đến. Và, sự-việc Ngài lên Giêrusalem có cùng một cảnh-trí diễn-tiến sau đó ở đền thờ, được nhìn bằng tầm-kích có lời ngôn-sứ Malakia từng nói đến. Thế nên, niềm hy-vọng của đám đông quần-chúng về công-cuộc thành-tựu của Đấng “Mêsia” theo họ nghĩ, đã khiến mọi người thất-vọng đến độ thảm-thiết. Bởi, ngay cả Chúa cũng muốn khước-từ không chịu hành-xử như người có tham-vọng chính-trị dùng đó làm phương-tiện thiết-lập thứ Vương Quốc Nước Trời theo kiểu người đời. Ngài từ-khước không ban cho giới-chức cầm-quyền khi ấy, bất cứ dấu-hiệu nào có tính hợp-pháp bằng vào hành-xử đặc-trưng có từ Ngài. Ngài muốn tỏ cho bọn họ thấy những gì mà giới cầm quyền từng hành-xử. Ngài khước-từ không làm chuyện mà họ cho là thần-sầu quỷ khốc, rất diệu-kỳ.

Ở đây, cũng nên mở một dấu ngoặc nhỏ để nói thêm rằng: đọc truyện Chúa chịu cám dỗ ở Tin Mừng thánh Mát-thêu, ta nên hiểu theo nghĩa có bối-cảnh tựa như thế. Và, thay vào đó, những gì Đức Giêsu làm vẫn là “giáo huấn” cũng như lời dạy rất chí tình, từ Ngài!

Đức Giêsu biết rằng: chẳng chóng thì chày, Ngài sẽ gặp rắc rối cũng rất nhiều. Cảm-giác Ngài có được khi ấy, quả đúng là vì giới cầm-quyền vẫn nhất mực cho rằng Ngài khiêu-khích họ, thế nên họ mới hãm-hại Ngài cho chết, vì họ chẳng khi nào ưa-thích Ngài, hết. Thêm vào đó, Ngài lại lôi cuốn đám đông quần-chúng cứ lũ-lượt theo Ngài đi vào lễ Vượt Qua đầy ý-nghĩa, khiến giới chức cứ ghét cay ghét đắng Ngài. Ngài chủ-trương đường-lối sống đối-chọi những gì người La Mã muốn diễn ra. Thế nên, hiển-nhiên là Ngài trở-thành mối đe-doạ lớn đối với họ.

Nay, thì Ngài hiểu rõ việc Ngài đi Giêrusalem và hành-xử theo cách Ngài phải hành-xử, tức: Ngài buộc phải tham-gia “trò chơi” mà mọi người muốn đặt Ngài trong tay họ. Ngài biết rõ: bằng vào tính công-minh chính-trực của Ngài, Ngài không thể lùi bước trước bất cứ đe-doạ nào. Ngài chỉ có thể thực-thi công cuộc cứu-chuộc Cha đề ra bằng quyết-tâm như thế, dù điều đó có nghĩa: đây sẽ là lễ Vượt Qua cuối đời Ngài. Ngài tổ-chức yến-tiệc cho đồ-đệ và buổi đó sẽ là tiệc cuối để mọi người tạ từ.

Có người lại cứ vấn-nạn hỏi rằng: Đức Giêsu có là Đấng Thiên-Sai không? Và, làm sao ta biết Ngài là Đấng Thiên-Sai, hiểu đúng nghĩa “Mêsia”? Vấn nạn đây, là trọng-tâm ưu-tư của hầu hết đồ đệ Chúa ở Tiệc Tạ Từ, chiều hôm ấy. Đồ đệ Ngài lại cứ quẩn-quanh một ý-nghĩ vẫn tự hỏi: phải chăng người vĩ đại nhất, hiểu theo nghĩa thông thường của người đời, là người cướp được chính-quyền từ tay đám người đang nắm quyền-lực?

Trong số đồ đệ Ngài, có Giuđa Iscariốt bắt đầu có ý-nghĩ cho rằng: Thày Chí Ái của mình lại đã tự lừa dối chính Ngài, lừa cả đồ đệ và những kẻ dõi bước theo Ngài đến Galilê. Giuđa đã suy-tính nghĩ rằng: Đức Giêsu Thày mình đích-thực đã bội-phản lòng đợi-trông nơi mọi người về Đấng Thiên-Sai mà, lẽ ra, phải khác thế! Chính Giuđa lại đã nghĩ: Thày mình phải bị “vạch trần sự thật” và mọi người phải coi Thày như kẻ mạo-danh Đấng “Mêsia” theo nghĩa mà mọi người ở Giêrusalem từng hiểu biết.

Ở đây, cũng xin mở thêm một dấu ngoặc để nói về trường hợp thánh Phaolô có lần cũng suy-tư tương-tự như thế. Chính vì thế, nên thánh-nhân mới ra tay bách-hại cộng-đoàn tín-hữu tiên-khởi. Và, Giuđa Iscariốt đã có ý-đồ tạo-loạn theo nghĩa hiện-đại, tức: ngầm hiểu rằng: mọi người phải sử-dụng sức-mạnh quyền-lực hay binh-đội mà đổi thay tình-huống. Trong bối cảnh như thế, Giuđa lại đi đến kết-luận cho rằng: chắc chắn Thày mình không là Đấng Mêsia theo nghĩa mà người Do-thái vẫn hiểu. Và khi ấy, lại thấy xảy ra sự can-thiệp hung-bạo từ giới-chức cầm quyền người Do-thái. Ngay luật Torah Do-thái cũng đòi mọi người phải ra tay hành-động giống như thế, nữa.

Ở đây, sự việc này không chỉ có Giuđa là người biết suy-tính như thế mà cả thánh Phêrô cũng làm vậy. Thánh-nhân không chấp-nhận Đấng Thiên-Sai lại chịu nhục-nhã, đầy khổ-ải đến là thế. Và, thánh-nhân lại cũng suy-nghĩ nói thay cho toàn nhóm “Mười Hai”, cũng giống vậy. Và như thế, đã có khác-biệt về ý-nghĩa và vai trò của Đấng Thiên-Sai giữa quan-niệm của Đức Giêsu và các môn-đệ trong nhóm đồ-đệ của Ngài.

Tại Galilê, có lẽ mọi người cũng đang sống trong mơ hồ, đầy mộng-ảo, nên không còn thuận-thảo với nhau về nhiều thứ, nữa. Nhưng không chỉ nơi đây, lúc này, mới thấy sự thể xảy ra như ở Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua năm ấy. Trong đầu người dân đây, thì đó là thời-khắc để mọi người ra tay hành-động trước ai khác. Chừng như mọi người khi ấy vẫn tự bảo mình: “Bọn ta lại cứ tưởng rằng Ông ấy là Người giải-thoát Israel để người người được tự-do, tha hồ mà sống”.

Sự lạ cũng nghịch-thường không kém, nhưng mang tính quyết-định lúc này, là: Đức Giêsu cương quyết bẻ gãy mọi ý-nghĩ như thế bằng uy-lực hành động như đã thấy ở đây, lúc này. Ngài không làm việc đó theo kiểu-cách họ suy-tính. Ngài xử-trí khác ý họ. Và, một khi đã cương-quyết như thế, có thể Ngài cũng gặp hiểm-nguy tạo liên-lụy đến tính-mạng Ngài. Nhưng, Ngài vẫn quyết-tâm không chùn bước dù sự việc có xảy ra như thế nào đi nữa, cũng mặc.

Ở tiệc Tạ Từ, Ngài đã nói thẳng và nói thật rằng: chiếc bánh được bẻ ra là để nối-kết Thân Mình “gãy đổ” của Ngài và nối-kết với tương-lai nền chính-trị từng gãy vụn như thế. Và, Ngài nói rõ: Ngài không đồng-thuận với hành-động như thế cho đến chết, giả như Ngài được yêu-cầu làm thế hoặc vào lúc sự việc xảy ra như thế, cũng vậy. Chiếc bánh Ngài bẻ ra ở tiệc Tạ Từ chính là biểu-tượng cho sự việc Ngài từ-khước mọi quyền-uy/thế-lực về chính-trị. Lời tỏ bày điều đó cho Giuđa Iscariốt khi Ngài nói rõ: việc anh đang suy-tính không thể nào chấp-nhận được.

Nhưng anh ta không hiểu điều Ngài nói, nên mới đi đến quyết-định giao nộp Thày mình, là người mà theo anh, đã phản lại ý của cả dân-tộc Do-thái. Và anh tự nghĩ: chỉ mình anh mới là người khám-phá ra ý-đồ của Chúa nên có trọng-trách phải giao-nộp Đấng “Thiên-Sai-giả” là Thày mình cho quyền-uy thế-trần. Anh làm thế, vì không hiểu hoặc không thể chấp-nhận tính-chất rất mới mà Đức Giêsu Bậc Thày của anh đã mang đến cho giới cầm quyền, cho đồ đệ và mọi người ở đời. Nét đặc-trưng nơi sự việc này là ở bánh-là-Lời-Ngài trong tiệc Tạ Từ hôm ấy đã được bẻ ra và trao cho anh.

Nay, lại có vấn-nạn như thể hỏi rằng: hôm ấy, Đức Giêsu làm thế là có ý gì? Câu trả lời, sẽ là và phải là: Chúa vẫn có ở đó không xa rời ai. Ngài có trực-giác rất thực và biết rất đích-xác tình-hình của Ngài. Ngài biết rõ yến-tiệc hôm đó là buổi cuối để Thày trò gặp nhau. Ngài, quả đã rơi vào tình-cảnh rối rắm về thần-tính, nên mới bảo: “Một người trong anh em sẽ bội phản Tôi”. “Người phản lại tôi đang có mặt ở đây, ngồi cùng bàn với tôi ở tiệc này”.

Ngài nói theo tư-cách lãnh-đạo toàn nhóm như nhóm-hội đoàn-kết. Ngài thừa hiểu tình-tiết tế-nhị rất cùng cực và đầy kịch-tính như để cảnh-giác mọi người trong nhóm, nên mới bảo: “Có người trong nhóm của ta sẽ gãy đổ”. Nhưng, Ngài không nói rõ người ấy là ai. Có thể là bất kỳ ai trong nhóm của Ngài. Ngài biết rõ: có lẽ đây là buổi kết-nối tồi nhất, nhưng không biết người đó sẽ là ai, nên Ngài lại bảo: “Một người trong anh em sắp sửa phản-bội Tôi”. Ngài nói thế, không để khiêu-khích toàn nhóm, nhưng cốt cho thấy Ngài đang ưu-tư về tinh-thần của toàn nhóm, do Ngài dựng. “Một người trong anh em”, câu này được chuyển đến mọi người trong nhóm. Ta biết, ngang qua suy-tư nhận-thức mãi về sau, là: tất cả các môn-đệ Ngài đều biến đi nơi khác, khi thấy Thày mình bị giới cầm quyền bắt giữ. Có lẽ, môn-đồ Ngài làm thế, là vì các thánh nay đã thất-vọng tràn-trề về Thày nên nghĩ rằng: Ngài không phải là Đấng Thiên-Sai như các ngài trông-ngóng.

Thật sự, các bữa tiệc tổ-chức bên phương Đông, tiệc chủ thường hay gắp cho thực khách cùng bàn các miếng ăn ngon/bổ do họ chọn, cốt để vinh-danh vị ấy theo cách đặc-biệt. Cử-chỉ này, tạo ấn-tượng lên tương-quan chủ/khách ở bữa tiệc. Các vị chỉ làm chứ không nói, nhưng cử-chỉ này lại là đặc-trưng quan-hệ đặc-biệt trong cuộc sống. Đức Giêsu cũng tiếp/gắp cho Giuđa Iscariốt một mẩu bánh được Ngài bẻ ra. Ngài thực-hiện cử-chỉ ấy với cung-cách hơi chần-chừ, ái ngại; nhưng để cho Giuđa Iscariốt thấy được cách-thức tư-riêng/cá-biệt Ngài tỏ-lộ. Và khi ấy, qua động-thái tiếp/gắp trao mẩu bánh đã bẻ ra, Ngài có trực-giác biết Giuđa Iscariốt không còn xử-sự như đồ-đệ Ngài nữa, mà chỉ là kẻ kình-chống/đối-kháng, tức: những người không tin vào đường lối xử-sự của Ngài theo cách đó. Ngài vốn biết đồ-đệ nào không tin điều Ngài vừa nói về bánh “được bẻ ra” và cuộc sống có thân mình “bị bể gẫy”. Hành-xử mang tính bằng-hữu này, đã dấy lên nơi Giuđa Iscariốt cơn giận quá mức khiến anh bội-phản Thày mình.

Đức Giêsu thừa hiểu cơn giận ấy không thể lắng xuống nhưng cứ tiếp-diễn tạo hệ-quả “đối-đế”, rất chung cuộc. Đức Giêsu giữ riêng điều này nơi cung lòng trầm-lắng của Ngài. Ngài không muốn cho nhóm đồ-đệ của Ngài biết chuyện ấy, sợ rằng các đồ đệ này, sẽ tức-tốc trả-đũa lên Giuđa. Và, Chúa nói: “Điều anh định làm, thì hãy làm nhanh lên”. Lại có vấn-nạn khác cứ hỏi: sao Chúa không cản Giuđa để anh đừng làm thế? Phải chăng, Ngài vẫn tôn-trọng tự-do của anh?

Từ lúc đó, Giuđa rời bỏ toàn cả nhóm. Anh làm thế, “sau khi” bánh-lời-Chúa được bẻ ra, và “trước khi” Đức Giêsu trao chén-lời-Ngài tặng cho tông-đồ. Chỉ sau khi Giuđa rời yến tiệc, Chúa mới nói đến sự việc Máu Ngài đổ ra cho mọi người. Thảm-kịch do Giuđa thực-hiện xảy đến vào lúc Chúa phán-định trên bánh và rượu. Chúa nâng chén lên miệng như cử-chỉ tượng-trưng hầu diễn-tả tình-huống quyết rằng Ngài đang ở tình-trạng đó, tức: hệ-quả của bội-phản đang diễn ra. Đây, là trạng-thái rất bất-lực.

Bản thân tôi thường vẫn nghĩ: đây là “Ơn cứu-chuộc”, cho chính Ngài và cả ta nữa.                                                                                       
    
                             ----------------

(còn tiếp)
____________________
Lm Kevin O’Shea, CSsR
Mai Tá lược dịch